Tiểu Sử 

Lama Sang 

Guru Kusum Lingpa

TIỂU SỬ TÔN GIẢ ORGYEN KUSUM LINGPA

“Cái đạp của con voi chúa không phải là điều mà con lừa có thể kham. Đó chính là cánh cửa dẫn vào phương tiện và trí tuệ của Bậc Bồ Tát đã trụ giải thoát bất khả tư nghị”.

(Duy Ma Cật Kinh, chương 6, Bất tư nghì, Đường Huyền Trang dịch, bản Việt Ngữ của Tuệ Sỹ).

Ung dung tự tại giữa ta bà với trí huệ vượt không gian và vượt cả thời gian; hiện thân hùng tráng với cái đạp của trí huệ sấm sét của voi chúa vượt mọi quy ước, phá vỡ vô minh, tà kiến; tác phong phi phàm của hàng Bồ Tát đã trụ giải thoát đó hiển lộ uy nghi rạng rỡ qua tôn giả Kusum Lingpa, hoá thân của Kim Cang Thủ Bồ Tát.

Người ta khó có thể hình dung hoặc nghĩ rằng vị Hoá Thân Đại Bồ Tát, đương thời Khai Mật Tạng Đại Pháp Vương, hậu thân của một trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca, lại không phải là nhân vật với hình tướng thanh lịch, nói năng thanh nhã hay êm đềm thiền tịnh như danh xưng của Ngài là Đại Lão Thiền Sư của dòng thiền Đại Viên Mãn. Chân bước khập khễnh, thỉnh thoảng lại dừng bước để đùa nghịch như trẻ thơ cùng hàng tông đồ đang trân trọng nghinh đón; tay vung vẩy điệu múa Dakini, thân rạng rỡ dưới bộ áo hoa phụ nữ rực tươi màu sắc.

Thật là khó hiểu và lạ thường! Nhưng tất cả những điều này không che được oai lực vô hình, sống động và bao la mà tất cả những người chung quanh Ngài đều cảm nhận và quy phục. Sức thu hút và oai lực của Ngài mãnh liệt đến nỗi chỉ cần nhắc tới, nghĩ đến Ngài nhiều người đã cảm thấy được gia hộ và an lạc, hạnh phúc. Khi máy bay của Ngài chỉ cần đến gần, chưa cần đáp xuống; các môn đồ đang chờ đón trong phi trường đã tự nhiên cùng rộn rã, xôn xao và hiểu rằng Ngài đã tới. Lòng kính trọng, yêu mến và tận tuỵ của môn đồ khắp năm châu với Ngài rất sâu đậm. Chuyện có người lái xe hơn ba ngày chỉ để đến đảnh lễ Thầy mình và được Ngài vỗ đầu gia trì trong 5 phút rồi lại ra đi, hay kẻ bay từ nước khác chỉ sớm được 1 tiếng hầu có thể nghinh đón Thầy mình tại phi trường; là những chuyện luôn xảy ra một cách rất bình thường. Các môn đồ đều thân thương nhắc đến Ngài bằng tiếng gọi gần gũi Lama Sang (Bậc Thầy Phật Sống - Lama Sangye). Kẻ viết bài này là một môn đồ tầm thường, sơ học, từ đây về sau xin được phép nhắc tới Ngài bằng danh xưng tôn quý Lama Sang. 

Tiên Tri Về Sự Ra Đời Của Ngài 

Sự nghiệp hoằng pháp của Lama Sang đã ghi dày bao trang sử và văn chương Phật giáo mà chúng ta có thể trở về nguồn từ tiền thân của Ngài là một đại tông đồ của Phật Thích Ca, Tôn giả Ca Chiên Diên, người được chính Phật ban cho danh hiệu Bậc Luận Nghị Đệ Nhất; sang đến Driwulpa một trong 84 Đại Thành Tựu giả Phật Giáo ấn Độ, hay Lhalung Palgi, Palgyi Senge xứ Lang thuộc về 25 Đại Kim Cang hành giả môn đồ thân cận của Tôn Sư Liên Hoa Sanh, người được xem là vị Phật thứ hai ở Tây Tạng. Chuỗi hoá thân thanh tịnh này đã trải qua bao nhiêu kiếp mà trong từng kiếp một Ngài đều hiện thân bồ tát để cứu độ chúng sinh qua các phương tiện phi thường vượt ngoài quy ước, hiểu biết tầm thường của trí tuệ phàm nhân.

Cuộc đời của Ngài đã được huyền ký và lập đi, lập lại bởi chư Tổ và các Hiền Thánh Tây Tạng khác nhau qua hàng trăm năm như Tổ Drupchen Đệ Nhất, Thánh sư Jigme Trinley Oser, Terton Nyima Drakpa, Tổ Dzogchen Mingyur Namkhai Dorje. Những lời tiên tri này đã được ghi lại bằng văn bản và đã được xuất bản trong nhiều thư liệu khác nhau trong các thế kỷ qua và đặc biệt gần đây đang được phát hành rộng rãi vì những tiên tri này đã nhấn mạnh đến những liên hệ giữa các hành năng, hoạt động giác ngộ của Ngài cùng tiên tri về vận mạng thế giới của kỷ nguyên này.

Mọi lời tiên tri đều đã nói y hệt nhau về cuộc đời của Đại Sư trong kiếp này từ thân thế, năm sinh, nơi sinh, tên gọi, cuộc đời, tu tập, chứng đắc, hoạt động và những hành năng giác ngộ của Ngài.

Một hoá thân của Kim Cang Thủ Bồ Tát sẽ ra đời vào năm Tuất (nguyên bản: year of wooden dog) trong vùng núi Achak Drayu nơi phương bắc với tên Od hay Ode (viết tắt của Odyana, vùng đất của Đức Liên Hoa Sanh) hoặc còn có tên là Padma Tumdrak Dorje (Hoa Sen Kim Cang Phẫn Nộ). Sanh trong dòng tộc các hành giả nắm giữ những Mật điển của giáo pháp Kim Cang Thừa, Ngài sẽ lớn lên như một đoá hoa nở bừng, và sẽ tung hoành như một cơn bão cuốn. Để truyền bá giáo pháp Tối Mật của Kim Cang Thừa, Ngài sẽ thiết lập một tu viện trong vùng thung lũng sông Mã với những hàng đệ tử dũng mãnh đông đảo trong giới cư sĩ và xuất gia, bảo đảm được giáo pháp của Như Lai sẽ phát triển đến cùng cực. Những kẻ có duyên với Ngài, sẽ được Ngài đưa về tịnh độ Cực Lạc. Qua nhiều đời hoá thân trên Trái Đất là những vị Khai Mật Tạng Đại Pháp Vương (Treasure Revealer, Terton or Lingpa); Ngài sẽ khám phá trên một ngàn Pháp bảo trong những kho tàng được ẩn dấu từ ngàn năm trước chỉ dành để khai mở vào đúng thời điểm đã định”. 

Thân Thế Và Trưởng Thành Trên Con Đường

Của Định Mệnh Siêu Phàm. 

Dấu ấn của bậc trí huệ siêu việt cùng hành trang năng lực bao la được chuyển tiếp qua một chuỗi bao tiền thân vĩ đại đã hiển hiện rõ ràng trong đời này của Ngài. Từ thời Tôn Giả Ca Chiên Diên, một trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca, người được Phật ban cho danh hiệu là Bậc Đại Trí Luận và thọ ký cho Ngài trong tiền kiếp sẽ đắc Phật quả với danh hiệu là Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai; tiếp đó là bao tiền thân của các bậc trí huệ bậc nhất như Lhopon Powo, Đại Dịch Giả và Học giả Phật giáo Ấn Độ, Palgyi Senge xứ Lang, một trong 8 môn đồ tâm yếu của Đức Liên Hoa Sanh, người đã chứng đắc Như Lai Tạng trong thời ấy với trí nhớ phi phàm, Đại Thành Tựu giả Ấn Độ Driwulpa, Tôn giả Lhalung Palgi một trong 25 tông đồ mật thiết của Đức Liên Hoa Sanh Padmasambhava cho đến kiếp gần nhất Ngài là một vị Yogi vĩ đại với Mật pháp thượng thừa của Đại Viên Mãn phép tu chứng trong một đời cùng pháp Phowa, hộ trì thần thức người chết đi về Cực Lạc Quốc.

