Sức Mạnh 

Thần Chú

Sức Mạnh Của Thần Chú

Tiết lộ mật mã giữa quỷ và thần

Văn tập số: 148

Xuất bản: 09/2001

Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn

Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam


Ghi chú: Thần chú trong bản gốc vốn được ghi chép thuần bằng chữ Đài Loan (Trung Quốc). Do đặc thù của Mật giáo, mọi thần chú nên được đọc giống như khẩu âm của vị Thượng Sư đã quán đảnh trao truyền pháp. Các phiên âm chú trong văn tập này được ghi lại theo khẩu âm của Liên Sinh Hoạt Phật (tác giả) hoặc phiên âm tiếng Trung trong nghi quỹ của dòng phái. Các bản phục hồi Phạn ngữ của thần chú không được đặt trong bản dịch này (chúng vốn chỉ để tham khảo) để tránh việc sử dụng thần chú không thích hợp.

Lời mở đầu


Dùng chú ngữ để hạ sốt


Để mở đầu cuốn sách này, trước tiên tôi kể một câu chuyện nhỏ xảy ra từ nhiều năm trước.

Một ngày nọ, đệ tử tên gọi Trần Kiện vội vội vàng vàng đến trước cửa nhà tôi xin được gặp.

"Anh có việc gì? Sao mà chạy vội vàng như vậy?" - Tôi hỏi.

"Không phải việc của con ạ!" - Trần Kiện trả lời.

"Là của ai?"

"Là của hàng xóm nhà kế bên."


"Hàng xóm nhà kế bên? Thế sao anh lại vội vàng căng thẳng như vậy?" - Tôi cười.

Trần Kiện trả lời với đầy vẻ nghiêm trọng:

"Sư Tôn! Con thường hay kể với hàng xóm về sự vĩ đại của Thầy, nói rằng pháp lực của Sư Tôn rất cao cường, có năng lực tiêu tai giải ách tuyệt đối. Chỉ cần tới tìm Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là tất cả mọi khó khăn đều được giải quyết dễ dàng như dao sắc chẻ tre. Hôm nay đứa con trai 10 tuổi độc nhất của nhà hàng xóm bị sốt cao liên tục, con thay hàng xóm đến cầu Sư Tôn."

"Bị sốt cao thì cần khám bác sĩ!" - Tôi nói.

"Đã khám rồi, cũng uống thuốc rồi, nhưng cơn sốt vẫn không hạ!"

"Tìm Xích Cước Tiên (thầy lang), tìm cách chữa trị theo Đông y!" - Tôi lại nói.

"Họ đều đã đi tìm bác sĩ, thầy lang cả rồi, nhưng không có chút hiệu quả nào. Bây giờ nghĩ tới Sư Tôn, họ muốn xin phù chú."


"Tôi là Phù Tử Tiên à, ha ha!" [Phù Tử Tiên: Người có năng lực vẽ phù]


Tôi cũng "cấp cấp như luật lệnh" đi theo Trần Kiện. Tới cửa nhà của hàng xóm Trần Kiện, tôi vừa nhìn thì ôi thảm rồi, bởi vì trước cửa có hai con ma viêm não đang chuẩn bị đi vào. Tôi nói với hai con ma viêm não: "Đợi chút, ta đi trước."

Tôi vươn tay đẩy hai con ma ra, chúng ngã lăn ra đất giơ cả bốn chân lên trời, tức giận kêu la ầm ĩ. Trần Kiện hỏi tôi:

"Sư Tôn! Thầy vừa mới nói chuyện với ai vậy?"

Tôi đáp:


"Với không khí."

Tôi đi vào nhà, gặp chủ nhà là hai vợ chồng họ Đặng, mặt mày âu sầu, họ cầu xin tôi cứu con trai họ bởi vì cậu bé đã sốt cao nhiều ngày chưa đỡ.

Tôi nói:

"Thật may mắn là gặp được tôi, nếu không thì con trai của hai người coi như xong rồi đó!"

"Làm cách nào để cứu bé?" - Họ hỏi.

"Niệm chú."

"Niệm chú có thể hạ sốt sao?" - Họ há hốc mồm vì ngạc nhiên. 


"Để xem đã!"


Tay phải tôi kết Bảo thủ ấn (ngón tay đeo nhẫn vươn ra hơi uốn cong, ngón tay cái đè lên ba ngón tay kia), tay trái kết Kim cương quyền ấn (ngón giữa, ngón đeo nhẫn, và ngón út nắm lấy ngón tay cái, đầu ngón tay trỏ uốn cong đặt lên lưng ngón tay cái) rồi đặt vào hông.

Tôi dùng Bảo thủ ấn viết một chữ "Vam" tiếng Phạn  lên trán của đứa bé đang sốt.

Niệm ba tiếng: "Vam. Vam. Vam."

Chân trái dậm xuống đất ba lần.

Rồi tôi nói:

"Xong rồi. Sẽ sớm hạ sốt thôi!"

Họ đều không dám tin:


"Như thế là có thể hạ sốt sao?"


Thực tế là chỉ khoảng hai phút sau, đứa con trai duy nhất của nhà họ Đặng đã hạ sốt liền, hoàn toàn bình thường. Cơn sốt cao vừa hạ thì cậu bé cũng tỉnh táo trở lại, cứ như chẳng hề bị ốm gì!

Con trai nhà họ Đặng nói:

"Trong lúc chóng mặt vì bị sốt cao, con nhìn thấy trước mặt có một chiếc xe đang cháy chạy về phía con, ở phía sau cũng lại có một chiếc xe đang bốc cháy hừng hực chặn đường thoát của con, con sắp bị chết cháy mất. Lúc này, từ trên không trung có một người niệm chú, cưỡi mây bay đến, đưa tay chỉ vào con, thế là một cơn mưa lớn trút xuống. Cơn mưa này nhanh chóng dập tắt hai chiếc xe đang bốc cháy, thế là con được cứu sống và tỉnh dậy." 

"Con có nhận ra người đến từ trên không trung không?"


"Chắc chắn có!"

Cậu bé nói, rồi chỉ vào tôi:

"Chính là người này."


"Oa! Vạn tuế!" - Trần Kiện kêu to.


Tôi gật gật đầu. Vợ chồng họ Đặng vô cùng tin tưởng và bái phục.


Việc này chính là:

Mật chú nhất tâm, cần mạnh mẽ.

Nỗ lực chăm tu, tiến bộ nhanh.

Tương ứng đạt thành, trời sẽ giúp.


Thành tựu tột bậc, Đại La Tiên.


Mật chú này rốt cuộc là gì? Dùng chú ngữ để hạ sốt rốt cuộc là thế nào? Đây chính là hành giả niệm chú để mời thỉnh Thủy Thần của cõi Trời.


Chủng tự "Vam" trong mật chú chính là "nước". Lấy nước để dập lửa thì lửa sẽ tắt thôi, và thế là cơn sốt cũng tiêu tan, đơn giản là như vậy.


Mật chú còn được gọi là đà-la-ni, có nghĩa là tổng trì, nói cách khác nghĩa là bao gồm vô giới hạn tất cả các pháp. Chúng ta còn gọi mật chú là:

Chân ngôn - Lời chân thật

Minh chú - Ánh sáng của chú ngữ.

Tâm chú - Tâm của Như Lai.


Ngọc như ý - Viên ngọc vô giá.


Cá nhân tôi nghĩ rằng thời gian con người tồn tại trên thế giới này chẳng phải là dài, thời gian thực sự được dùng đến lại càng ngắn. Nếu chỉ theo đuổi giàu sang phú quý, rồi trong một sát-na trút hơi thở cuối cùng, thì giàu sang phú quý cũng là hư không.


Bởi vậy ngay từ đầu tôi đã cho rằng, việc đại sự lớn nhất của cuộc đời này chính là vấn đề sinh - tử. Có thể hiểu được thực sự rõ ràng về sinh tử, có thể hiểu làm sao thoát khỏi sinh tử mới là điều có ý nghĩa nhất.

Khi bước vào con đường tu trì Phật pháp, tôi nhận ra Phật pháp là vô thượng, thù thắng vi diệu, Phật pháp có rất nhiều bảo bối quý giá tuyệt vời, ví dụ như:

Tánh Không Chân Như.

Trí Huệ Bát Nhã.

Trung quán chính kiến.

Duy thức thần biến.


Du già nhất vị.


Tôi đã thấy rất nhiều người tu hành theo học Thiền tông, rất nhiều người cũng niệm Phật, tụng Kinh, tu pháp môn Tịnh độ. Cũng có rất nhiều người học giới luật của Phật giáo, khởi đầu từ giữ giới luật. Các tông phái liên quan tới Phật giáo lại càng nhiều, tất cả đều có thể giúp người ta an lạc như ý. Lúc số mệnh kết thúc có thể vãng sanh Phật quốc, có thể thoát khỏi sinh tử luân hồi, có thể minh tâm kiến tánh, thấu triệt hoàn toàn, nhập thế hay xuất thế đều được viên mãn.


Sau này trên con đường tu tập Phật pháp của mình, trong quá trình tu học Du già nhất vị, tu học Mật tông chân ngôn, tôi đã biết được rằng Mật tông chân ngôn có thể giúp viên mãn tất cả mọi thiện nguyện, thành tựu tất cả mọi việc, thậm chí tiêu tai, tăng ích, kính ái, hàng phục, có được phú quý, có được trường thọ, gia đình viên mãn, thậm chí cũng có thể đạt được Vô Thượng Bồ Đề (thành Phật).


Những chân ngôn chú ngữ này vốn là do Phật Bồ Tát thương xót nỗi khổ của chúng sinh, do mong muốn cứu độ chúng sinh bớt khổ cực mà từ chính miệng mình tuyên thuyết đà-la-ni. Khi tu học những chú ngữ này, chúng sẽ giúp ta được an lạc, giúp ta được lợi ích, giúp ta được như ý, giúp ta được cát tường. Không chỉ như vậy, chúng còn giúp diệt tội tiêu nghiệp của ta trong kiếp này, đưa ta tới Phật quốc.


Ngài Tsongkhapa sáng lập Hoàng giáo (Gelugpa) của Mật tông Tây Tạng đã nói: "Niệm Phật là niệm Danh và Tướng của Phật. Niệm chú là niệm Tâm của Phật."

Cuốn “Mật tông yếu nghĩa” nói: "Niệm Chú kết hợp với niệm Phật thì công đức như một biển núi Tu Di. Nếu chỉ niệm Phật không niệm Chú, công đức chỉ nhỏ như ngọn núi Hương Sơn."

Cuốn “Nhỏ như hồ Anavatapta” nói: "Pháp môn Tịnh độ mặc dù có thể bao phủ mọi tầng lớp chúng sinh, tuy nhiên người vãng sinh vẫn không dễ đạt được thượng phẩm thượng sinh. [Thượng phẩm thượng sinh: Vãng sanh - hóa hiện ra tại "chỗ cao nhất" tại cõi Tịnh độ. Tại các cõi Tịnh độ của các vị Phật thường có các nơi hạ phẩm, trung phẩm và thượng phẩm, trong đó lại phân ra nhiều hồ sen các cấp độ. Tùy theo chiêu cảm nghiệp phước mà một cá nhân có thể sinh ra tại vị trí nào.] Nếu tu hành theo Mật giáo thì có thể tùy ý vãng sinh mười phương Tịnh độ, có thể nắm chắc trong tay được thượng phẩm thượng sinh."

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn nói: "Niệm Phật có được Danh và Tướng của Phật, trì Chú có được Tâm Như Lai của Phật, vừa niệm Phật vừa trì Chú, trong ngoài đều thành tựu, viên mãn toàn thiện."

Cho nên:

Niệm Phật đạt tới tự minh tâm.

Trì Chú đắc thành Như Lai tâm.

Tràn ngập trong ngoài, niềm vui sướng.


Một câu chân ngôn Quan Thế Âm.


Om Mani Padme Hum


(Tháng 9 năm 2001)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn

Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT

REDMOND WA 98052

U.S.A

01. Mọi tai ương hóa bụi trần


Một người đàn ông tên là Thẩm Định, anh là thuyền trưởng của một con tàu đánh bắt cá ở ngoài khơi xa. Lúc Thẩm Định ở Hồng Kông, có người bạn rủ anh tới hỏi chuyện một vị thầy tướng số rất nổi tiếng lúc bấy giờ về xem bói theo phương pháp Thiết Bản Thần Số.


Thiết Bản Thần Số ngoài việc dùng bát tự ngày giờ tháng năm còn có khả năng tính toán dựa trên chính xác đến từng phút lúc sinh ra. Nếu như ta biết được chính xác cả năm tháng ngày giờ phút, thì việc tính toán ra kết quả sẽ cực kì chuẩn. Thẩm Định thấy rằng Thiết Bản Thần Số của Thiệu Khang Tiết quả nhiên đúng là khiến người ta kinh ngạc!

Thầy tướng số xem bói cho Thẩm Định:

Cha anh tuổi Thìn (rồng), mẹ anh tuổi Thân (khỉ). Chuẩn rồi.

Có ba anh trai, một em gái. Việc này cũng chuẩn luôn.


Thầy tướng số nói, lúc Thẩm Định lên 10 tuổi, mẹ anh đã qua đời, việc này càng khiến cho Thẩm Định kinh ngạc. Bởi vì quả thực năm anh 10 tuổi người mẹ đã bị bệnh mà chết.

Tiếp đó lại nói đến vận mệnh của cá nhân Thẩm Định.

Cả đời sống nhờ vào sông nước. (Thẩm Định ở trên thuyền đánh cá ngoài biển xa.) 


30 tuổi gặp người bạn họ Tạ, chắc chắn bị lừa mất tiền. (Năm 30 tuổi, có một người bạn họ Tạ mượn anh 70 vạn Đài tệ rồi trốn luôn.)


Việc khiến cho Thẩm Định càng không khỏi kinh ngạc là anh ta có một "hồng nhan tri kỷ" ở bên ngoài, họ Trương, không ngờ Thiết Bản Thần Số cũng bói ra được. Lại còn đoán được cả tiền lương mỗi tháng của Thẩm Định có bao nhiêu, rất chính xác, thực sự khiến anh ta phải tròn mắt há mồm.


Cuối cùng thầy tướng số xem tới tuổi thọ của Thẩm Định. Thầy tướng số im lặng không nói gì. Thẩm Định sốt ruột muốn biết.

"Sống tới bao nhiêu tuổi?"

"Anh không cần phải biết." - Thầy tướng số nói.


"Thọ mệnh dài ngắn không quan trọng, tôi có thể xoay xở được!"

Thầy tướng số vẫn kiên quyết không nói.

Thẩm Định tức giận: "Tôi đã nói rồi, tôi không quan tâm, có sinh có tử, thời gian ngắn dài chẳng tính, sống lâu cũng chưa chắc đã tốt. Hôm nay tôi nhất định phải biết, nếu thầy không nói, tôi sẽ không đi ra khỏi nhà thầy đâu."

Thầy tướng số cảm thấy khó xử. Thẩm Định vẫn cứ kiên trì. Cuối cùng thầy tướng số chỉ còn cách lấy ra cuốn sách Thiết Bản Thần Số của Thiệu Khang Tiết, mở sách ra, bên trong có một dòng, bảo Thẩm Định tự mình đọc, dòng chữ này viết:


"37 tuổi, chết."

37 tuổi! Đầu của Thẩm Định muốn nổ tung ra vì choáng.


Chết tiệt! 37 tuổi! Bây giờ Thẩm Định đã 35 tuổi, như vậy chỉ có thể sống hai năm nữa. Mà ông thầy tướng số này xem bói chuẩn xác như vậy thì có lẽ sẽ chẳng thể nào thoát được số mệnh rồi. Anh ta miệng thì nói là không quan tâm, nhưng kì thực trong lòng đang rối như tơ vò.

Thẩm Định hỏi:

"Có thể hóa giải không?"

"Tất cả đều là Trời định, chỉ có tích lũy việc thiện mới có thể thay đổi số mệnh. Tôi không thể giúp anh được."

"Làm việc thiện à?"

"Đúng vậy."

"Giống như Liễu Phàm Tứ Huấn ư?" - Thẩm Định đã từng đọc cuốn sách Liễu Phàm Tứ Huấn rồi. [Liễu Phàm Tứ Huấn: Tên một tác phẩm được viết bởi Viên Liễu Phàm, đời nhà Minh, Trung Quốc, vào khoảng năm 1550. Ông viết tác phẩm này nhằm giáo dục con trai, với nội dung khẳng định con người có số mệnh đã định, nhưng hoàn toàn có thể thay đổi được nếu thay đổi hành vi trong cuộc sống của mình.]

"Cũng gần như vậy!"

"Thời gian chỉ còn hai năm, liệu có kịp không?"

Thầy tướng số chỉ mỉm cười, không đáp.

"Trên thế giới này còn có ai có thể giúp tôi thay đổi vận mệnh không?"

Thầy tướng số đáp:

"Theo như tôi biết, thần số của Thiệu Tử là vô cùng chính xác, việc thay đổi được vận mệnh cũng có, nhưng rất hiếm. Anh đi tìm người này hỏi thử xem, xem ông ta có thể thay đổi được không!"

"Ai?"

"Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn."

"Ông ấy có thể làm được sao?"


"Chỉ là thử xem sao!"

Lúc Thẩm Định đến tìm tôi, ban đầu anh không nói gì đến chuyện anh đã xem bói Thiết Bản Thần Số ở Hồng Kông. Anh chỉ trình lên một lời nhắn là muốn đoán về thọ mệnh.

Tôi nói:

"Tôi không xem về thọ mệnh dài hay ngắn."

"Vì sao? Tiền tài vợ con, phúc lộc thọ hỷ, chẳng phải là đều có thể xem được sao?"

"Anh nói không sai, nhưng xem về thọ mệnh, nếu như là số chết yểu thì người ta sẽ sợ hãi. Để tránh việc ngoài ý muốn xảy ra, tôi không xem!"

"Xin hãy ngoại lệ một lần!" - Thẩm Định yêu cầu.


"Không được."

Cuối cùng Thẩm Định nói:

"Thế này vậy! Thọ mệnh đương nhiên sẽ là hai con số, ông không giúp tôi đoán con số đứng trước, ông đoán giúp tôi con số đứng sau đi vậy!"

Tôi nghĩ ngợi, cảm thấy cũng có thể được. Bởi vì nói ra con số đứng sau thì cũng không thể cho thấy thọ mệnh dài hay ngắn, cũng tương đối vô nghĩa. Nhưng tôi không hiểu vì sao Thẩm Định lại muốn tôi đoán con số thứ hai.


Tôi tính một lúc, sau đó viết ra một con số: 7.

Thẩm Định nhìn con số 7 nói: "Chuẩn quá! Đúng là 7."


Lúc này Thẩm Định mới nói cho tôi biết anh ta đã đi xem bói Thiết Bản Thần Số ở Hồng Kông. Đáp án chính là "37 tuổi, hết mệnh". Thẩm Định cầu xin tôi cách để "chuyển yểu thành thọ", cầu xin tôi xem có thể giúp anh ta thay đổi số mệnh không!

Tôi nói: "Để thử xem!"


Tôi liền nhập thiền định sâu. Trong thiền định, tôi nhìn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát mặc thiên y màu trắng. Vị Bồ Tát này vô cùng trang nghiêm, tay cầm tịnh bình và một nhành cây liễu, phong thái rất hân hoan tự tại.

Bồ Tát nói với tôi: "Ngài chỉ cần nói với Thẩm Định niệm Bạch Y Quan Âm Đại Sĩ linh cảm thần chú, mỗi ngày 20 biến, tự Ta sẽ cứu anh ta. Ngài cũng không cần phải dạy anh ta cách niệm thế nào, anh ta tự sẽ biết câu chú này."

Tôi xuất ra khỏi thiền định, nói với Thẩm Định:

"Anh biết niệm chú."

"Nói vớ vẩn!"

"Bồ Tát nói vậy!"

"Bồ Tát trêu tôi à! Cả đời này tôi chưa từng niệm chú bao giờ."

Tôi nói:

"Có một vị Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát nói với tôi rằng anh sẽ niệm Bạch Y Quan Thế Âm Đại Sĩ linh cảm thần chú!"


"A!" - Thẩm Định giật thót mình.


Thẩm Định kể với tôi thế này.


Khoảng 10 năm trước, bác gái của Thẩm Định qua đời. Trước khi chết, bà lấy một bức tranh tặng cho Thẩm Định, bức tranh này chính là Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát, bên rìa bức tranh đích thực có viết Bạch Y Quan Thế Âm Đại Sĩ Linh Cảm Thần Chú!


Khi đó bác gái rất cẩn thận dạy cho Thẩm Định niệm từng từ, từng từ một. Thẩm Định thực sự đã từng niệm câu chú này rồi, hơn nữa còn phát âm rất chuẩn, bởi anh đã được bác gái dạy cho. Bác gái nói, bức tranh và câu chú này, tranh thì bà đã thờ cúng rất lâu rồi, chú thì bà trì cả đời rồi, rất có linh ứng, không thể vứt bỏ được.


Thẩm Định trân trọng nhận lấy bức tranh. Anh cũng đã niệm chú Bạch Y Đại Sĩ một thời gian. Sau này khi bác gái đi rồi, anh cũng cất bức tranh đó luôn, chưa từng treo lên, hơn nữa cũng không còn niệm chú Bạch Y Đại Sĩ linh cảm thần chú nữa.

Tôi nói với Thẩm Định:

"Mau mau treo bức tranh tướng của Đại Sĩ lên."

"Vâng."

"Mỗi ngày niệm Bạch Y Quan Âm Đại Sĩ linh cảm thần chú 20 biến."

"Vâng."

"Có cần tôi dạy anh niệm không?"

"Không cần, tôi vẫn còn nhớ cách niệm thế nào!"


Thẩm Định còn có thể viết ra câu chú này ngay tại chỗ.


Bạch Y Quan Âm Đại Sĩ Linh Cảm Thần Chú:

Nam mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

Nam mô Phật.

Nam mô Pháp.

Nam mô Tăng.

Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.

Tan-chi-tô, Ôm, Ka-la-fat-tô, Ka-la-fat-tô, Ka-hua-fat-tô, La-ka-fat-tô, La-ka-fa-tô, Sô-ha.

Thiên La Thần. Địa La Thần. Nhân ly nạn. Nạn ly thân. Nhất thiết tai ương hóa vi trần.

Nam mô Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.


Sau khi Thẩm Định về nhà, anh đã treo bức hình linh thánh của Bạch Y Quán Âm Đại Sĩ lên, cung kính thờ cúng. Mỗi ngày trước khi niệm chú, anh đều rửa sạch tay và thắp hương, đứng trước hình linh thánh của Bạch Y Quan Âm Đại Sĩ mà thành tâm đảnh lễ, sau đó mới niệm chú.


Niệm chú xong anh còn đọc bài văn hồi hướng:

Nguyện được tiêu trừ mọi phiền não chướng ngại.

Nguyện có được trí huệ chân lý quang minh.

Cầu cho tất cả tội chướng được tiêu trừ.


Đời đời làm theo Bồ Tát đạo.

Thẩm Định còn dùng khẩu ngữ nói thêm: "Xin Quan Thế Âm Bồ Tát ban phúc bảo vệ, gặp nạn không chết, sống lâu may mắn!"


Đấy là lúc ở nhà, anh có thể niệm chú đúng quy chuẩn, nhưng anh là thuyền trưởng của tàu đánh bắt cá ngoài biển xa, ở ngoài nhiều, ở nhà ít. Trong một góc phòng của mình trên tàu, anh đã dán một bức tranh Bạch Y Quan Âm Đại Sĩ, vẫn đảnh lễ và cung kính niệm chú mỗi ngày y như vậy, từ đầu tới cuối đều không gián đoạn.

Đồng nghiệp cười anh ta:

"Mê tín."

"Thần kinh."


"Bị điên."


Thẩm Định lờ đi. Không chỉ như vậy, mỗi khi có cơ hội làm việc thiện thì anh đều hết sức nỗ lực để làm.