Từ thời thơ ấu, khi chỉ còn là một cậu bé nghịch ngợm, nhiều vị tu sĩ đương thời tuy nổi tiếng nhưng chỉ có tiếng tăm về bề ngoài mà không có năng lực hoặc không có Tâm Bồ đề chân thật vì chúng sanh đã nhiều lần khốn đốn vì cậu bé này đã luôn tìm cách lật mặt nạ của họ qua nhiều hình thức.

Cuộc đời của Ngài là thể hiện siêu phàm giữa minh chứng sống động và chân thực của thần thoại lẫn vào thực tế cụ thể của hiện hữu. Thuở nhỏ Ngài từng tu hạnh Khất sĩ và nhập thất nhiều năm. Ngài đã trải qua một quá trình huân tập diệu vợi. Ngài đã theo học hơn một trăm Danh sư, Thánh tăng Phật giáo; trong đó đáng nhớ nhất là Đạo sư lừng lẫy Akong Khenpo, Khenchen Lobsang Namtak người đã truyền dạy Ngài thiền Đại Viên Mãn Dzogchen, hai hoá thân của Do Drupchen Rinpoche đệ tứ, Đại sư Gyaltrul, Vị sanh trong hoa sen Tổ Payul Chogtrul, Khai Mật Tạng Vương Konjo Rangtug Rinpoche v.v... Hành trang tu học của Ngài được hun đúc, hướng dẫn không chỉ bởi các Thánh sư, Thành tựu giả của các tông phái Phật giáo Kim Cang Thừa mà còn do trực tiếp truyền thừa từ chư Phật, các Đại Bồ Tát và Dakini tuỳ thuận nhân duyên đã ban truyền.

Hai bên nội lẫn ngoại của Ngài đều thuộc dòng tộc của các bậc Hiền Thánh và chứng đắc. Thân phụ Ngài là Kim Cang thượng thừa trưởng lão Washi Lama Lhundrup; thân mẫu Ngài là vị Yogini lỗi lạc Padma Lhamso. Khi có mang Ngài, bà đã mộng thấy điềm lành, hiện ra trong mộng là một cây cổ thụ lớn có 1000 nhánh làm bằng mây trắng rực rỡ. Trên mỗi nhánh có một vị Phật đang đọc chú Guru, tức tâm chú của Đức Liên Hoa Sanh “OM AH HUNG VAJRA GURU PAD MA SID DHI HUNG - OM AH HUM BENZA GURU PEDMA SIDDHI HUM”. Khi ấy cả thân, tâm bà cảm nhận an lạc, hạnh phúc nhiệm màu.

Từ nhỏ, Ngài nổi tiếng thông minh, vừa mới 9 tuổi Ngài đã thông thạo Kinh điển và nghi lễ khi vừa mới đọc qua. Thuở nhỏ Ngài từng tu hạnh Khất sĩ và nhập thất liên tục 12 năm. Hành trang tu học của Ngài được hun đúc, hướng dẫn không chỉ bởi các Thánh sư, Thành tựu giả của các tông phái Phật giáo Kim Cang Thừa khác nhau như Mũ Đen, Mũ Vàng, Mũ Đỏ, Sakya etc... mà còn do trực tiếp truyền thừa từ chư Phật, các Đại Bồ Tát, Hộ pháp và các Dakini do tuỳ thuận nhân duyên đã ban truyền cho Ngài.

Cuộc đời của Ngài là chứng thực siêu phàm giữa minh chứng sống động và chân thực của thần thoại lẫn đơn giản, cụ thể của hiện thực. Trong cuốn sách nổi tiếng "Magic and Mystery in Tibet", David Alexander Neel đã nói một cách trân trọng, nể sợ về những vị Lama dòng Cổ mật với chiếc Phurba Kim Cang Quyết đầy quyền lực; thì ở đây người ta có thể lại gần, cúi đầu để được ban phước bởi vị Kim Cang Thánh Sư - Bậc nắm giữ dòng truyền thừa chân chính và oai lực của pháp bộ Kim Cang Đại Lực Kim Cang Quyết Vajrakilaya. Trong ánh mắt từ ái vô biên của Ngài, nụ cười hồn nhiên như trẻ thơ đã đan xen cả oai lực nhiệm màu làm người hung dữ nhất cũng phải quy phục. Chỉ cần ở quanh Ngài là sẽ có bao cơ hội để làm nhân chứng cho những điều huyền diệu xảy ra do gia trì và phép màu của Ngài thị hiện, mặc dầu những điều này sẽ không khỏi làm cho chúng ta bàng hoàng và xét lại nhiều luận lý khoa học.

Năm 8 tuổi là bước đầu rất quan trọng trong tiếp nối truyền thừa của hạnh nguyện và năng lực từ những tiền thân trước. Cùng trong năm này, Ngài đã thọ nhận các linh kiến tiên tri từ chính Đức Phật Di Lặc, Thánh giả Milarepa và Tổ Tsongkapa đã hiện thân đến với Ngài trong giấc mộng. Đây là dấu hiệu báo trước về sự nghiệp tu tập cũng như hoằng pháp của Ngài sẽ phát triển theo hướng bất bộ phái, không phân biệt bộ môn, dòng phái. Và từ đó Ngài đã trải qua một quá trình huân tập diệu vợi như đã nói ở trên để sau này trở thành vị Đại Thánh Sư của mọi dòng truyền thừa Phật giáo.

Sau khi phụ thân qua đời, thân mẫu đã dẫn Ngài và chị về sống và tu học tại tu viện Tartang nổi tiếng của dòng Cổ Mật cũng trong vùng Golok. Trụ trì tu viện này cũng thuộc dòng họ ngoại của Ngài. Tại đây Ngài đã thọ giới tăng sĩ và nhập thất liên tục nhiều năm dưới chỉ huấn của các Danh sư trong đó có đại học giả lừng danh Akong Khenpo, vị này đã thực hiện và hoàn tất việc nghiên cứu và kết tập 100 bộ Kinh điển Phật giáo quan trọng.

Khi ở tu viện Tartang và đang theo giới tăng, thực hành hạnh Khất sĩ, Đức Vajrapani tức Kim Cang Thủ Bồ Tát đã hiện ra trong thân tướng nửa phẫn nộ, nửa hiền hoà (chỉ dấu hành năng thị hiện tương lai của đời Ngài), và cho Ngài biết rằng để thực hiện sứ mạng hoằng pháp huyền nhiệm trong đời này, hạnh tăng sĩ không thích hợp cho công việc sẽ làm. Ngài sẽ phải tìm một hoá thân của Dakini (không hành thiên nữ) làm phối ngẫu, nhận Mật ấn Kim Cang để nhập thế gian, hoằng Diệu pháp. Kim Cang Thủ Bồ Tát cũng nói rõ Ngài sẽ trở thành vị Khai Mật Tạng Đại Pháp Vương, người sẽ khai quật 3 loại Pháp bảo từ Pháp Tâm Truyền, Pháp Bất Khả Tư Nghì hay Diệu Pháp được thể hiện qua những hành năng bất quy ước của các Đại Bồ Tát hoá thân tuỳ căn cơ chúng sanh thị hiện gia độ, cho đến Siêu Mật Pháp là pháp chỉ có thể khai mở được bởi vị Bộ Tát đã chứng 18 cấp độ của các loại Pháp bảo. Trong kiếp này (cũng theo thông điệp tiên tri của Kim Cang Thủ) Ngài sẽ khai quật các Pháp bảo quan trọng sau:

- Mật Bộ Kim Cang Trì,

- Mật Bộ Tam Bảo,

- Mật Bộ Đạo Sư Quán,

- Mật Bộ Thành Tựu của 9 vị Thánh Tôn Trí Huệ,

- Mật Bộ Yamantaka (hiện thân phẫn nộ để hàng phục ma nghiệp trong thời Mạt pháp. Trong tiên tri của các vị Tổ khác cũng nhắc đến việc này và cũng thêm rằng sau khi bộ pháp này được Ngài khai quật, do công đức này Chánh pháp của Như Lai sẽ kéo dài trên đất này thêm một kỷ nguyện ngoài thời gian đã được định sẵn)

- Mật Bộ Hayagriva (Quán Âm Mã Đầu Minh Vương),

- Mật Bộ Vajravarahi, Kim Cang Hợi Mẫu,

- Mật Bộ Dakini Đầu Sư Tử,

- Mật Bộ Như ý, Tài Bảo...