Vào năm Thẩm Định 37 tuổi, có lần tàu cá của anh đang ở Hawaii, ngày hôm sau cần phải đi tới đảo Guam, thì buổi tối hôm đó, Thẩm Định bỗng nhiên đau bụng dữ dội. Anh tới bệnh viện cấp cứu, kiểm tra thì thấy là đau ruột thừa, cần phải mổ lập tức, thế là Thẩm Định phải nhập viện ở Hawaii để làm phẫu thuật. Tàu cá theo hành trình đã định, không thể nào chờ anh, liền tự rời đi, đợi tới khi Thẩm Định mổ xong thì gặp lại sau.

Kết quả là:


Tàu cá đang trên đường đi tới đảo Guam thì gặp bão, bị bão đánh chìm. Đồng nghiệp trên tàu không một ai may mắn sống sót. Cả tàu cả người đều mất tích. Công ty tàu cá điều trực thăng đi tìm kiếm, cũng điều cả các tàu khác đi tới nơi xảy ra sự cố để tìm kiếm cứu nạn, không ngờ một vết tích cũng không tìm thấy. Tàu và người dường như đều biến mất hoàn toàn.


Chỉ có một mình Thẩm Định bởi vì bị viêm ruột thừa cấp phải ở lại Hawaii để mổ, không lên tàu, nên đã thoát khỏi kiếp nạn này.


Sau này Thẩm Định lại tới Hồng Kông, lại đi gặp ông thầy tướng số Thiết Bản Thần Số, Thẩm Định nói với thầy tướng số:

"Thiệu Khang Tiết không chuẩn rồi!"

Thầy tướng mệnh rất kinh ngạc:

"Nguyên nhân gì vậy?"

"Chẳng có gì! Tôi trì Bạch Y Đại Sĩ thần chú mà thôi!"

Thầy tướng mệnh nói:


"Bạch Y Đại Sĩ thần chú siêu nhiên như vậy, quả nhiên là việc hiếm thấy, chính tôi đây cũng muốn trì tụng!"


Kể từ sau sự việc này, Thẩm Định lại càng tin tưởng vững chắc vào Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát, biết rằng Bồ Tát từ bi cứu khổ, có cầu tất linh ứng, chỉ cần tin tưởng tuyệt đối, thành tâm thỉnh cầu, thì cực kì siêu phàm. Sau này Thẩm Định đã quy y Chân Phật Tông.


Tôi dạy Thẩm Định tu Tứ gia hành, Thượng sư tương ứng pháp, cuối cùng là lấy Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát để làm Bổn tôn tu hành của chính anh.


Thẩm Định cũng thương xót những người bạn cùng tàu cá của mình phải chôn xác trong bụng cá, nên anh đã tụng Bạch Y Quan Thế Âm Thần Chú, tổng cộng 12 nghìn biến. Sau đó anh hồi hướng cho bạn bè cùng tàu. Đêm đó, anh mơ thấy tàu cá của mình lại tiếp tục hành trình ra ngoài biển khơi, xung quanh tàu có hơn 50 con chim màu trắng bay vòng vòng. Cuối cùng dường như những con chim trắng đều hướng về anh để chào tạm biệt, lần lượt từng con sải cánh bay lên cao mà đi mất.


Sau khi tỉnh giấc mơ, anh tin rằng đó là linh hồn của những người bạn cùng tàu đều đã được Bạch Y Quan Thế Âm cứu độ. Tất cả đều đã rời xa biển khổ rồi.


Việc này chính thực là:

Sớm tối chăm lễ siêng trì chú.

Bạch Y Quan Âm thường nhập mộng.

Đồng nghiệp trên tàu đều độ hóa.


Có duyên gặp gỡ hưởng phúc này.

02. Chuỗi hạt của ông nội


Ngày xưa, khi tôi giúp người ta xem về đất cát (xem phong thủy địa lý), tôi không chỉ xem những thứ hữu hình mà còn xem cả những thứ vô hình. Những thứ vô hình chính là "quỷ thần".

Tôi nói cho mọi người biết một bí mật lớn:


Tôi từng đến Cao Hùng xem phong thủy cho một đại gia giàu có tiếng tăm. Vừa bước vào cửa tôi đã phát hiện ra trong nhà đầy "quỷ nghèo", tất cả đều tới để đòi nợ. Tôi lập tức biết ngay đại gia này sắp đại bại, cuộc sống sắp đi xuống, kinh tế sắp lụi tàn. Quả nhiên không lâu sau đại gia này đã thất bại thê thảm.


Một lần khác, tôi đến xem phong thủy cho một người nghèo. Anh sống trong nhà "tam hợp viện" ở nông thôn. Tôi lập tức nhìn thấy trong cửa ngoài cửa, quỷ thần đông như kiến, trên lưng những quỷ thần này đều đang vác hàng bao tải cát vàng chuyển vào trong nhà tam hợp viện. Quỷ thần đông như đội quân kiến xếp hàng đi vào tam hợp viện để chuyển cát vàng. Tôi liền biết người nhà này sắp phát đạt rồi.


Sau đó quả nhiên người này về sau cũng có cả tiếng tăm, được làm ủy viên Quốc hội, doanh nghiệp mà ông tham gia quản lý cũng liên tục phát triển, trở thành đại gia giàu có nhất nước.


Khi tôi nhìn người thì cũng có kinh nghiệm thế này:


Xung quanh người đó là quỷ nghèo tới đòi nợ thì người này chắc chắn sắp mất tiền. Xung quanh người đó có phúc thần đi theo thì người này chắc chắn sẽ phát tài. 


Bởi vậy nói tới nói lui, tất cả đều là do quỷ thần tạo nên, nói cách khác là do bàn tay vô hình tạo ra.


Có một lần, tôi tới một khu chợ đêm trước cửa một ngôi miếu để ăn nhẹ, phía trước ngôi miếu có một mảnh đất trống với một quán ăn nhỏ. Quán ăn nhỏ này chỉ bán bốn thứ:

1. Canh hầm thuốc bắc.

2. Mì.

3. Lòng lợn.


4. Rau luộc.


Xung quanh quán ăn bày rất nhiều bàn ghế, tất cả đều kín người ngồi. Rất nhiều khách tới đây ăn, khách đông giống như bầy kiến đang tranh nhau ăn một miếng bánh vậy.


Tôi mở thiên nhãn để xem thì giật nẩy mình. Hóa ra trên mảnh đất trống này phải có đến cả hơn trăm người khách tới ăn, hơn nữa quỷ thần cũng phải có tới hơn trăm người. Những quỷ thần này đều đang kéo khách tới đây ăn.

Quỷ thần kéo khách tới.


Khách không tới không được.


Hơn nữa thực tế là món canh hầm thuốc bắc của quán ăn này cũng nổi tiếng khắp xa gần, hương vị rất ngon, mỗi tối dòng người kéo đến ăn đông như thủy triều vậy. Công việc kinh doanh cứ như vậy tiếp diễn, kiếm tiền dễ như múc nước, dễ như nước từ vòi cứ thế chảy vào không ngừng.


Có người kể, chủ của quán ăn này mỗi ngày trở về nhà đếm tiền, đếm nhiều tới mức sung sướng cười ha ha!


Có người kể, chủ của quán ăn nhỏ này đã có tới mấy căn nhà cao tầng rồi, là một tỉ tỉ phú rồi.


Thế nên tôi đặc biệt quan sát tướng mặt của người chủ quán ăn. Diện mạo của người này có khí đen u ám, mũi hóp, miệng cong, mắt ti hí và bộ mặt xương xẩu. Xem ra thì cơ bản là không có tướng đại gia, ngược lại trông có tướng của một ông già lôi thôi lang bạt hơn.

Tôi cảm thấy ông lão này: "Chẳng có gì hay cả!"


Nhưng ông lão này lại cứ thế phát tài, thực sự là kỳ quái! Không chỉ kiếm được nhiều tiền mà lại còn có nhiều quỷ thần ở bên cạnh giúp ông ta kéo khách tới, giúp ông ta rửa bát quét dọn lau bàn, việc này mới càng khiến người ta thấy kỳ quặc!


Tôi nghi ngờ ông lão này khả năng biết nuôi "tiểu quỷ", những quỷ thần này chắc đều là do ông lão nuôi cả. Ấy nhưng xem ra lại cũng không giống lắm. Ông lão mặc dù có tướng mạo tầm thường nhưng trên người cũng không thấy bị nhiễm tà khí.


Tôi đứng từ xa nhìn mảnh đất và quán ăn nhỏ. Tôi trông thấy những tia sáng đỏ nhỏ như sợi tơ đang tỏa lên từ dưới mặt đất tạo thành một đám mây đỏ âm thầm che phủ toàn bộ khu vực. Tôi cho rằng có vẻ như địa lý phong thủy nơi này rất tốt nên giúp cho quán ăn nhỏ đại phát kiếm được cực kì nhiều tiền.


Tôi nói cho mọi người biết, việc kinh doanh của các hàng quán khác hoàn toàn không giống như vậy, hoàn toàn đìu hiu, việc kiếm sống rất khó khăn. Sự việc này khiến tôi cảm thấy rất kỳ lạ!


Một hôm, có người xếp hàng đến hỏi việc, ông ta muốn xin tôi giúp đặt tên cho cháu trai. Tôi vừa ngẩng đầu lên nhìn thì thật trùng hợp làm sao, chính là ông lão của quán ăn nhỏ kia.

Tôi nói:

"Việc buôn bán của ông thật là tốt!"

"Đâu có! Đâu có!" - Ông ta rất khách khí.

"Ô! Việc buôn bán của ông vì sao lại có thể tốt như vậy?" - Tôi rất tò mò.

"Do vận may thôi!" - Ông nói, để lộ ra hai hàm răng đen.

"Vận may thì cũng chẳng thể nào khác biệt nhiều so với các quán khác như vậy được!" - Tôi nói.


"Ngài bói cho tôi xem vì sao?" - Ông yêu cầu. Rồi ông viết tên họ, ngày tháng năm sinh, địa chỉ.


Tôi vừa quan sát liền phát hiện ra một chú âm truyền đến làm rung động đầy ắp cả đất trời, hơn nữa còn có mùi thơm của gỗ đàn hương đưa tới. Rồi tôi nhìn thấy cả những vòng tròn ánh sáng rực rỡ, trong những vòng tròn ánh sáng đó có các vị phúc thần, việc này thực sự khiến người ta kinh ngạc!

Tôi nói:

"Ông biết niệm chú!"

"Không biết." - Ông lão tên Phan Cát thẳng thừng đáp.

"Tôi nghe thấy âm thanh của chú ngữ, ngửi thấy mùi đàn hương, nhìn thấy phúc thần đi theo ông."

"Không thể nào!"


Tôi giúp người ta hỏi việc đã lâu rồi, vô cùng linh nghiệm. Trong số những gì tôi từng nói ra, rất ít người ở trước mặt tôi mà lại thốt lên ba tiếng "không thể nào". Thiên nhãn, thiên nhĩ của tôi mới là không thể nào sai được. Còn nếu có chỗ nào sai, nhất định là có nguyên nhân của nó và tôi cũng có thể tìm ra nguyên nhân của chỗ sai đó.

Tôi hỏi:

"Trong nhà có ai biết trì chú không?"

"Vợ con, cháu chắt đều không biết." - Phan Cát đáp.

"Thế còn có người nào biết không?" - Tôi lại hỏi.

"Người đã chết có tính không?"

"Tính."

Phan Cát kể:

"Trong gia tộc nhà chúng tôi chỉ có ông nội Phan Lễ của tôi là biết trì chú. Ông tôi cả đời kính ngưỡng Phúc Đức Chính Thần. Ông đã xây một ngôi miếu thờ Phúc Đức, làm người trông nom miếu Phúc Đức. Có lần có một vị pháp sư tặng cho ông nội tôi một chuỗi tràng hạt, còn dạy ông nội niệm An thổ địa chân ngôn. Ông nội liền cầm chuỗi tràng hạt đó niệm chú An thổ địa chân ngôn đến hết đời, ông niệm nhiều tới mức cả chuỗi hạt đều bị đen cả, đen tới mức nhẵn bóng cả lên."

"Thế chuỗi hạt của ông nội đâu?" - Tôi biết mình đã tìm ra đáp án rồi.


"Ông nội trao cho cha tôi, cha tôi trao lại cho tôi. Nhưng tôi không biết đã cất ở đâu rồi, phải về nhà hỏi vợ tôi xem."

Phan Cát về nhà hỏi vợ. Người vợ trả lời rằng: "Chuỗi hạt được cuộn lại và giấu ở một góc trong quán ăn, bị kẹt vào trong khe, chẳng ai để ý đến cả!"


Phan Cát về nhà kiểm tra, quả nhiên là thấy chuỗi hạt ở đó. Ông ta cầm chuỗi hạt đen sì bóng loáng ấy đến cho tôi xem. Phan Cát không biết tầm quan trọng của chuỗi hạt này.

Tôi bảo Phan Cát: ”Ông nội Phan Lễ của ông niệm An thổ địa chân ngôn, kính lễ Phúc Đức Chính Thần, ngưỡng mộ Phúc Đức Chính Thần, chắp tay lạy Phúc Đức Chính Thần, ca ngợi Phúc Đức Chính Thần. Chính bởi vậy nên ông đã được Phúc Đức Chính Thần gia hộ.”


An thổ địa chân ngôn là: "Na-mô Sa-man-tô Mô-thô-nam Ôm Đu-ru Đu-ru Tê-vi Sô-ha.”

(Phạn ngữ tham khảo là: Namo Samanta Buddha Nam. Om Duru Duru Devi Soha. Trong đó cụm "Namo Samanta Buddha Nam" nghĩa là "Xin quy y toàn thể chư Phật"


Trước khi tụng Kinh, nhất định cần phải niệm chú này, cũng chính là để mời Địa thần bốn phương đến để bảo hộ cho việc tụng Kinh.


Phan Lễ cả đời tụng chú này, cung kính niệm, tự nhiên khiến cho các thần Thổ Địa cảm động mà tới gia hộ. Chú này không phải là câu chú của Phật, Bồ Tát, Kim Cang, cũng không phải là một câu chú lớn, nhưng vẫn không thể coi thường. Nó cũng có công lực bất khả tư nghì.


Nếu như có chúng sinh bị quỷ thần quấy nhiễu, tụng chú này thì quỷ thần sẽ rút lui, hơn nữa lại còn được quỷ thần kính trọng.


Nếu như có chúng sinh mắc phải các loại bệnh tật, tụng chú này thì tất cả bệnh tật cũng sẽ khỏi, thậm chí hoàn toàn không mắc bệnh, thân thể vĩnh viễn khỏe mạnh.


Trong quá khứ tôi từng dạy mọi người niệm chú này. Chú này có hiệu quả cực kì lớn đối với các bệnh ngoài da, ví dụ như bệnh nứt da kẽ ngón chân, bệnh viêm da mãn tính, bệnh chàm hình đĩa, v.v… Rất nhiều người mắc bệnh ngoài da đều khỏi, bởi vì câu chú này sẽ làm Phúc Đức Chính Thần cảm động mà tới, các ngài sẽ xử hết sạch những vi khuẩn gây bệnh ngoài da.


Nếu như có người nhất tâm chỉ trì tụng chú này, giữ được năm giới và làm việc thiện, tương lai người đó cũng sẽ không bị đọa xuống địa ngục và tam ác đạo. Người đó cũng có thể siêu sinh vào cõi người cõi Trời, được hưởng cuộc sống sung sướng.


Nếu có người cầu xin tài phúc thì câu chú này là tốt nhất. Tất cả các vị Phúc Đức Chính Thần sẽ dẫn dắt chúng quỷ thần lũ lượt tới để giúp đỡ cho người đó, người đó sẽ có được mọi sự bảo vệ của Thổ Địa, quỷ thần, gia tăng tài phúc vô cùng vô tận.


Phan Lễ cả đời trì chú này, rốt cuộc có được công lực lớn. Chuỗi hạt của ông nội để lại cho người cha, người cha lại để lại cho người cháu, vậy mà người cháu vẫn còn được hưởng tài phúc. Thực sự là bất khả tư nghì!


Tôi viết một bài kệ:

Niệm Phật trì chú bao phúc lạc.

Truyền xuống Ta Bà cõi thế gian.

Nhất tâm một lòng thành kính niệm.


Thần linh giúp đỡ mãi muôn đời.


Liên quan đến An thổ địa chân ngôn, tôi lại kể một câu chuyện như sau.


Có một khoảng thời gian bệnh dịch hoành hành trên cả nước, động vật và gia súc trong nhà chết rất nhiều. Tôi nhìn thấy rất nhiều những con quỷ bệnh dịch đến chiếm chỗ ở và cắn chết vật nuôi. Rất nhiều người chăn nuôi đến xin tôi cứu.


Thật bất ngờ là tôi phát hiện ra từ góc đông nam bầu trời có năm ôn thần đã hạ xuống phàm trần. Những ôn thần từ trên trời xuống đó đã khiến cho bệnh dịch hoành hành, gà, vịt, bò, dê, lợn đều sẽ mắc bệnh. Trong lòng tôi rất lo lắng.

Tôi gặp Thành Hoàng Bồ Tát, Bồ Tát nói:

"Không phải việc của tôi, đây là ý trời!"

"Ý trời giáng tai họa, người dân chịu kiếp nạn, tôi không thể làm ngơ!"

"Quản sao được, lòng người cũng bại hoại rồi!"

"Thấy chết không cứu, lòng khó mà yên." - Tôi nói.

Thành Hoàng Bồ Tát nói:

"Lư Thắng Ngạn, ngài ngày ngày cứu người, nhưng đây là nghiệp quả do con người tự gây nên. Nếu có một ngày chính ngài bị người ta hại, thử xem ai sẽ đến cứu ngài?"

Tôi nói:


"Khi người ta hại tôi thì đó là nghiệp chướng của tôi. Nhưng bây giờ nhìn đám gia súc gia cầm này gặp nạn, tôi không đành lòng!"


Thế là Thành Hoàng Bồ Tát dạy cho tôi một pháp.


Lấy bốn thanh tre dài khoảng 53cm, cạo bỏ đi phần màu xanh. Cần chọn ngày "Thành nhật" để chặt tre. Viết lên thân tre An thổ địa chân ngôn bằng chữ Phạn hay chữ Hán đều được. Vào ngày "Trừ nhật" sau giờ Ngọ thì khai quang. Niệm Chân ngôn lên mỗi thanh 108 biến, hoặc càng nhiều càng tốt. Chọn ngày "Định nhật" để đóng bốn thanh tre vào bốn góc của trang trại. Làm như vậy xong thì bệnh dịch sẽ không thể xâm phạm vào gia súc trong trang trại.


Tôi dạy cho những người chăn nuôi cứ theo pháp này mà làm. Quả nhiên hữu hiệu!


Chỉ cần cắm lên bốn thanh tre có viết An thổ địa chân ngôn vào bốn góc trang trại gia súc, bệnh dịch sẽ không phát sinh, dù chỉ một con bị bệnh chết cũng không có. Ngược lại, rất nhiều người chăn nuôi không biết pháp này. Năm đó khi bệnh dịch hoành hành, ngay cả việc chôn gà chết, lợn chết cũng không kịp. Chúng chết hàng loạt thảm thương vô cùng, thực sự rất đau lòng. Xác súc vật chết chất cao như núi.


Có một lái buôn đến kể với tôi.


Một đêm nọ anh ta nghe thấy bên ngoài trang trại có tiếng thì thầm. Nhưng kì thực không phải người mà là mấy con quỷ bệnh dịch, cả một bầy đến bên ngoài trang trại.

Một con quỷ nói:

"Cánh đồng này có ánh sáng thần chú, không thể vào được."

"Chú gì đấy?" - Con quỷ khác hỏi.

"Thần chú An thổ địa."

"Thần chú An thổ địa nhỏ bé như vậy làm sao mà ngăn được tôi, xông lên!"

"Không được!"

"Vì sao không được?"

"Thần Thổ Địa tuy là vị thần nhỏ, nhưng cũng là Chánh Thần."

"Chúng ta có pháp chỉ, có lệnh trời! - Quỷ hét to.

Con quỷ kia nói:

"Nhưng mà thần chú này lại được chính Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn khai quang đó!"

"Ui!" 

Bầy quỷ không nói gì nữa. Một con bảo:

"Đi thôi. Đến nhà khác kiếm đồ ăn. Đây không chỉ là thần chú Thổ Địa nhỏ bé đâu, mà còn có cả chỉ thị của Phật đó! Không đụng tới được!"


Bầy quỷ lần lần lữa lữa mãi mới chịu đi, tiếng quỷ huyên náo rồi dần dần tan đi ở phía xa…


Tôi thực sự nói cho mọi người biết:

Có rất nhiều người giàu. Sự giàu có của họ rất nhiều khi là do được quỷ thần giúp đỡ.

Có rất nhiều kiếp nạn. Nguyên nhân của kiếp nạn cũng rất nhiều khi là do quỷ thần gây ra.


Tất cả đều là họa do lực lượng vô hình làm nên.


Mặc dù Khổng Tử từng nói "Kính quỷ thần nhi viễn chi" [cung kính giữ khoảng cách với quỷ thần]. Câu nói này không phải là cho rằng không có quỷ thần, chỉ là không nên đùa với họ mà thôi.


Mọi người có thể chú ý thấy trong Kinh Thánh, chúa Jesus cũng từng bắt quỷ, cũng từng hàng phục ma. Trong quy tắc của Tiểu Phẩm Thần Chức của Thiên Chúa giáo cũng đã ban bố nghi thức đuổi ma [exorcism] của Giáo Đình. Cha Amorth 75 tuổi của Thiên Chúa giáo cũng chính là một vị thầy bắt quỷ nổi tiếng.


Quỷ thần vô hình rất đáng để chúng ta chú ý!

03. Răng kim cương


Nhớ lúc tôi còn nhỏ, mẹ tôi Lư Ngọc Nữ từng kể một câu chuyện cho chúng tôi nghe.


Có một bà lão tuổi đã cao, tất cả răng của bà không ngờ đều rụng hết sạch chứ không chỉ là "răng lung lay, tóc điểm bạc". Bà lão bị rụng hết cả hàm răng nên ăn thứ gì cũng rất khó khăn, thực sự là đồ ăn cứng hay mềm đều không ăn được, chỉ có thể ăn thức ăn là chất lỏng mà thôi.


Con dâu của bà rất hiếu thuận, luôn luôn để ý chăm sóc mẹ chồng. Thấy mẹ chồng răng rụng hết, ăn uống rất khổ sở, trong lòng cô cảm thấy rất buồn nhưng cũng không nghĩ ra cách gì hay cả.


Con dâu sinh được một đứa con trai. Con dâu cho con trai bú sữa. Thật khéo là sữa của con dâu rất nhiều, nhiều đến mức dư thừa, bình thường sau khi cho con trai bú xong, sữa mẹ vẫn tiếp tục chảy ra, hơn nữa càng chảy lại càng tiết ra nhiều sữa. Khi nhìn sữa cứ tiếp tục tiết ra, con dâu nghĩ đến mẹ chồng, thế là cô thuận tay ôm lấy mẹ chồng vào trong lòng. Mẹ chồng tuổi đã cao, thể trọng cũng rất nhẹ, không khác gì cô ôm một đứa trẻ vậy, thế là con dâu cho mẹ chồng bú sữa. Mẹ chồng không có răng và cũng chỉ có thể mút, nên bà cũng bú luôn sữa của con dâu cho tới khi no bụng.


Kể ra cũng kỳ lạ! Đứa bé lớn lên khỏe mạnh. Còn mẹ chồng kể từ khi bú sữa của con dâu, tình trạng tinh thần và thân thể đều tốt hơn rất nhiều so với lúc trước. Càng kỳ lạ hơn là khi đứa trẻ bắt đầu mọc răng, việc này đương nhiên là bình thường, nhưng lợi của mẹ chồng đang mềm lại trở nên cứng dần, bởi vì lợi cứng lại nên răng lại mọc ra. Thật không thể ngờ là bà lão từ chỗ răng rụng hết cả đã lại mọc ra 38 cái răng mới.