Và nhiều Mật bộ quan trọng khác. (Cho tới nay những Mật tạng nói trên đều đã được khai quật trong nhiều trường hợp khác nhau, từ khe hở trên vách đá của sườn núi cao vợi, đến một chỗ dấu từ nghìn năm trong một tu viện cổ hay Mật tạng tâm truyền giữa không gian.)

Từ 13 tuổi trở đi, qua linh kiến, Ngài bắt đầu thường xuyên nhận lãnh truyền dạy trực tiếp từ Đức Liên Hoa Sanh, Dakini Yeshe Tsongyal, Vajra Yogini, Kim Cang Thủ Bồ Tát và một số các vị Phật, các vị Đại Bồ tát khác.

Đến năm 16 tuổi, thân mẫu qua đời. Cuộc đời của Lama Sang bước sang giai đoạn thứ hai theo tiên tri là chứng đắc và hoằng pháp, độ sanh. Theo hướng dẫn và linh kiến của một vị thầy Ngài đang học trong thời gian đó là Gyapto Umbo, nếu muốn đắc giải thoát, Lama Sang phải gặp vị Thầy định mệnh của mình trong đời này là Khai Mật Tạng Vương Konjo Rantug Rinpoche. (Đây chỉ là một trong những tên, Ngài còn mang hiệu Nhagla Changchug Dorje hay Khenchen Tsewang Rigdzin). Vừa nghe đến tên Thầy, Ngài rung cảm mãnh liệt và đột nhiên oà khóc. Đạo sư Gyapto Umbo đặt hai tay lên đầu để chúc phúc cho Ngài và cho biết rằng đến thời điểm để ra đi.

Cậu bé mồ côi Kusum ngày ấy bắt đầu cuộc hành trình nhận biết và tìm về định mệnh cũng như sứ mạng của đời mình trong kiếp này. Ngài cùng chị cũng là một hành giả Phật giáo rất thanh tịnh, chuyên tu hạnh xả ly và pháp môn Bồ Đề Tâm, rời tu viện Tartang cùng dẫn nhau đi về hướng Lhasa để tìm Thầy. Hai chị em đi bộ qua hàng tháng ròng rã, dưới thời tiết rất khắc nghiệt của Tây Tạng và cuối cùng Ngài đã gặp được Konjo Rangtug Rinpoche, khi ấy đã 113 tuổi. Vừa thoạt nhìn thấy nét mặt sắc vàng uy diệu của Thầy, Lama Sang đã tức thời thức tỉnh dấu ấn của trí tuệ và công hạnh từ bao tiền thân dạt dào, Ngài dứt lìa được tri kiến phàm phu, dứt trừ ngũ lậu, đắc A La Hán.

Lama Sang và chị ở lại học với vị Thầy định mệnh này một thời gian rồi sau đó từ giã Thầy lên đường tìm về tu viện Samye để thực hiện giai đoạn ba trong hành trình khai mở và tiếp nối dấu ấn trí huệ của tiền thân. Samye là tu viện Phật giáo đầu tiên tại Tây Tạng do chính Đức Liên Hoa Sanh và Ngài Tịch Hộ Shantarakshita xây dựng. Cuối cùng Lama Sang và chị đã tới được Samye vào năm 17 tuổi, chính tại đây, Ngài đã linh nghiệm pháp thân trong trí tuệ Tánh Không Bát Nhã diệu vợi. Riêng Khai Mật Tạng Vương Konjo Rangtug Rinpoche, chính quyền chiếm đóng Trung Quốc thời đó lo sợ ảnh hưởng của Rinpoche nên đã tìm đến để bắt Ngài cầm tù. Khi bị dẫn đến cửa nhà tù, trước sự chứng kiến của nhiều người, Rinpoche đã bay lên không trung, hiện thân cầu vồng và biến mất trong nỗi bàng hoàng khiếp sợ của kẻ đi bắt Ngài.

Trong dịp viếng chùa Samye, vào năm Tỵ hành Hoả, ngày 10 tháng 10 lịch Tây Tạng khi trú và ngủ lại bên ngoài thềm một chùa nhỏ thuộc về hướng Tây của chùa chính Samye, Lama Sang đã thiền định sâu đậm về lòng từ bi của Đức Liên Hoa Sanh Guru Rinpoche. Trong lúc nhập định, Guru Rinpoche đã thị hiện trong thân tướng Bổn tôn phẫn nộ Heruka, tay cầm gương pha lê trong đó có 21 chữ AH (tượng trưng cho tánh không Bát Nhã hay Pháp Thân). Trong mỗi một chữ của 21 chữ Ah này chính là Guru Rinpoche thị hiện và đọc chú liên tục “Ah, Ah, Ah, Ah..." Toàn thân của Ngài cảm chứng Hỷ Lạc và đồng thời nhận Tứ Quán Đảnh Trí Huệ được ban từ Đức Liên Hoa Sanh.

Đức Liên Hoa Sanh tiếp tục đọc 21 lần chữ Hri (tâm chú của Phật A Di Đà Amitabha), toàn thân Ngài Kusum tan biến thành ánh sáng và bắt đầu cuộc du hành về Tịnh độ phẫn nộ của cõi tha ma rực lửa. Đây là Tịnh độ cao cấp nhất của Pháp thân. Linh quang của Ngài theo sát Bổn Tôn phẫn nộ Heruka (là Đức Liên Hoa Sanh thị hiện) như cha với con. Ngài đã nhìn thấy mình vượt qua núi lửa Zalung Dha tuyệt đẹp của Tịnh Độ Phẫn Nộ, rồi được chim Ca Lăng Tần Già của cõi Tịnh Độ hướng dẫn Ngài bằng tiếng hót tuyệt vời đến gặp một vị Hộ Pháp của dòng Longchen Nyingtik.

Sau đó một thiên nữ áo trắng rạng rỡ ngồi trên sư tử núi đến giúp Ngài du hành qua Tịnh nộ Phẫn Nộ đến gặp vị Phật của quốc độ thanh tịnh này là Đức Phật Tongpa Jona Pawo Thubten đang được vây quanh bởi hằng hà sa số thiên nữ, thiên nam, chư vị Bồ Tát, Thiện thần cùng các quyến thuộc. Vị Phật này giảng Kim Cang pháp cho Lama Sang. Tức khắc Ngài được truyền Tam thừa Kinh Mật, Bí Mật tạng. Gia trì của cõi Phật Tịnh Độ này tuôn chảy, rót chan hoà vào Ngài.

Thiên nữ áo trắng này tiếp tục hướng dẫn Lama Sang lên tầng trên của cõi Tịnh Độ Phẫn Nộ, tại đây Ngài đã gặp Kim Cang Đại Lực Sĩ Vajrakilaya Kim Cang Quyết và vô số Hộ pháp đang vây quanh. Ngài đã nhận giới của Thành Tựu Giả và quy y Tam Thừa Kim Cang (Đạo Sư, Bổn Tôn hay Hộ Pháp và Dakini) từ Vajrakilaya (đây là điềm báo Ngài sẽ trở thành Vị nắm giữ dòng truyền thừa trực tiếp của Pháp Bộ Vajrakilaya). Sau đó Hộ pháp Ekajati đã hiện thân và tiên tri hướng dẫn trước cho Ngài về tương lai.