Bạn nói xem, chuyện này có kỳ lạ không? Hồi đó khi tôi nghe chuyện này, cảm thấy không thể nào có chuyện như thế. Mẹ tôi Lư Ngọc Nữ nói với chúng tôi:

1. Dinh dưỡng trong sữa mẹ vượt trội tất cả các sản phẩm sữa khác.

2. Sữa mẹ có hàm lượng canxi rất cao.

3. Lòng hiếu thảo của con dâu làm cảm động tới trời.

Câu chuyện đó tôi nghe nhiều thành quen. Sau này có một bác sĩ Đông y nói với tôi, sữa mẹ không những dinh dưỡng cao mà trẻ con bú sữa mẹ thường khó mắc bệnh, lại có khả năng miễn dịch tự nhiên. Bác sĩ nói với tôi, trong y học truyền thống Trung Quốc, sữa mẹ còn được gọi là rượu tiên (hay amrita trong Phạn ngữ, cam lồ). 

Rượu tiên.

Rượu tiên.


Ngay chốn nhân gian này lại có.


Đời này của tôi nhờ có năng lực siêu nhiên nên tôi tận lực cứu người, độ hóa chúng sinh, cũng bởi thế mà tôi cũng gặp được càng nhiều trải nghiệm kỳ lạ. Những trải nghiệm này kỳ diệu phi phàm, rất nhiều điều là bất khả tư nghì. Có một chuyện cũng liên quan đến răng.


Một cư sĩ tên gọi là Tưởng Duy, anh đến gặp tôi để hỏi chuyện.

"Anh muốn hỏi chuyện gì?" - Tôi hỏi.


Anh không nói gì, chỉ há miệng ra cho tôi xem.


Tôi nhìn vào răng cửa trên trong miệng anh thì thấy ngay chính giữa thiếu mất một chiếc răng, để lộ ra một lỗ hổng cực kì rõ ràng.

Tưởng Duy nói:

"Cái răng cửa này tự nhiên lỏng ra, rồi không bao lâu thì rụng xuống, bây giờ biến thành một khe hở ở chính giữa hàm răng. Thứ nhất là nhìn rất khó coi, thứ hai là khi nói sẽ phát ra gió, thứ ba là nước bọt cứ văng lung tung, thứ tư là theo sách tướng nói thì không giữ được tiền tài."

"Anh muốn…?" - Tôi hỏi.

"Liệu có thể xin một lá phù cho mọc răng mới được không!" - Tưởng Duy nói.


"Ha!" - Tôi cười, nói: "Thế thì phải đi đến nha khoa chứ."

Tưởng Duy nói:

"Thứ nhất, phí khám nha khoa rất đắt. Thứ hai, bởi vì không có chân răng nên cần phải nối với hai chiếc răng trái phải, giống như bắc cầu. Thứ ba, nếu có thể mọc răng mới thì là tốt nhất."

"Làm gì có chuyện mọc răng mới, đây cũng không phải là răng sữa của trẻ con."

"Nghe người ta nói ngài không có gì là không thể làm được!"

"Nói lung tung!"

"Không phải nói lung tung, là thật đó." - Tưởng Duy nói.

Tôi bảo Tưởng Duy:

"Ở chỗ tôi đây có phù giúp trẻ con mọc răng, có phù trị bệnh đau răng, có phụ trị bệnh viêm răng, có phù trị bệnh sâu răng. Nhưng tình trạng của anh không có phù nào thích hợp."

"Ngài cho tôi lá phù mọc răng là được rồi."

"Không thể được." - Tôi nói.

"Vì sao thế?"

"Đó là cho trẻ con, anh đâu phải là trẻ con."

Tưởng Duy thuyết phục:

"Thì cứ thử xem!"

"Đạo của phù chú là tâm thành tắc linh, không có chuyện thử xem."

"Tôi đến cầu phù mọc răng, như vậy cũng là rất thành tâm rồi."

Tôi nhắc lại lần nữa:

"Đó là cho trẻ con."

Tưởng Duy nói:

"Cứ xem như tôi là trẻ con cũng được."

"Phù không có hiệu quả, đừng trách tôi đó!"


"Sẽ không trách."


Tôi không thể cự tuyệt yêu cầu của Tưởng Duy nữa, đành miễn cưỡng vẽ một lá "Phù mọc răng" đưa cho anh. Anh có được lá phù này, nhưng tất nhiên hiệu quả thì hoàn toàn không có. Trẻ con thông thường vào thời kỳ mọc răng, nếu vẫn không nhìn thấy mầm răng, uống phù này vào lập tức răng sẽ mọc ra, thử 100 lần thì thành công cả 100 lần.


Tưởng Duy vẫn không bỏ cuộc, lại đến tìm tôi. Tưởng Duy nói: 

"Bạn tôi nói, ngài là người có nhiều cách nhất, pháp lực cao cường, rất nhiều chuyện vốn không thể, vào tay của ngài đều biến thành có thể, rất nhiều kỳ tích, hy vọng rằng ngài cũng làm nên kỳ tích trên người tôi."

Tôi cười khổ:

"Bảo người trưởng thành mọc răng mới, đây chẳng phải là cố ý tìm phiền phức sao?"


"Thế mới là kỳ tích, đấy mới gọi là kỳ tích."

Cuối cùng tôi nói với Tưởng Duy: "Thế này đi! Tôi biết trong Mật giáo có một vị Bồ Tát tên là Kim Cương Nha Bồ Tát [Vajrayaksa Bodhisattva], tôi đi thỉnh giáo ngài ấy, hỏi ngài ấy cách mọc răng mới, nói không chừng lại có cách truyền dạy lại cho anh."


Tưởng Duy vui vẻ ra về. Tôi vì Tưởng Duy liền chọn ngày giờ lập đàn thành Kim Cương Nha Bồ Tát, sắp đặt chỗ ngồi hoa sen của Kim Cương Nha Bồ Tát, hương - hoa - đèn - trà - quả cũng được bày ra để cúng dường.

Tôi niệm Tịnh pháp giới chân ngôn: “Ôm, Ram, Sô-ha.”

Tay kết thủ ấn Kim Cương Nha Bồ Tát.


Quán tưởng Kim Cương Nha Bồ Tát hạ giáng để nhận cúng dường.

Nguyện hương hoa thơm này

Đầy mười phương pháp giới

Cúng dường mọi chư Phật

Tôn pháp các Thánh hiền

Trong đất Phật vô biên

Vui mừng làm Phật sự

Dạy cho khắp chúng sinh

Đều cùng chứng Bồ Đề.

Đất nước lửa gió mau hiện thân

Cấp cấp luật lệnh gọi Bồ Tát

Một lòng cầu thỉnh Kim Cương Nha


Đàn thành cúng dường thực biến hóa.


Tôi nhìn thấy Kim Cương Nha Bồ Tát phóng quang giáng xuống đàn thành, Kim thân Bồ Tát cao lớn ngồi xuống tòa sen quý, xung quanh tỏa ra vô số vòng tròn ánh sáng rực rỡ.

Tôi khẩn trương hỏi: "Có Diệu pháp nào khiến cho người trưởng thành mọc răng mới không?"

Kim Cương Nha Bồ Tát cười lớn: "Ngài biết răng kim cương của tôi để làm gì không?"

"Tôi chỉ biết về răng, không biết để làm gì?" - Tôi bối rối.

"Tôi không ở đây để dạy người ta cách mọc răng mới. Răng kim cương của tôi tượng trưng cho sự dũng mãnh kiên cường và sự rắn chắc của răng có thể nhai vỡ tất cả ma chướng, nghiền vỡ tất cả tham sân si của con người thế gian, hễ có ma đến là nghiền nát ma, hễ có quỷ đến là nghiền nát quỷ, chính là nghiền nát tất cả tà ma ngoại đạo."


"Chà! Tôi hiểu rồi!" - Tôi gật gật đầu.

Kim Cương Nha Bồ Tát lại nói: "Nhất Kế Phật Mẫu [Ekajati Buddha] với một búi tóc, một mắt, một răng cũng tượng trưng cho sức mạnh này. Ngoài ra còn có răng ngựa của Mã Đầu Minh Vương [Hayagriva] cũng tượng trưng cho điều này. Cộng thêm răng kim cương của tôi, vậy là thành Nha Tam Tôn."

"Có cách làm cho người trưởng thành mọc răng mới không?" - Tôi lại hỏi.

"Không có."

"Việc này cần thỉnh giáo Bồ Tát nào?"


"Không biết."


Tôi chẳng còn lựa chọn nào khác đành tiễn Kim Cương Nha Bồ Tát đi. Trên thực tế tôi cũng biết, Bồ Tát hay tất cả các vị trí giả trong thập pháp giới đều không ai biết Diệu pháp nào để khiến người trưởng thành mọc răng, ngay cả đến Nha Tam Tôn cũng không biết.


Tôi cho rằng bản thân mình đã biết mọi thứ, biết trời, biết đất, biết người, biết pháp, biết chân lý. Kết quả là cuối cùng hóa ra những gì mình biết rất có hạn, bản thân mình chẳng biết tí gì, bản thân mình chẳng thể làm gì, bản thân mình là kẻ ngu si.


Tôi nghĩ đến lòng từ bi của Phật Bồ Tát. Đối với bệnh khổ phiền não của chúng sinh, các Ngài nhất định sẽ giúp diệt trừ, và cũng nhất định giúp hóa giải, và cần giúp một cách vui vẻ. Ngoài thanh tịnh nghiệp của bản thân ra cũng cần thanh tịnh nghiệp của người khác.


Trên phương diện giải trừ nghiệp của người khác, cần hướng dẫn người khác hiểu được về nhân quả nghiệp báo mà họ sẽ phải chịu trong quá trình trải qua cuộc đời. Cần tháo gỡ nút thắt nhân quả, có quá nhiều nút thắt nhân quả cũng giống như có sợi dây tự trói mình vậy.


Chỉ bằng cách thanh tịnh nghiệp, các nút thắt mới có thể tháo ra. Nếu nghiệp chướng hoàn toàn không còn nữa, Phật tánh tức khắc hiển hiện. Tu đến khi Phật tánh có thể hiển hiện chính là đã giác ngộ, đắc chứng rồi. Đây mới là lòng từ bi chân chính, là Bồ Tát chân chính, lợi mình lợi người, tự mình giác ngộ và giúp người khác giác ngộ.


Quay lại chủ đề chính, muốn nghĩ đến việc cứu giúp thế giới, bản thân mình cần có năng lực (chứng lượng), ít nhất là quanh mình cần phải có giới thần bảo vệ được mình, có Vi Đà Hộ Pháp đi theo, có Kim Cang Thần bảo hộ, có Đại Uy Đức Kim Cang, ngoài ra còn có Thiện thần, Thiên long bát bộ, Hộ pháp, v.v… Khi tôi đưa ra luật lệnh, các vị sẽ cùng giúp đỡ.


Tôi nhất định cần có năng lực để giúp giải thoát nỗi khổ của người khác, như vậy mới có thể độ người đi vào cửa Phật, bất kể thế nào thì đây là vấn đề thực tế. Vấn đề thực tế chưa giải quyết được thì làm sao người khác có thể khởi lòng tin, làm sao sinh ra được tín tâm?


Ý tôi muốn nói rằng, rất nhiều người ban đầu khi vào cửa Phật là bởi vì Phật pháp giúp cho nguyện vọng của họ có thể thành hiện thực.


Lấy Tưởng Duy làm ví dụ. Tưởng Duy cầu mọc răng mới. Nếu không mọc được răng mới thì có nói gì về Phật pháp anh ta nghe cũng không vào. Nếu có thể mọc răng mới thì Tưởng Duy sẽ quy y cửa Phật ngay.


Độ con người vào cửa Phật chính là như vậy. Đây chính là:

Tây phương có đường ít người ưa

Một câu Di Đà tối thượng thừa

Độ người học Phật gieo cảm ứng


Có cảm ứng rồi tự muốn tu.


Do vậy tôi nóng lòng muốn giúp Tưởng Duy. Thế nhưng, tôi phát hiện ra chính mình rất vô dụng, không có khả năng, không có phương pháp.


Tôi tự trách mình, cho dù thông thiên thông địa cũng chẳng thông được một chiếc răng mới. Phật, Bồ Tát, Thần Tiên nhiều như vậy, một phép thần thông để giúp việc này cũng không có thì làm sao cứu thế giới chứ.


Phật pháp liệu có thể mở to cái miệng Tưởng Duy ra, trồng vào lợi anh ta một mầm răng, rồi từ từ nó sẽ lớn lên thành chiếc răng không? Hoặc là hô lên một tiếng "Biến!". Thế là biến ra một chiếc răng mới. Ngay cả một chút thần thông như vậy cũng không có, làm sao bảo người ta tin đây? Tôi thực sự buồn phiền.


Một lần nữa gặp Tưởng Duy, tôi nói với anh:

"Mọc răng mới e là không được đâu!"

"Cái gì? Người ta đều nói ngài thần thông quảng đại."

"Tôi nói không được là không được." - Tôi đỏ mặt.

"Thế còn gọi gì là thần thông!" - Anh có vẻ hơi trách móc.


"Như vậy đi!" - Tôi nói. "Tôi dạy anh một câu thần chú, câu chú này rất hay. Chỉ cần tụng đủ 100 nghìn biến thì mọi lời cầu nguyện tốt đẹp đều thành tựu. Nếu tụng đủ 350 nghìn biến thì thành tựu tất cả, không có gì là không đạt được. Thoát khỏi mọi bệnh tật bất kể là bệnh gì, càng có thể tụng nhiều thì càng thoát khỏi mọi tai họa, tất cả ma chướng đều bị tiêu diệt. Nếu tụng đủ 8 triệu biến thì tự mình vãng sanh đến Phật quốc Cực Lạc."

Tưởng Duy xúc động: "Được. Tôi chỉ cần mọi ước nguyện tốt lành đều thành tựu thôi."

Tôi dạy anh niệm: "Om Guru Liansheng Siddhi Hum." (Ôm, gu-ru, lién-sâng, sít-đi, hùm)

"Đây là chú gì vậy?"

Tôi đáp:

"Liên Hoa Đồng Tử tâm chú, còn gọi là chú mọc răng."


"Bất kể là Liên Hoa Đồng Tử hay không Liên Hoa Đồng Tử, chỉ cần mọc răng được là tốt!"

Tưởng Duy niệm chú, không ngờ lại rất tôn kính. Anh tắm rửa sạch sẽ, tẩy tịnh thắp hương, ngồi thẳng niệm chú, chắp tay hoa sen. Đầu tiên anh loại bỏ hết tất cả suy nghĩ hỗn tạp, quán tưởng trong hư không có một vị Phật phóng quang đến chiếu vào Tưởng Duy, và trong miệng Tưởng Duy mọc lên một chiếc răng mới.

Sau đó lại niệm: "Om guru liansheng siddhi hum."

Sau khi Tưởng Duy trì tụng Liên Hoa Đồng Tử tâm chú được 100 nghìn biến, nửa đêm nằm mơ thấy một vị Bồ Tát hạ giáng. Vị Bồ Tát này hỏi anh ta vài câu hỏi rất sâu sắc:

"Vì sao đánh trống?"

"Trống không đánh không nghe âm thanh!" - Anh đáp.

"Vì sao anh tới đây?" - Bồ Tát hỏi.

"Hàm răng không đủ, làm sao mở miệng!"

Bồ Tát nói tiếp: "Bởi vì anh đã đánh trống rồi, vậy thì ta đặc biệt bổ sung khiếm khuyết của anh!"


Bồ Tát lập tức dùng tay sờ đầu anh, rồi lại dùng tay chạm vào mặt anh, ấn ấn vào quanh miệng anh. Tưởng Duy lập tức cảm thấy toàn thân thanh nhẹ, lợi dường như sưng lên, rồi cũng dường như cứng lại, giống như thực sự đã mọc răng mới rồi.


Chuyện lạ đã xảy ra!


Kể từ khi Tưởng Duy có giấc mơ này thì lợi của anh thực sự trở nên cứng hơn, chỗ khe hở nơi răng cũ bị rụng từ từ nhô lên một chấm màu trắng. Chấm màu trắng từ từ lớn dần, chẳng ngờ nó thực sự là một chiếc răng mới đang mọc ra.


Kỳ tích! Kỳ tích!


Thực sự quá thần kỳ rồi!


Tưởng Duy chạy đến nói cho tôi hay. Tôi không nói gì, tôi chỉ nói với anh rằng từng có một vị Lama Hồng giáo ở Tây Tạng đã 73 tuổi, răng đã rụng hết sạch. Vị Lama này trì chân ngôn bảy chữ của Liên Hoa Bộ, chính là câu "Ôm, A-lua-li-cưa, Sô-ha" vô số lần, không ngờ lợi của ngài lại mọc lên bảy chiếc răng mới. Câu chuyện này được lan truyền khắp Tây Tạng, tôi được một vị Hoạt Phật Tây Tạng (Rinpoche) kể lại cho nghe.


Trong lòng tôi cũng vui mừng thay cho Tưởng Duy.


Kì thực khi lợi trong miệng của Tưởng Duy cứng lại, tôi cũng đã có cảm ứng kỳ lạ. Cái răng khôn ở hàm dưới bên trái của tôi vô duyên vô cớ lại bị đau. Tôi đi khám nha sĩ, nha sĩ nói với tôi rằng anh ta không tìm thấy nguyên nhân bị đau răng, bởi vì răng khôn không bị sâu, lợi cũng không bị sưng, dây thần kinh không bị viêm, răng khôn vẫn rất chắc chắn.


Nha sĩ tiêm một mũi giảm đau, cơn đau tạm thời dừng, nhưng khi thuốc hết hiệu lực thì nó lại đau!


Tôi rất buồn. Tôi biết "Phù khỏi đau răng" bèn cung kính vẽ một lá phù, đốt phù rồi hòa vào nước uống. Bình thường phù này rất hiệu quả, nhưng tôi uống xong thì chẳng thấy gì. Tôi thử vẽ thêm nhiều lá phù nữa, rồi uống nhiều lá phù, vẫn vô hiệu!


Cuối cùng tôi đã hiểu ra câu truyền miệng mà người ta vẫn thường nói: "Đau răng không phải là bệnh, chỉ là đau tới mức muốn lấy tính mệnh người ta."

Tôi lại đi khám nha sĩ. Nha sĩ nói: "Thế này vậy! Răng khôn đến một độ tuổi nào đó thì cần phải nhổ đi, thật ra là từ đầu nên nhổ nó đi rồi, chi bằng nhổ luôn cho xong, nhổ đi vậy!"


Tôi nói: "Được!"

Tôi nhổ răng khôn xong thì cơn đau cũng không còn nữa. Vào ngày mà tôi nhổ cái răng khôn đó, cái răng mới của Tưởng Duy đã mọc ra. Có người hỏi tôi:

"Lư Sư Tôn, là ngài thế thân cho Tưởng Duy sao?"

Tôi chỉ cười. 

Đây là pháp thế thân, hay chỉ là sự khéo trùng hợp?


Tôi cũng không biết.


Cá nhân tôi cảm thấy, Tưởng Duy vì muốn mọc cái răng mới mà trì chú, việc này thực sự là lãng phí như việc dùng búa tạ đập vỏ hạt vậy, cũng giống như chuyện bé xé ra to vậy.


Liên Hoa Đồng Tử tâm chú là một câu chú có thể trực tiếp đưa người ta đến Phật quốc, Phật quốc này chính bản thân tôi đích thân tự chứng nghiệm, tôi không hề nói dối. Tôi thực lòng thực sự nói cho mọi người biết rằng, trì Liên Hoa Đồng Tử tâm chú chính là trở thành Liên Hoa Đồng Tử.


Thật may sao, Tưởng Duy sau khi mọc được cái răng mới đã có được lòng tin lớn đối với chú này mà niệm chú không ngừng. Anh nói với mọi người: "Câu chú này cực kì hiệu nghiệm, thực sự bất khả tư nghì đó!"


Có một bài thơ như sau:

Hỡi thế nhân ơi xin niệm chú

Tội chướng ác nghiệp chóng tiêu trừ

Nhà tù thế gian cần thấy rõ

Danh lợi khác chi nến tù mù.

Sinh lão bệnh tử lẽ tự nhiên.

Tình cảm đến đi rồi tan biến.

Chi bằng chuyên tâm niệm Phật chú


Cực Lạc thế giới chóng an cư.


(Bài thơ này cũng như một lời thức tỉnh vậy.)

04. Thoát nạn lở đất

Pháp sư Thích Chiêu Dẫn và tôi cùng thảo luận Phật pháp.

"Lư Sư Tôn tự mình nói rằng đã ngộ đạo, tôi xin mạn phép hỏi đã ngộ đạo gì vậy?"

Tôi đáp:

"Đạo này ngôn ngữ chẳng thể nói."

"Vậy làm sao biết?"

"Lạnh ấm tự biết." [Thiền ngữ, ý nghĩa là người nào thực sự trải nghiệm được “đạo”, được “kiến tánh” rồi thì người đó sẽ tự biết.]

"Nếu nói như vậy thì ai cũng nói được!" - Thích Chiêu Dẫn nói.

"Đúng là ai cũng nói được, nhưng cần tự mình xem xét mình đã thực sự tự tại hay chưa."

"Đạo có hình dạng không?"

"Đạo vốn không phải là một sự vật."

"Bởi vì đạo chẳng có hình dạng gì, làm sao dựa vào điểm gì để cân đối?" – Thích Chiêu Dẫn hỏi.


"Tự nhiên."


Pháp sư Thích Chiêu Dẫn tự nhận bản thân đã học thiền 20 năm. Lần này ông đến cùng Lư Thắng Ngạn thảo luận Phật pháp, muốn nhất định có thể khiến tôi một lần và mãi mãi không dám mở mồm nữa. Chỉ cần có thể tìm ra một lỗi nhỏ xíu khi nói chuyện Phật pháp của Lư Sư Tôn là sẽ phải truy đến cùng.


Nhưng tôi mỉm cười, lời lẽ rất chặt chẽ.

"Lư Sư Tôn, ông chẳng phải Phật, cũng chẳng phải Đạo gia, khiến người ta phê phán!"

"Cao như đỉnh núi, sâu như đáy biển, xin hỏi ông hai thứ này có liên quan với nhau không?"

Thích Chiêu Dẫn lại hỏi: "Vì sao cần phải dính dáng đến chư Thiên?"

"Tận cùng tam thiên đại thiên thế giới, chẳng có gì ngoài bong bóng."

Thích Chiêu Dẫn có vẻ không biết phải hỏi gì nữa, ông nói:

"Lư Sư Tôn tự nhận là có thần thông, liệu có thể cho tôi thấy bằng chứng không?"

"Tôi muốn cứu ông!"

"Cứu tôi!" - Thích Chiêu Dẫn lạnh lùng cười từ chối: "Tôi có thể tự độ, đâu cần ông đến độ?"

Tôi trả lời: "Độ và tự độ, chẳng phải việc gấp. Trước mắt ông sắp gặp một tai nạn!"

"Tướng sĩ dọa người, đều cùng một giuộc!"

"Tin hay không tin, hoàn toàn tùy ông!"

"Thử nói xem!"

"Xung quanh ông có bốn người mặc áo đen đang muốn lấy mạng ông!"

"Làm sao để bảo vệ?"

"Cần niệm chú Ma Lợi Chi Thiên [Marici Bodhisattva] là có thể tránh được!" 


"Câu chú này tôi từng học qua rồi, cũng từng niệm, nhưng lâu rồi không niệm."

Tôi trang trọng nói:

"Pháp sư niệm chú Ma Lợi Chi Thiên: Ôm Ma-ri-chi Yê Sô-ha.”

Xin hãy niệm thêm:

"Xin bảo vệ con khỏi nạn thống trị.

Xin bảo vệ con khỏi nạn cướp bóc.

Xin bảo vệ con khỏi nạn đi đường.

Xin bảo vệ con khỏi nạn nước lửa.

Xin bảo vệ con khỏi nạn binh đao.

Xin bảo vệ con khỏi nạn ma quỷ.

Xin bảo vệ con khỏi nạn trúng độc.

Xin bảo vệ con khỏi ác thú, côn trùng có độc, người ác làm hại.


Mọi lúc mọi nơi xin bảo vệ con."

Pháp sư Thích Chiêu Dẫn đáp:

"Ông nhìn thấy xung quanh tôi có bốn người mặc áo đen, nhưng tôi lại chẳng nhìn thấy. Ông muốn tôi niệm chú Ma Lợi Chi Thiên, việc này tôi có thể niệm được. Nhưng ông nói tôi sắp gặp nạn, nếu không có gì xảy ra thì chắc chắn tôi sẽ nói thần thông của ông là giả, ngay cả việc ông ngộ đạo cũng là "tri kiến" mà thôi, hoàn toàn chẳng phải là thực sự ngộ đạo."