Trong dịp này, Ngài đã nhớ lại 17 tiền thân của mình, trong đó có kiếp Ngài đã là chim Phượng Trĩ, có kiếp Ngài là Đại Tăng lừng danh bên Trung Quốc, làu thông Ngũ Minh (Thanh Minh, Nhân Minh, Công Xảo Minh, Y Phương Minh và Nội Minh), có kiếp Ngài là Thành Tựu giả Mật thừa bên Ấn Độ v..v..

Và cũng từ đó Ngài nhận được linh kiến về một sứ mạng tương lai của Ngài, đặc biệt liên hệ đến định mệnh của thế giới. Trong kiếp tương lai này, Ngài sẽ là một trong những Vị Hộ Pháp chính để bảo trì Chánh pháp, an lạc và hoà bình cho cõi Địa cầu. Khi ấy, Ngài sẽ sinh làm Tsampa, trưởng tử của vị Nhiếp Chính thứ 25 của cõi Shambala (Bạch Ngọc Thành - Theo Kinh điển tức là cõi cực lạc siêu việt nằm ẩn sâu ở vùng núi tuyết trên mặt đất. Đây là một vị trí linh thiêng, chỉ các bậc thành tựu tâm linh mới thấy và tới được, người thường không thể đến và thấy.) Vào lúc ấy do nghiệp lực chúng sanh, những kẻ hung dữ, bạo nghịch, báng Pháp sẽ lan tràn, tàn phá, gây khổ đau khắp nơi, huỷ hoại giá trị của đạo đức và Chánh pháp. Chúng sẽ tìm đến và đánh phá để huỷ diệt thành trì tâm linh cao quý của cõi Địa cầu là cõi cực lạc Shambala. Trong trận chiến cuối cùng ấy, Ngài sẽ thống lãnh bộ binh đoàn của Shambala và chiến thắng quân đoàn của Ma đạo, gìn giữ và kiến tạo hoà bình, an lạc và Chánh pháp cho Trái đất cùng thế giới.

Linh kiến này đã thể hiện rõ ràng trong sự nghiệp hoằng trì Chánh pháp của Ngài. Bộ pháp Kim Cang Đại Lực Sĩ (Vajrakilaya) cùng Đạo Sư Quán (Guru Yoga) thường được xem là các pháp bộ chính mà Lama Sang trao truyền cho các môn đồ. Hiện nay đã có rất nhiều trung tâm Vajrakilaya được thiết lâp khắp năm châu.

Trong lúc giảng Pháp, Tôn Giả thường nhắc nhở các môn đồ, hành giả Kim Cang phải lập nguyện kiên cố tu trì để hộ thân mình và chúng sanh trong thời đại dữ dội này và cũng để chuẩn bị hành tranh cho sứ mạng hộ trì thế giới ở kiếp tương lai.

Lòng Thành Với Các Đạo Sư 

Trong Kim Cang Thừa, giới trọng nhất là giới Đạo Sư. Người ta thường nói rằng, một bậc Thầy chân chính là cánh cửa đầu tiên dẫn vào giác ngộ, hoặc không có bậc Thầy thì ngay cả một chữ "Phật" bạn cũng khó lòng nghe thấy. Quan hệ Thầy - trò đóng vai ưu tiên trong việc thành tựu của một hành giả Mật thừa. Quan hệ này bởi nhân duyên, bởi lòng thành, bởi phước báu, bởi nỗ lực nơi hành giả mà thiết lập và phát triển. Mức độ thành tựu của hành giả tuỳ vào mức độ phát triển quan hệ Thầy - trò giữa hành giả và vị Đạo Sư truyền giới và truyền Pháp. Khi đã thuần thục và viên mãn, Tâm trò kết vào Tâm Thầy không còn phân biệt thì Trò sẽ đắc mọi Pháp mà Thầy mình đã chứng đắc. Quá trình này rất công phu, nhiệm màu và siêu việt. Ở đây chúng ta chỉ nhắc đến mức độ truyền cảm sâu đậm giữa Thầy và trò.

Không chỉ là một bậc Thầy vĩ đại, Ngài còn là một người học trò tiêu biểu. Lòng thành của Ngài với các bậc Thầy Ngài đã theo học được biểu hiện thiết tha mỗi khi Ngài nhắc đến các vị Thầy trong các buổi giảng pháp. Hình ảnh của các vị Thầy thường được in màu và phát cho các môn đồ để quán tưởng hầu nhận được gia trì của các Ngài. Lama Sang luôn để cập đến lòng tử tế vô biên của các vị Thầy kể cả qua những lần Ngài bị phạt vì tội nghịch ngợm. Nhìn Ngài để hình của Thầy mình lên đỉnh đầu với tất cả sự cung kính, trân trọng, trong khi bật cười kể những kỷ niệm vui của Ngài với các Thầy, người ta có cảm giác như Lama Sang đang thực sự sống trong khung cảnh hành chục năm trước dưới chân Thầy. Như đã nói ở trên, bậc Thầy của Ngài không chỉ mang thân tướng hữu hình thế gian, mà còn là các vị Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp và Thiên Nữ của thế giới tâm linh vô hình.

Một kỷ niệm mà người viết không bao giờ quên được là trong một khoá tu hàng năm ở San Diego cách đây hai năm trước vào mùa thu 2005; đang giảng Pháp đột nhiên nét mặt Ngài đổi khác, vẻ nghiêm nghị của giảng sư chợt đổi thành nét lặng buồn, xa vắng và tràn đầy xúc động. Ngài bỗng bất chợt nói chuyện về ngôi chùa Samye ở khu Lhasa với mái màu lam ngọc, ánh sáng mờ mờ trong ngôi điện chính với bậc Thầy mà không ai khác hơn chính là Tôn Sư Liên Hoa Sanh khi đó đang ban truyền pháp Tài Bảo, Như ý Orgyen Dzambhala cho Ngài là Lhalung Palgi, một trong 25 môn đồ thân cận nhất và là người đã được chọn để làm người kế thừa pháp Như ý, Tài Bảo Mật Bộ Kim Cang Orgyen Dzambhala (và là tiền kiếp của Ngài).

Cả giảng đường lặng yên, tất cả đều bao phủ bởi làn không khí màu nhiệm và năng lực sống động qua từng dòng, từng tiếng nói qua câu chuyện kể của Ngài. Mọi người như cùng Ngài ngược dòng thời gian về hơn 2000 năm trước trong sự gia trì vô biên mà như đang cận kề của Đức Liên Hoa Sanh và Tôn Giả Lhalung Palgi.

Rồi Ngài chợt trở lại, thật ngậm ngùi, dường như cũng vương vấn và tiếc nuối bảo các môn đồ rằng...” Thầy tôi (Đức Liên Hoa Sanh) thật tử tế biết bao nhiêu, Ngài luôn bắt tôi tu tập khắt khe để có được kết quả trong một đời. Ngày nay tôi không may mắn như vậy vì môn đồ của tôi lười biếng hơn, lại thích chạy theo những giá trị vật chất tạm thời, các danh xưng giả hiệu mà không chịu trú tâm tu tập; khi có nạn lớn làm sao có đủ năng lực và phước báu để hộ thân. Lòng từ bi của Thầy tôi (Đức Liên Hoa Sanh) đã cho chúng tôi, và để truyền đến các quý vị ngày hôm nay thật bao la, vĩ đại biết bao! Nhưng quý vị thường không hiểu và để mất những cơ hội vô cùng quý báu...”

Ngài yên lặng, cả giảng đường nín lặng. Tôi rơi lệ, Lama Sherab Dorje rưng rưng nước mắt, tất cả mọi người cùng muốn khóc... 

Kim Cang Bất Hoại 

Khi Trung Quốc vào chiếm đóng Tây Tạng, Ngài cùng hơn 400 tăng sĩ, hành giả quan trọng của Phật giáo Tây Tạng đã bị cầm tù vì tội sinh hoạt tôn giáo và xúi giục tu tập. Sau khi trải qua các đày đọa khắc nghiệt của chính sách tù đày chỉ có 4 người còn sống sót. Trong số này có Ngài và một vị Lạt Ma hiện vẫn còn sống và tiếp tục sinh hoạt tại tu viện Thubten ChoKhor Ling. Thời ấy, không một ai được quyền mang chuỗi hạt, không nhà nào được để hình Phật, kể cả màu áo tăng sĩ màu đỏ cũng không được phép sử dụng. Riêng Ngài nhất quyết không chối bỏ tôn giáo của mình dù phải trả một giá nặng nề cho thái độ tâm linh của mình. Vì thế Ngài đã bị bắt giữ, ra vào tù rất nhiều lần, trải qua đến hơn 23 năm, trong thời gian này Ngài cùng các Hộ pháp linh thiêng đã thị hiện biết bao nhiêu phép lạ làm kẻ chiếm đóng bạo ngược cũng phải sợ hãi. Họ tìm cách trấn áp oai lực của Ngài bằng cách tìm đủ cực hình dã man nhất để chứng minh rằng những gì gọi là Kim Cang bất thoái cũng phải chịu thua bạo lực. Dưới tuyết lạnh hơn 0 độ, họ cởi trần và cột Ngài trên tảng đá lạnh, tay chân dang rộng buộc vào đá. Giữa những ngón tay và ngón chân nhét gỗ để chặn cho không thể cử động được, và bỏ mặc Ngài cùng một số bạn tù ngoài tuyết lạnh nhiều ngày.

Người ta vẫn thường đồn rằng chung quanh Tôn giả Kusum luôn có Hộ pháp Kim Cang độ trì và điều này đã được chứng minh. Sau một tuần lễ, khi bao người bỏ mạng, Ngài vẫn còn sống. Dù những ngón tay, ngón chân đã bị tê dại không còn cảm giác, có ngón đã gẫy rụng, năng lực tu tập hoả hầu của bậc thượng thừa đã tồn dưỡng sinh mạng Ngài. Trong lúc đó một hiện tượng xảy ra, kẻ đã ra lệnh hành hình Ngài đột ngột chết một cách lạ thường. Họ vội vàng thả Ngài ra, theo nhân chứng thuật lại sau đó thêm một số những kẻ trực tiếp hãm hại Ngài cũng lần lượt chết đột ngột và chết dữ theo đúng luật nhân quả Kinh sách đã dạy về tội làm huỷ hoại, chảy máu thân Phật, thân Đại Bồ Tát thì nghiệp quả đến liền và phạm tội vô gián (ngày nay chúng ta có thể nhìn thấy kết quả tương tự nơi chính quyền bạo lực Taliban đã bị huỷ diệt ngay sau khi họ phá tượng Phật cổ vĩ đại từ thế kỷ thứ 3).

Khi ở trong khám, các nhân chứng còn sống sót thường kể lại rằng khi không có quản giáo nhà giam, Ngài thường thị hiện tháo rời còng tay để chứng minh cho các Lạt Ma cùng giam rằng không có gì quản thúc được thân thanh tịnh. Nhưng cũng chính trại tù cũng là nơi Ngài dùng làm chỗ an toàn nhất để tu tập và bí mật truyền pháp cho những người có duyên được ở gần.

Tôn giả cũng thường phân thân, thị hiện nhiều thân để giáo hoá và hỗ trợ tín tâm, sức mạnh cho dân Tây Tạng trong giai đoạn khổ đau trên. Một thân Ngài ở trong trại tù, vẫn chịu đoạ đày mà theo Ngài giảng giải là để chịu khổ giải nghiệp dữ của chúng sanh. Cùng lúc, người ta lại thấy Tôn Giả Kusum đi khất thực ở một vùng lân cận. Khi quản tù nghe tin, vội lại bắt giữ thì Ngài biến mất. Về tìm ở trại tù, Ngài vẫn còn ở đó làm việc không ngưng nghỉ dưới sự nghiệt ngã của cai tù. Phong độ phi phàm của hàng Bồ Tát đã trụ giải thoát, giữa khó khăn cùng khắp vẫn ung dung tự tại, rong chơi an lạc giữa cõi ta bà đã điều phục tâm một số người trước đây là kẻ hành hạ Ngài, nay dù vẫn còn thuộc chính quyền sở tại đã trở thành môn đồ của Phật giáo với niềm tin kiên cố vào Tam Bảo và nơi bậc Đạo Sư chân chính. Điều này đã tạo nhiều thuận lợi về sau này cho việc thành lập Tu viện hiện nay.

Để giáo hoá chúng sinh, suốt đời Ngài đã từ bi thị hiện nhiều sự nghiệp kỳ diệu như trị bệnh, cứu người sống lại, khiển mưa, trừ tà... 

Chữa Bệnh Dịch Phong Cùi 

Y như lời tiên tri đã được ghi lại, khi Ngài gần 20 tuổi, tại Tây Tạng dịch phong cùi bộc phát nơi miền nam Golok, không có cách gì chữa trị. Những người bệnh phải tập trung vào một vùng biệt lập. Họ sống rất đau khổ, từng phần thân thể bị huỷ hoại dần bởi vi khuẩn bệnh cùi, xa cách với người thân, xã hội bên ngoài, không ai dám lại gần vì sợ lây bệnh. Nguy hiểm hơn là bệnh đã lan rộng ngoài tầm kiểm soát, không có biện pháp hữu hiệu nào để phòng ngừa hoặc cứu chữa. Chính lúc đó Tôn Giả Kusum đã nhận được linh thị và khai mở kho tàng tâm Mật Tạng Kim Cang Thủ Vajrapani. Bằng tâm từ bi bao la, Ngài đã đi một mình vào vùng phong cùi, dạy cho những người bệnh thực hành pháp tu Kim Cang Mật bộ và dùng oai lực của mình dưới gia trì của chư Phật chữa trị cho họ đồng thời chặn đứng việc lan truyền của dịch phong cùi. Dưới năng lực Kim Cang Bất Hoại dù ở chung với người bệnh bao ngày, Ngài không hề bị nhiễm bệnh.

Ở đây cần nhắc lại rằng hành năng Đại Bồ Tát này của Ngài đã được tiên tri rất chi tiết bởi các Thánh Tổ Phật giáo từ mấy trăm năm trước. Oai lực Kim Cang của Ngài được thể hiện trong mọi sinh hoạt, phương diện của đời sống. Ngài thị hiện tuỳ theo nhu cầu, tâm tính của chúng sinh để cứu độ. 

Hàng Ma, Phục Quỷ 

Thuở Ngài còn trẻ tuổi, tại một làng ở Tây Tạng trong một gia đình chuyên luyện tà ngải đã bao đời; do từ trường của tà pháp khi người cha chết đã trở thành quỷ nhập tràng khuấy phá gia đình và dân làng. Quỷ nhập tràng là một loại quỷ dựa vào thân xác người và có thể đi lại sinh hoạt theo tính khí của quỷ. Điều đáng sợ là nó có một sức mạnh khủng khiếp, có thể đẩy một lúc 6 người thanh niên mạnh mẽ hay xô đẩy cả một căn nhà; nó chính là một xác người nhưng không chết. Bao nhiêu pháp sư được mời tới đều bị đánh bại hoặc giết chết. Cuối cùng, người ta tìm được tới Tôn Giả, khi ấy còn trong tuổi thanh niên. Ngài đã thị hiện Vajrakilaya Kim Cang Lực Sĩ và hàng phục quỷ nhập tràng, độ cho nó siêu thoát, chấm dứt ác nghiệp và dẹp đi khủng hoảng, mang lại bình yên cho dân làng rồi sau đó hoá độ, hướng dẫn cho họ thực hành thiện nghiệp, dứt bỏ ác nghiệp. 