Tôi đáp: "Tùy ông!"


Pháp sư Thích Chiêu Dẫn chắp tay một cái rồi đi.


Tôi thực lòng thực sự nói cho mọi người biết, ngay khi pháp sư Thích Chiêu Dẫn đến gặp tôi, tôi đã cảm ứng thấy vị pháp sư này sắp gặp ác nạn vào thân, bởi vì xung quanh ông có bốn vị minh sứ mặc đồ đen đang chờ sẵn. Bốn vị minh sứ này đi trước pháp sư, tranh nhau đi vào nhà tôi, nhưng ngay từ đầu đã bị tôi chặn lại, họ chỉ có thể lảng vảng ở bên ngoài cửa, không thể đi vào trong nhà.


Tôi thường âm thầm ở trong bóng tối mà cứu độ chúng sinh như vậy. Rất nhiều tai nạn của con người, có nhiều lúc chính bản thân họ chưa chắc đã biết. Tôi cũng không nói cho họ biết, chỉ là cứ bận rộn giúp đỡ họ trong âm thầm mà thôi, giúp hóa giải tai nạn của họ.


Nhưng kì thực con người vốn không thể miễn hoàn toàn khỏi tai nạn. Phật Thích Ca Mâu Ni từ lâu đã nhìn rõ: "Cuộc đời cơ bản là vô thường."

Tam giới hừng hực như đám lửa

Xuất gia chưa phải đất an thân

Vô thường bấy lâu luôn chờ sẵn


Sửa soạn thân tâm về nơi xưa.


Tôi biết con người thế gian rất sợ tai nạn và kiếp số. Bởi vậy tôi thường xuyên tu pháp, giúp đỡ mọi người vượt qua tai nạn trong bí mật. Tôi cũng niệm chú Ma Lợi Chi Thiên rồi hồi hướng cho pháp sư Thích Chiêu Dẫn. Có sự trợ giúp của tôi, Thích Chiêu Dẫn đã được cứu rồi.


Vốn dĩ, pháp sư Thích Chiêu Dẫn sống một mình tại một cái chòi sâu trong núi Bát Quái ở Chương Hóa. Pháp sư Thích Chiêu Dẫn tu thiền định, ngồi tư thế kiết già. Pháp sư vốn là một du học sinh du học ở Nhật Bản, sau này cảm thấy hứng thú với Phật pháp nên đã xuất gia tại tu viện Soto Zen nổi tiếng ở Kyoto. Dòng chảy pháp của ông ấy không ngờ là xuất phát từ Nhật Bản.


Sau khi tôi biết Lục Tổ Huệ Năng, chính bởi vì việc tranh giành áo tổ Thiền tông mà từ đó ngài không còn truyền pháp nữa. Từ đó Thiền tông liền "một hoa nở năm cánh", đây chính là thời kỳ nở rộ của Ngũ Gia sau này. Ngũ Gia này chính là: Lâm Tế tông, Tào Động tông, Ngưỡng tông, Vân Môn tông, Pháp Nhãn tông. Thiền tông còn có một tên gọi là Tâm tông.


Tên gọi Thiền tông bắt đầu vào triều đại nhà Đường. Thiền chính là tu tư duy. Tu tư duy chính là suy ngẫm về chân lý, là pháp tu tĩnh lặng, hơi thở, ý niệm, ngẫm nghĩ.


Đại sư Thiền tông đầu tiên ở Trung Quốc là Sơ Tổ Đạt Ma Bodhi Dharma, một người Ấn Độ, vào triều đại Lương Ngụy đã đến Trung Quốc truyền Phật Tâm tông. Pháp của ngài chủ yếu là ngồi yên lặng mặc niệm, phát bồ đề tâm, công phu tập trung tĩnh lặng, nhìn bên ngoài giống như thiền định, bởi vậy gọi là Thiền tông.

Thiền tông nhấn mạnh:

"Bất lập văn tự.

Giáo ngoại biệt truyền.

Trực chỉ nhân tâm.


Kiến tánh thành Phật."


Vào một đêm tối mưa bão, Thích Chiêu Dẫn một mình thiền định suy ngẫm, bên ngoài căn chòi mưa to như trút nước đã ba ngày ba đêm. Thích Chiêu Dẫn biết rằng thị trấn nhỏ ở dưới núi đã bị ngập rồi, nếu mưa cứ tiếp tục không ngớt thì e rằng sẽ gây ra lụt lớn.

Đột nhiên bên ngoài căn chòi có tiếng khóc của trẻ con vọng đến, tiếng khóc hòa lẫn với tiếng mưa rơi rào rào lộp bộp.

"Ma mi! Ma mi!" [Mẹ ơi! Mẹ ơi!]

Thích Chiêu Dẫn căng tai ra nghe ngóng:

"Ma mi! Ma mi!" - Tiếng gọi liên tục, không hề sai, là tiếng trẻ con khóc.

Nghe lại thì dường như lại biến thành:

"Marici! Marici! Marici!"

Ông niệm một câu: ”Ôm Ma-ri-chi Yê Sô-ha.”


Trong mưa gió bão bùng, Thích Chiêu Dẫn vội vàng đứng dậy, khoác áo mưa, xỏ vào đôi ủng cao, tay cầm đèn pin, lập tức đi ra ngoài căn chòi, hướng về phía âm thanh kia để đi tìm đứa trẻ con đang khóc. "Ma mi! Marici!"


Tiếng khóc này rốt cục là "Ma mi" hay là "Marici", ông cũng cảm thấy lẫn lộn cả. Âm thanh lúc thì ở phía trước, lúc thì ở phía sau, lúc ở bên trái, lúc ở bên phải, có vẻ như đang chơi trò trốn tìm với Thích Chiêu Dẫn. Ông đi trong cơn mưa bão suốt một tiếng đồng hồ. Tiếng khóc không còn nữa. Ông đợi rất lâu, nghe ngóng rất lâu, một tiếng hơi thở cũng không có. Ông đột nhiên nhớ ra khu vực xung quanh đây vốn chẳng có nhà nào, bởi vì không có nhà nào ở trong núi sâu thì làm sao mà có tiếng trẻ con khóc đây?


Thích Chiêu Dẫn vội vàng quay trở về căn chòi. Thế nhưng khi ông đang vội vàng quay trở về, ông đứng sững lại: "Căn chòi đã biến mất."


Căn chòi đã bị đất đá lở từ trên vách núi chôn vùi, trở thành một ngọn đồi nhỏ. Đất đá ở trên núi vẫn tiếp tục từng đám, từng đám lăn xuống. Ngay cả nơi ông đang đứng cũng rất nguy hiểm. Thích Chiêu Dẫn kinh hoàng thất sắc, vội vội vàng vàng bỏ chạy khỏi nơi mình đã ẩn tu 20 năm.

Tính mạng ông đã cứu được rồi!


Nhưng tất cả đồ đạc cá nhân đều không còn gì nữa!


Sau chuyện đó, Thích Chiêu Dẫn nhớ lại, trong cõi vô hình thực sự có tồn tại kiếp nạn này, từ đầu đã được Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn nhìn ra rồi. Bốn vị minh sứ mặc đồ đen đó chính là đang chờ để bắt ông. Nhờ có Liên Sinh Hoạt Phật yêu cầu ông niệm chú Marici, lúc này ông mới bắt đầu thấy tầm quan trọng của câu chú hộ thân này. Thích Chiêu Dẫn mặc dù học Thiền tông nhưng ông cũng có để ý tới các tông phái khác. Chú Marici ông đã từng niệm từ lâu. Sau khi bảo ông tiếp tục niệm, ông cũng thực sự có niệm.

Tục ngữ nói:

Có thắp hương có bảo vệ!

Có ăn cơm có năng lượng!

Ma mi!

Marici!


Thực sự nghe rất giống nhau.


Sau khi Thích Chiêu Dẫn rời khỏi núi Bát Quái, ông đã đi ở nhờ tất cả các ngôi chùa ở trong tỉnh. Vốn quen với sống ẩn cư một mình trong căn chòi sâu trong hang núi, một mình tu hành, thực hành khổ hạnh đầu đà, bây giờ ông thay đổi hình thức, sống nhờ ở rất nhiều chùa, thực sự là một trải nghiệm mới.


Ông làm quen với nhiều hành giả, cũng nghe rất nhiều người nhắc đến Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Nhìn chung mà nói, những lời phê phán cũng nhiều, do những lời đồn đại tiêu cực nhiễm vào ý thức nên đại bộ phận người tu hành đều tương đối bài trừ Liên Sinh Hoạt Phật, chỉ có một số ít người giữ được thái độ quan điểm của riêng mình. Đây cũng chính là tình trạng phổ biến trong giới tôn giáo.


Thích Chiêu Dẫn chỉ nghe mà không phát biểu ý kiến. Khi người khác nhắc đến Thiên ma hoặc ngoại đạo, ông giữ im lặng. Ông tự biết những gì mình đã trải qua. Ông có lòng muốn thay Liên Sinh Hoạt Phật giải thích, nhưng con người nhỏ bé như ông, tiếng nói cũng chẳng có trọng lượng gì, cơ bản là chẳng có cách nào vượt qua được giới hạn này, nghĩ nhiều cũng chẳng cần thiết. Vậy nên ông luôn luôn giữ im lặng trầm mặc.

Thích Chiêu Dẫn đến tìm tôi, nhắc lại những gì ông đã nghe người ta nói. Ông nói:

"Sao ông không thay đổi hết mọi thứ trong quá khứ, dùng phương thức mới để độ hóa chúng sinh, xây dựng cơ sở cho pháp môn!"

Tôi đáp: "Đã bị mọi người có định kiến rồi, muốn làm lại từ đầu, tưởng là dễ, thật ra khoảng cách vẫn còn xa lắm."

"Nên có hy vọng mới đi!"

"Thành kiến cũ đã in sâu trong tâm trí con người rồi, dù có bao lâu con người cũng sẽ chẳng buông bỏ. Tôi đã quen rồi, tất cả cũng chẳng phải là vấn đề gì!"

"Ông nghĩ rằng không cần thiết sao?" - Thích Chiêu Dẫn nói.

"Đúng vậy. Đây cũng là nguyên tắc tự rèn luyện của tôi."

"Như vậy danh dự sẽ bị hủy hoại!"

"Rèn luyện bản thân, danh dự không còn quan trọng, việc này là thể nghiệm cần thiết để thành Phật."


Thích Chiêu Dẫn gật gật đầu.

Tôi nói với Thích Chiêu Dẫn:

"Năm đó, khi tôi xuống núi rời xa Liễu Minh Hòa Thượng, Sư Phụ nói với tôi, con người kiểu như tôi thì chỉ có ba con đường. Thứ nhất, lập tức đi nhập niết bàn. Thứ hai, lập tức ẩn cư trong núi sâu, không xuất thế. Thứ ba, giả điên khùng trong nhân gian."

"Ồ!"

Tôi cười:

"Nhưng tôi đã thành tựu được niềm vui tự tại rồi, tôi chẳng để ý bên ngoài người ta bình luận tôi ra sao!"

"Ông có hối hận không?" - Thích Chiêu Dẫn hỏi.

"Không!"

"Ông có đau khổ không?"

"Không!"

"Thế còn những thứ như danh dự, khen ngợi, mỉa mai, đau khổ?"


"Chẳng có chút gì liên quan đến tôi! Tôi chỉ là chơi trò chơi thần thông, tất cả đều là thể nghiệm mà thôi!"

Thích Chiêu Dẫn cung kính mời tôi lên pháp tọa, sau đó chính thức đảnh lễ tôi ba lần, ba cái đảnh lễ cúi đầu.

"Vì sao lại đảnh lễ như vậy?"

"Cảm tạ ơn cứu mạng!"

"Không phải tôi cứu, là ông tự cứu mình!"

"Nhưng cũng nhờ ông chỉ điểm cho!"


Tôi không nói gì.

Thích Chiêu Dẫn nói với tôi trước khi rời đi:

"Tôi rất muốn thoát khỏi thế gian đầy phiền não này!"