Hoằng Pháp tại Mỹ 

Ngài là bậc tâm thông với trí huệ vượt không gian và vượt cả thời gian. Ngài cũng là nguồn cảm hứng tâm linh vô cùng mãnh liệt cho những người hữu duyên gặp được Ngài. Chadug Rinpoche, một Danh sư của Phật giáo Kim Cang Thừa và đã thành lập rất nhiều trung tâm Phật giáo Tây Tạng trên thế giới, kể cả tại Mỹ. Khi còn sống, Chadug Rinpoche đã bày tỏ ước vọng muốn được gặp Ngài Kusum Lingpa để xin thọ một số pháp môn thượng thừa Tối Mật. Sau đó, hơn mười năm trước trước đây, Rinpoche đã thỉnh mời Tôn Giả Kusum Lingpa sang Mỹ để truyền giáo. Từ đó, nhân duyên của Tôn Giả cùng các Phật tử bên Mỹ đã nở rộ như hoa đào đang xuân. Theo truyền thống bất bộ phái của hàng Đại Bồ Tát hoá thân, Ngài cũng thọ nhận và trao đổi một số bộ pháp Tối thượng thừa với Đức Đalai Lama và nhiều Danh sư thuộc những dòng phái Kim Cang khác. 

Linh Kiến 

Với Ngài, dường như thời gian không có rào cản, linh thị xuất hiện không báo trước; có thể bất chợt xảy ra trong sinh hoạt thường nhật của Ngài hay cả khi đang giảng pháp. Vài năm trước đây, khi đang chờ lên buổi giảng sáng tại một trung tâm ở Coosbay của Judy và Clyde Crawford, chợt Ngài rung động với truyền cảm khai quật một tâm pháp Tối mật. Một môn đồ Sherab Dorje khi đó là luật sư hình luật nổi tiếng ở New York, trong vai trò thông dịch đã được gọi đến để ghi lại (Hiện vị này đã từ bỏ nghề luật sư để tập trung tu học và đã mở trung tâm Kim Cang Phật giáo Blazing Wisdom tại tiểu bang New York). Lama Sherab Dorje sau hai ngày ghi chép đã thuật lại rằng năng lực Pháp bảo tâm truyền vô cùng dạt dào và mãnh liệt. Tôn Giả đã khai mở Pháp bảo tâm truyền này qua những dòng kệ thơ tuôn chảy liên tục như thác đổ không ngừng nghỉ, có khi Ngài ngừng lại để đích tay vẽ hay hướng dẫn người ghi chép lại biểu đồ của các mandala bí mật. Tại San Jose, giữa buổi giảng pháp, Ngài chợt ngừng lại để chia sẻ cùng các môn đồ những linh thị về tiền thân và tiên tri cho hiền kiếp. 

Thị Hiện Oai Lực Để Cứu Độ Tại Mỹ 

Trong quá trình sinh hoạt hoằng pháp cứu nhân độ thế của Ngài tại Mỹ, người ta đã chứng kiến bao nhiêu kết quả nhiệm màu qua pháp lực siêu việt và lòng từ bi tha thiết của Ngài. Như ngón tay của Phật Thích Ca chỉ xuống mặt đất “Ta Bà (trái đất) là chỗ chứng minh” để trả lời câu hỏi của Ma Vương: ”Làm sao tôi tin được lời Ngài nói?” Chứng tích, oai lực của Tam Bảo và hành năng giác ngộ của Ngài được biểu hiện qua các sự việc linh động, màu nhiệm ngay trong đời sống của các môn đồ từ California, San Jose, đến Colorado, Oregon, New York...

Mới đây, trong số môn đồ có người bệnh nặng, bệnh viện đã cho là tuyệt vọng, trước khi vào hôn mê, đã theo đúng pháp tu: Chí thành cầu nguyện Phật Bổn Tôn và cầu nguyện Ngài cứu độ. Trong cơn hôn mê, vị này thấy Tôn Giả hiện ra bảo không việc gì, mọi chuyện sẽ thoát. Sau đó, người này tỉnh lại và qua khỏi cơn nguy cấp, nay đã trở lại sống và sinh hoạt như bình thường.

Có nhà tại California bị ma ám, người nhà tự tử chết, do uất ức nên không siêu được, đã chết rồi còn hiện ra giữa ban ngày, bao nhiêu đàn cầu siêu không giải được. Đại Sư được thỉnh đến đã giải oan, tế độ cho người chết và lại hoá độ cho cả gia đình học hỏi Phật Pháp, làm lành lánh dữ. Vợ chồng gặp khó khăn, gia đạo xào xáo, bằng con mắt thần thông trí huệ Tôn Giả đã giải thích cho họ về nghiệp báo và hướng dẫn họ tạo dựng hạnh phúc bằng giá trị chân chính. không môn đồ nào không cảm nhận ân đức cứu độ của Ngài từ cứu bệnh, cứu khổ, cứu đói, cứu tù, hàng ma, phục quỷ và cuối cùng là hướng dẫn rốt ráo của bậc Đạo Sư Giác ngộ. 

Hoằng Pháp Dạy Chúng 

Như tiên tri đã ban trực tiếp cho Ngài từ thời thơ ấu qua linh kiến thị hiện của Kim Cang Thủ Bồ Tát, Tôn Giả hoằng pháp, dạy chúng tuỳ theo căn cơ, nhân duyên của mỗi người. Với những bậc tân học hay thiếu căn (tật nguyền) Tôn Giả truyền những pháp môn căn bản và dễ theo như: Quy y, phát Bồ Đề Tâm, trì Chú, lạy Phật diệt tội, quán Tịnh Độ Cực Lạc và hồi hướng. Với kẻ hữu duyên, Tôn Giả từ từ phát triển Bồ Đề Tâm, thiền Tứ Diệu Đế, Tánh Không Bát Nhã, tu tập các pháp tu Kim Cang Thừa căn bản. Khi tâm đã thuần, tánh đã thông, trí huệ thanh tịnh hiển lộ, Tôn Giả sẽ gia trì, dẫn dắt vào dòng thiền Đại Viên Mãn của phép tu chứng thượng thừa.

Tôn Giả không chỉ dạy pháp mà chính Ngài là một bài pháp sinh động, tuyệt vời và là nguồn cảm hứng tâm linh vô cùng mãnh liệt cho bao kẻ hữu duyên gặp được Ngài. Là một thiền sư siêu tuyệt của dòng thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen), Ngài thường dùng các phương tiện thiện xảo với lối chỉ dạy đột xuất, mạnh bạo, bất quy ước và hiệu quả nhanh chóng ngay trong đời này. Cả đại chúng đông đảo đang chắp tay tín thành chờ đợi, Ngài đột nhiên xuất hiện trong tấm váy hoa phụ nữ, đùa cợt, tiêu dao. Giữa lúc hàng đệ tử sơ cơ đang bàng hoàng, kinh ngạc và có kẻ còn sợ hãi; Ngài đã lấy thân mình để chỉ thẳng vào cánh cửa Pháp thân, đạp vỡ lý bất nhị, gạt phăng giáo điều, đạo đức giả dối để giúp môn đồ nhìn thẳng vào tự tánh, hiểu được chân như bản giác Rigpa.

Thấu triệt chân lý nhân quả, biết rõ ngũ độc là nhân của khổ đau, lòng tham lam, bủn xỉn là nguyên nhân của nghèo cùng, Ngài luôn tạo ra cơ hội giáo hoá người chung quanh để họ bớt đau khổ trong mọi mặt. Nếu đã đọc Thập Đại Đệ Tử của Phật Thích Ca, hẳn ai cũng nhớ câu chuyện “Bán nghèo” nổi tiếng trong sự nghiệp hoằng pháp dạy chúng của Tôn Giả Ca Chiên Diên. Ngày nay, Tôn Giả Kusum cũng sử dụng cùng phương pháp như tiền thân của mình. Ngài không ngừng thực hiện các công trình tâm linh vĩ đại với giá trị lợi ích vô biên rồi hướng dẫn người khác tham gia để họ được lợi ích. Trong các buổi giảng pháp Ngài thường gọi mình là Người Hành Khất vĩ đại, ăn mày lòng hảo tâm của đại chúng và kêu gọi họ đóng góp, cúng dường rốt ráo để giúp họ giải nghiệp và tăng trưởng công đức. Ngày nay, dưới hướng dẫn của Ngài là bao nhiêu hành giả Kim Cang Thừa tu hành kiên cố, lập hạnh Bồ Tát, tu tập rốt ráo và luôn làm việc lợi ích cho người. 

Tu Có Bảo Đảm 

Với tự tin tuyệt đối, Ngài luôn nhắc nhở các môn đồ phải chú tâm và nỗ lực tu hành theo từng bộ pháp thuận với nhân duyên của từng người. Bằng lòng từ bi tha thiết, Ngài không ngừng truyền giảng giáo lý Kim Cang Thừa và dũng mãnh bảo chứng kết quả của việc tu tập. Nắm vững truyền thừa bí mật của Phật pháp siêu việt với kết quả tu chứng hiện tiền, Ngài được xưng tụng là vị Thầy dạy “Tu có bảo đảm”.

Do hoàn cảnh nghiệp lực hiện nay của Trái đất và nhân loại, Tôn Giả thường ban pháp Kim Cang hộ trì (Vajrakilaya, Yamantaka, Vajrapani, Ogyen Dzambala) và pháp Bardo để chuẩn bị hành trang lên đường cho hành giả Kim Cang Thừa khi từ bỏ kiếp này sẽ được Tôn Giả hộ trì về Cực Lạc quốc độ, chấm dứt khổ đau sanh tử.

Môn đồ của Ngài ở khắp cả ba cõi sáu đường. Khi Ngài ngự pháp toà, các môn đồ có năng lực có thể cảm nhận được sự tham gia của chư Thiên và chúng sanh của những cõi giới khác. Điều này không chỉ được diễn tả bằng cảm giác mà có thể minh chứng bằng khoa học. Mới đây, trong pháp hội Shambala tại tu viện ở Golok, một số môn đồ từ nước Mỹ và Âu Châu đã tới chụp hình lưu niệm. Trong các hình rửa ra, đã ghi lại nhiều hiện tượng rõ ràng nếu dựa theo hình tượng và những điều đã được ghi lại từ kinh Phật dạy nghìn xưa thì thật chính xác là chư Thiên cùng chúng sanh các cõi giới khác đã tham dự Pháp Hội khi các Đại Bồ Tát thị hiện giảng dạy.

Ngài cũng dạy thêm về tâm của chúng sanh; đó chính là biểu hiện của các cõi giới khác. Kẻ ngu si khác nào súc sanh, kẻ hung dữ khác nào a tu la, kẻ bủn xỉn khác chi loài ngạ quỷ... Nhưng hành giả Phật giáo phát nguyện hành Bồ Tát Đạo, phát tâm Bồ Đề nguyện độ chúng sanh thì phải thương, phải phụng sự hết mọi loài. Vĩ đại biết bao nhiêu trong lời nhắc nhở của Ngài đến các môn đồ rằng đối với kẻ thù, kẻ hung tợn, sai lầm thì lòng vị tha cũng còn chưa đủ; người hành giả chân chính phải hết lòng vì kẻ thù, vì người hại mình mà cầu nguyện cho họ, và hồi hướng công đức cho họ được lợi ích, an lạc. Vì như thế có thể cởi bỏ nghiệp dữ từ trước mà do quả báo này mình đã bị họ làm hại. Không những chẳng nên oán hận mà còn phải phát nguyện để gieo trồng chủng tử Bồ Đề tốt qua nơi quan hệ của người thù nghịch với mình, cho dù quan hệ này đã có thể làm cho mình đau đớn đến vô vàn.

Phóng Sanh 

Pháp môn được Ngài coi trọng bậc nhất và chỉ thị cho môn đồ, Phật tử các nơi phải luôn thực hành là pháp phóng sanh. Theo Lama Sang, chiến tranh bùng nổ là do con người đã phạm nghiệp sát nặng nề do tâm bất tịnh điều khiển. Ngài thuật lại rằng trước đây do điều kiện sinh tồn, các tăng sĩ Tây Tạng buộc phải ăn thịt trừu do những người Muslim mang đến bán. Ngày nay, do vận chuyển dễ dàng hơn, các tăng sĩ ở tu viện đã được khích lệ chuyển qua ăn chay. Hàng năm tu viện tổ chức lễ hội Shambala để cầu nguyện, hồi hướng cho chúng sanh, đặc biệt là những linh hồn của những con vật đã bị hy sinh để nuôi mạng sống con người được siêu thoát, sinh về Cực Lạc quốc. 

Nếu thực hành phóng sanh với tâm niệm thanh tịnh để hồi hướng chân thành đến an lạc của thế giới, công đức này có thể làm giảm thiểu ảnh hưởng tàn hại của chiến tranh và còn làm tăng tuổi thọ của người phóng sanh hay người mà họ hồi hướng công đức cho.

Để cứu độ và tạo phước duyên cho những chúng sanh mang tâm cao ngạo, ngoan cố, khó điều phục, việc hoằng pháp của Đại Sư được thể hiện qua những phong cách khác thường, môn đồ và tín hữu các nơi thường gọi Ngài là “Vị Bồ Tát với hành vi không thể nghĩ bàn” hoặc “Tế Điên Đại Sư thế kỷ 21”.

Qua Ngài, người ta có thể chiêm nghiệm, thẩm thấu được lời dạy sâu sắc của Đức Phật Thích Ca trong Kinh Duy Ma Cật, chương 6 phẩm Bất tư nghì, với phong độ phiêu hốt, bằng phương tiện trí huệ của Bồ Tát đã trụ giải thoát bất khả tư nghì, các hành năng của Ngài đôi lúc rất khác thường nhưng đều nhằm để giáo hoá, làm lợi ích cho chúng sinh, chẳng chút dư thừa. 

Hiện Thân Kim Cang Phẫn Nộ 

Các môn đồ thân cận thường kinh nghiệm được điều này. Đại Sư không ngừng hoằng pháp cứu độ trong mọi thời khắc hoàn cảnh. Tới địa phương nào, Ngài thường ra lệnh các môn đồ đưa đi mua sắm. Vào tiệm nào Ngài cũng tìm một người để gây gổ và có khi đánh cả họ. Điểm đặc biệt là không bao giờ những người bị la mắng hay đánh vào tay, chân lại phản ứng hay tỏ ra bất mãn lại Ngài. Vừa quay sang mắng người bán hàng rầm rĩ, Ngài đã quay lại nhìn các học trò đi theo đang rất ái ngại, và nở nụ cười thản nhiên như xem đó là một trò đùa. Sau nhiều lần các môn đồ mới hiểu được rằng, từng hành năng thuận nghịch của Ngài cũng để tạo mối nối kết nghiệp với kẻ hữu duyên cầu Ngài có thể độ cho họ. 

Một lần vào cuối năm 2004, tại Berkley, California, Ngài dẫn một số môn đồ thân thiết vào một tiệm bán chim. Qua đoạn nói về tiền thân của Ngài đã từng là chim thì chúng ta có thể hiểu được lòng yêu mến của Ngài với loài chim. Trong khi đang đứng chọn mua một số chim con để tặng cho các đệ tử thân thiết, khi người bán hàng đang quỳ xuống đất để bắt và chuyển những con chim từ lồng lớn ở tiệm vào lồng nhỏ để chúng tôi mang về, đột nhiên Ngài đổi mặt giận dữ, đập mạnh lên đầu người bán chim. Trong lúc Alberto, Peter có mặt đang sửng sốt, đột ngột người Mỹ này đứng lên chắp tay và cúi đầu xin lỗi Ngài. Không nói một lời, Ngài lẳng lặng quay đi. Đến lúc trả tiền, người bị đánh mới hỏi chúng tôi phải chăng Ngài là vị Lạt Ma cao cấp của Tây Tạng.

Trong cơn ngạc nhiên của chúng tôi, anh này cho biết anh là một Yogi đã nhiều năm tên là Boddhi, đã từng theo học nhiều nơi, nhiều Thầy, nhưng tu mãi vẫn không thấy tiến. Anh tin rằng do nhân duyên tốt đời trước anh được gặp Ngài, và cú đánh trên đầu này là cái đập kim cang trí huệ của bậc Đại Giác với lòng từ bi đã đập vỡ vô minh, cao ngạo để hướng dẫn anh về trí huệ bổn nguyên của tánh Giác. Sau đó anh xin địa chỉ liên lạc để được tiếp tục theo học cùng Ngài. 

Quyên Góp Mạnh Mẽ Để Giáo Hoá Và Giải Nạn Cho Người Khác 

Bằng trí huệ ngời sáng, Ngài thường cảm nhận được linh kiến về các sự việc sắp tới của người đối diện; nên những gì Ngài dạy bảo đều hàm chứa một thông điệp ẩn mật cùng phương thức giải quyết từ lòng từ bi vô lượng và cứu độ của Ngài. Ngài thường khích lệ môn đồ đóng góp, cúng dường tài chính mạnh mẽ để giúp họ có cơ hội tạo phước báu hầu giải nghiệp đời này, hoặc tạo công đức đời sau. Thường tự chế diễu mình là kẻ hành khất lớn (Big Beggar), Ngài thị hiện giáo hoá môn đồ thực hiện đức khiêm cung và xả mình thực hành pháp cúng dường, bố thí. 

Mới đây, khi đang hướng dẫn đệ tử thực hành phóng sanh tại bờ biển Berkley, Ngài đột nhiên gọi một đệ tử thân cận và bảo phải cúng dường ngay một số tịnh tài tại chỗ. Số tiền không nhỏ, và ngay tại bờ biển nên vị này làm sao chuẩn bị nổi. Nhưng do lòng thành và sự tin tưởng tuyệt đối vào Minh Sư, vị này quay ra mượn bạn bè chung quanh. Kỳ diệu thay, cuối cùng số tiền vay được cộng với số tiền còn lại trong ví ra đúng số Ngài đã hỏi.

Sau khi Tôn Giả trở lại Tây Tạng, vị này đi khám bệnh và được biết mình có u bướu độc phải giải phẫu. Gia đình gọi qua Tây Tạng thỉnh ý Ngài và được phán rằng vị cư sĩ này sẽ bình yên vì nghiệp xấu này đã được hoá giải qua hàng năng và thiện ý trước đó của họ cùng gia trì trực tiếp của Tôn giả. 

Tiên Tri Của Chính Ngài 

Ngài thường có linh kiến về những vấn đề của thế giới hay cả những việc xảy ra trong đời sống cá nhân của các môn đồ.

Cách đây hơn 10 năm, Ngài đã từng tiên tri về những thiên tai, tham họa lớn và cuộc chiến hiện nay của Thế giới vào đầu thế kỷ 21 này.

Tiên tri của Ngài về biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại World Trade Center New York, cùng cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Taliban, Iraq cũng như một số biến động quan trọng về nhiều lĩnh vực khác nhau trên thế giới đã được các đệ tử thân cận của Ngài ghi lại và cất giữ tại nhiều trung tâm trước khi sự việc xảy ra.

Ngày 16 tháng 10, năm 2004 sau khi ban lễ quán đảnh Vajrakilaya tại Hungkar Ling, Oakland, Ngài đã tiết lộ tiên tri về thảm hoạ Katrina và chỉ thị cho môn đồ nỗ lực tu trì Pháp môn Vajrkilaya trong thời đại dữ dội này để hộ thân và hộ trì cho thế giới. 

Công Trình 

Nói đến huyền diệu và gia trì nhiệm mầu của Ngài thì không bút mực nào tả xiết. Chính người viết là nhân chứng của bao sự việc, trong đó có cả việc Ngài cứu người ra khỏi ngục tù và độ cho những kẻ trước đây thường theo tà kiến, làm những việc bất thiện, hại người. Nay bỏ sai lầm, tập làm việc thiện và sống theo Chánh pháp.

Ngài không ngừng truyền pháp quán đảnh, giảng dạy giáo lý Tối Thượng Thừa của pháp thiền Đại Viên Mãn cho hàng trăm tín đồ tại gia cũng như xuất gia và các hành giả Kim Cang Thừa ở khắp nơi trên thế giới.

Đúng lời tiên tri của các chư Tổ mấy trăm năm trước về các hành vi giác ngộ của Ngài.

Năm 1984, nhân chính sách rộng mở của chính quyền Trung Quốc sau vụ Tứ Nhân Bang; Ngài đã xây dựng tu viện tại Golok để hoằng truyền, hướng dẫn tu tập chân lý Như Lai. Trước đó, Tu viện này chỉ được trong lều trại và không cố định, hệt như đời sống người du mục.

Biết trước thế giới sẽ đi vào thời điểm đầy gian nan, khổ nạn, Ngài đã vận động các Phật tử và môn đồ trên khắp thế giới để xây dựng Đại Bảo Tháp tại Linh Địa Golok, nơi được mệnh danh là mái nhà của thế giới "Roof top of the world". Vào năm 2000, Đại Bảo Tháp đã được hình thành theo đúng nghi quỹ của đàn pháp Kim Cang nhằm trấn áp bớt các lực tà ác hoành hành, và để mang thêm phúc lợi đến cho mọi sinh linh ở hành tinh Địa cầu này. Bảo tháp này được xem như lớn nhất hiện nay trên thế giới.

Sau đó, Ngài tiếp tục thực hiện nhiều bảo tháp khác cùng trong khu vực như bảo tháp phỏng theo mô hình Bồ Đề Đạo Tràng, Bảo tháp Milarepa và Bảo tháp Thích Ca Mâu Ni.

Với nhân duyên nhiệm mầu từ tiền kiếp, Ngài đã thực hiện xây dựng chùa Samye tại Golok phỏng đúng theo quy cách của tu viện Samye cổ, tức tu viện đầu tiên của Tây Tạng với Mạn Đà La vũ trụ của Guru Rinponche, tức Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, Tôn Sư của dòng Cổ Mật, người được dân Tây Tạng gọi là vị Phật thứ hai của thời Hiền kiếp. Được hỏi tại sao lại thực hiện nhiều công trình xây dựng chùa, tháp như vậy, Ngài đã nhân cơ hội này giảng dạy về lợi ích cho nhân loại khi bảo tháp báu được thực hiện đúng theo quy cách và mật chỉ Kim Cang, cùng phước báu nhiều đời cho kẻ góp công xây tháp, người lễ lạy tháp cũng như kẻ gián tiếp được lợi ích qua lực gia trì của chư Phật, chư Bồ Tát và hàng Thiện Thần hộ trì bảo tháp báu.

Trên khắp thế giới biết bao nhiêu trung tâm Vajrakilaya đã được Ngài đặt tên và ban phước thành lập. Theo truyền thuyết, trong đời này Ngài sẽ thực hiện 108 Trung Tâm Vajrakilaya, phước báu này sẽ giúp cho Pháp thêm nở rộ cùng thế giới.

Người viết bài này ngày hôm nay còn giữ được thân mạng để tiếp tục học hỏi, tu tập, triển khai và thực hành Bồ Tát đạo cũng do nhờ hồng ân Chư Phật và gia trì, ơn phước của ân sư. Nguyện mỗi một chữ, từng dòng gieo được mầm cho chủng tử Phật, ươm trồng và tạo tín thành cho người đọc hầu mang lại lợi ích cho họ đời này cùng các kiếp tương lai.

5.10 sáng ngày 3, tháng 3, năm 2007, viết tại California

Jampal Dolma

Theo truyền thống Phật giáo, Tiểu sử về thầy mình thường do các môn đồ thân cận ghi lại... Người viết bài này đã được gia trì và chấp thuận của ân sư cùng hỗ trợ của các vị Tôn Sư, Hộ pháp của dòng phái để thực hiện bản tiểu sử Tôn giả Kusum Lingpa trong dịp Ngài viếng thăm nước Mỹ mùa Xuân 2007. Vì thời gian quá khẩn cấp, chúng tôi sẽ bổ túc và sửa chữa trong tương lai gần để thêm hoàn chỉnh.

Trân trọng cảm tạ và biết ơn sự giúp đỡ của Hungkar Dorje Rinpoche, Dorje Trangpo, Rob McGann của Sun Entertainment, Michelle Thuỷ, Peter cùng tất cả các vị đã tạo điều kiện, cho tin tức hoặc giúp đỡ chúng tôi hoàn thành việc này trong bất cứ hoàn cảnh nào.