Tôi nói với ông:

"Xuất ly khỏi thế gian, chính ở tại tâm mình. Tâm nếu đã tự tại, chính là đã xuất ly!"

"Ý ông là cần thích nghi với thế gian?"


"Không! Cơ bản là chẳng có thế gian nào." - Tôi trả lời.

Thích Chiêu Dẫn suy nghĩ rất lâu, cuối cùng gật gật đầu. Ông đã hiểu rồi, ông nói: "Tôi đã hiểu pháp rồi, nhưng muốn ứng dụng được, nếu có thể ứng dụng được vào thực tế, thì mới là Chân Phật!"


Có một bài kệ:

Một hai ba bốn năm sáu bảy

Nhất tâm bất loạn vãng sanh ngay

Lời Phật nói dễ như trở tay


Bước đi toàn thân lún bùn lầy.

05. Triệu hồi pháp lực


Tôi có một giấc mơ rất kỳ lạ!


Tôi bay qua những ngọn núi trùng điệp. Khi bay đến đỉnh núi cao nhất, tôi nhìn thấy một vị Rinpoche Tây Tạng (Hoạt Phật) đang ngồi trên một nơi bằng phẳng, bên cạnh có hai vị Lama, một người cầm dải cờ, một người đang thổi tù và.

Tôi bay một cách thoải mái tự do ở khoảng không phía trên vị Rinpoche Tây Tạng này. Vị Rinpoche này hỏi hai Lama bên trái phải:

"Người Hán này là ai?"

Lama trả lời:

"Là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn."

Người kia nói thêm:

"Lư Thắng Ngạn rất nổi tiếng, có pháp lực cao cường, đã từng đến tu viện Drepung thuyết pháp."

Rinpoche Tây Tạng lẩm bẩm với chính mình một lúc rồi nói:


"Ta muốn thu hồi pháp lực của ông ta!"


Sau khi mộng cảnh đó kết thúc, tôi lại có một giấc mơ khác cũng liên quan đến vị Rinpoche Tây Tạng này.


Tôi và vị Rinpoche cùng đứng bên bờ một con sông lớn, nước sông cuồn cuộn dâng lên những cơn sóng dữ dội. Tôi cũng không rõ sông sâu thế nào, hơn nữa khả năng nổi được trên con sông này rất ít. Tôi nhìn thấy một chiếc lá rơi trên sông, nhưng nó không thể nổi được, rất nhanh chóng bị nhấn chìm trong nước. Con sông lớn với dòng nước dữ dội này nguy hiểm tới mức dù một chiếc lông ngỗng cũng không thể nổi được.

Rinpoche Tây Tạng nói với tôi:

"Lư Thắng Ngạn, ông dùng pháp lực băng qua sông trước đi. Không được phép dùng thần thông để bay qua, phải đi trên mặt nước để qua sông!"


Đây là ông ta muốn thử nghiệm công lực của tôi.


Trước tiên tôi quán tưởng Tổ sư dòng truyền thừa trên đỉnh đầu mình, tay kết Thủy thiên ấn, miệng tụng Tỵ thủy quyết:

Một vùng nước vô tình.

Nghìn thu chẳng ai qua.

Nay tôi dậm bước tới

Biển cả hóa nương dâu.

Cấp cấp như luật lệnh.

Cấp cấp như luật lệnh.


Cấp cấp như luật lệnh.


Tôi bước trên mặt nước, quả nhiên mặt nước rắn đặc lại như mặt đất khô. Tôi cứ đi từng bước từng bước, chẳng có việc gì xảy ra cả, rất nhanh chóng đã đến được bờ bên kia.


Bây giờ tới lượt Rinpoche Tây Tạng đi qua sông. Ông ta lưỡng lự một lúc rồi học theo tôi sải nhanh những bước lớn đi trên mặt nước. Không ngờ nghe một tiếng "bõm", ông ta liền bị rơi xuống nước, toàn thân ướt sũng, vô cùng thảm hại. Trong phút chốc Rinpoche Tây Tạng chìm xuống dưới nước, sắp chết rồi!


Đúng lúc này, có một con chim đại bàng cánh vàng bay đến, nó chính xác là Hộ pháp Kim Súy Điểu của Rinpoche Tây Tạng. Nó túm lấy cổ áo của Rinpoche kéo ông ấy lên rồi thả trên mặt đất khô ráo.

Rinpoche Tây Tạng rất bối rối. Ông ta quay đầu về phía tôi và nói: 

"Tôi muốn thu hồi pháp lực của ông!"


Giấc mơ thứ hai này vô cùng không bình thường. Thời gian này rất nhiều vị Rinpoche Tây Tạng đến quy y tôi. Tôi cùng chủ trì pháp hội với giáo chủ phái Gelugpa, ngài Ganden Tripa Rinpoche. Tôi đã gặp mặt Dalai Lama. Tôi đã lên thuyết pháp tại ba chùa lớn ở Tây Tạng, là người Hán duy nhất ngồi trên pháp tọa thuyết pháp. Tiếng tăm của tôi đã truyền đi khắp Ấn Độ, Tây Tạng. Rất nhiều vị Rinpoche Tây Tạng đến quy y tôi, trong số đó có một người là chủ tịch Quốc hội của chính phủ lâm thời Tây Tạng, ngài Jigme Lhundrup Rinpoche.

Tranh pháp tướng của tôi được thờ cúng tại:

Tu viện Ganden Shartse Sockpa Khangtsen.

Tu viện Drepung Tsawa Khangtsen.


Và những nơi khác.


Tôi nghĩ một mặt nếu cứ như thế này, tôi chắc chắn sẽ cùng Mật tông Tây Tạng kết thành mối nhân duyên sâu đậm, việc này đương nhiên là việc tốt, bởi vì truyền thừa của tôi xuất phát từ Tây Tạng. Nora Rinpoche (Gara Lama), Liễu Minh Hòa Thượng, Thubten Nyima, Thubten Tare, Thubten Dhargye, Đại Bảo Pháp Vương Karmapa thứ 16, Sakya Chứng Không Thượng Sư, và các vị khác.


Tuy nhiên cũng có mặt không tốt, bởi vì pháp lực của tôi quá cao cường, tiếng tăm vang lừng, rất dễ khiến cho người khác phải chau mày khó chịu. Đương nhiên cũng có những vị Rinpoche Tây Tạng không phục tôi. Tôi cảm thấy vị Rinpoche trong hai giấc mơ này chính là một người không chấp nhận tôi, nhắc đi nhắc lại là muốn thu hồi pháp lực của tôi. Hai giấc mơ này là một lời cảnh báo, có vẻ là điều không mấy tốt lành.


Việc này chính là:

Không hướng Chân Như ngộ bản tánh

Uổng phí đảm đương Pháp Vương thân

Chưa mở Bồ Đề đi gánh vác


Tranh cường đấu thắng sao thành chân.


Từ trước tới nay tôi tu Mật giáo, lập đàn trì chú, tam nghiệp tương ứng, diệt trừ chướng ngại, tăng trưởng trí huệ, thân là phàm phu, tu thành Thánh nhân, uy đức thần lực, bất khả tư nghì.


Tâm pháp mà tôi có được là khi Đại Nhật Như Lai vượt khỏi tam thế (quá khứ, hiện tại, tương lai), ở cung điện Pháp Giới Tối Thắng của cõi Trời Sắc Cứu Cánh Thiên, đã tuôn chảy pháp yếu nội chứng cho Kim Cang Tát Đỏa và những vị khác. Tôi đã nhận được quán đảnh từ nhiều vị thầy, đạt được tất cả pháp yếu bí mật của Đại, Hiển, Mật, thành lập Chân Phật Tông, kiến lập Mandala. Thành tựu của tôi chỉ có một vị Phật mới có thể làm được.


Tôi biết đại công đức mà tôi tu tập được, trên thế gian rất hiếm khi nghe nói đến, bởi vì Chân Như chính là bản thân tôi.


Bởi vậy:

Bốn tầng bí mật

Lớp lớp thâm sâu

Tam nghiệp huyền bí


Mật thừa khéo dùng.


Tôi mơ hai giấc mơ rất rõ ràng và sống động. Nhờ ý thức của tôi là một với Phật tánh, trọn vẹn không khiếm khuyết, không xa rời căn tính, không tạo nên những ảo tưởng, không tạo nghiệp, nên giấc mơ này không giống với những giấc mơ của con người bình thường.


Ngoài giấc mơ, trong thiền định của tôi cũng hé lộ một cảnh tượng thú vị. Tôi thấy mình đang đi trong một cõi địa ngục, ở đây hoàn toàn không có đèn, không phân biệt được phương hướng. Tâm tôi lưu xuất ra ánh sáng từ bên trong để soi đường. Ngoài ra, trên đỉnh đầu tôi có ba ngọn đèn vàng, đó là ánh sáng truyền thừa của tôi. Lúc này trên không trung có một con chim lớn lượn vòng xuống, nó dùng mỏ gắp ba ngọn đèn của tôi đi mất. Tiếp theo xung quanh xuất hiện những con mãnh thú gầm gừ, vô cùng dữ tợn, có rất nhiều ác quỷ phát ra những âm thanh ghê rợn. Thực sự là một cõi giới đáng sợ. Tôi nhìn thấy một vị Hộ pháp lớn, cưỡi ngựa, đội mũ tre đan, thật bất ngờ đó là Hùng Thiên Đại Thần Dorje Shugden. Tôi thực sự kinh ngạc! Những cảnh tượng này chỉ lóe lên rồi biến mất khiến cho tôi cảm thấy cực kì hoang mang.


Thế rồi sau đó không lâu, có một vị Lama Tây Tạng, ngài Sonam Rinpoche, từ Ấn Độ đến tìm tôi. Ngài ấy bí mật nói cho tôi biết:

"Liên Sinh Hoạt Phật, họa lớn rồi!"

"Họa gì vậy?"

"Có một vị là Chod Khang Rinpoche, pháp lực thâm hậu, nắm giữ địa vị trụ trì cao quý trong tu viện, muốn lập đàn thành để thu hồi lại pháp lực của ngài."

"Chod Khang Rinpoche à?" - Tôi ngẫm nghĩ: "Không biết vị này là ai?"

"Ngài không biết ông ấy, nhưng ông ấy biết ngài." - Lama Sonam nói.

"Vì sao muốn thu hồi pháp lực của tôi?" - Tôi thực sự không hiểu gì hết.

Lama Sonam nói:

"Bởi vì ngài nổi tiếng quá!"

"Tôi vốn đâu có mong cầu nổi tiếng."

"Chod Khang Rinpoche cho rằng ngài dẫm chân vào địa bàn của ông ấy?"

"Tôi chẳng có địa bàn nào cả."

"Ngài đến Ấn Độ nhưng lại không đến thăm ông ấy!"

"Ông ấy ở tu viện nào?"

"Ngài đã đến tu viện Drepung, rồi cũng đi tu viện Ganden, nhưng lại không đến tu viện Sera khiến Chod Khang Rinpoche nổi giận, ông ấy nhất định sẽ dạy ngài một bài học!"

"Như vậy cũng bị coi là có tội sao?"

"Đúng vậy."

"Chod Khang Rinpoche có pháp lực gì?” - Tôi hỏi.

Lama Sonam nói:

"Chod Khang Rinpoche từ lâu đã là một pháp sư nổi tiếng ở khắp vùng Tây Tạng. Ông ấy nổi tiếng từ rất sớm, rất nhiều pháp sư khác đều bị đánh bại dưới tay của ông ấy. Ông ấy chỉ cần thực hiện một đàn pháp, đối phương nếu không hộc máu mà chết lập tức thì cũng bị bệnh tới chết đi sống lại, cũng có người bị ngã ngựa đến mức trọng thương, cũng có người bị rơi xuống vực mà chết…"

"Lợi hại thế sao!" - Tôi nói.

Lama Sonam nói: "Theo như tôi biết, Chod Khang Rinpoche có hai vị đại Hộ pháp thần, một vị chính là Hùng Thiên Đại Thần (Dorje Shugden) tiếng tăm lẫy lừng, một vị là thần Đại Bàng Kim Sí Điểu (Garuda). Hai vị đại Hộ pháp này đã ra lệnh cho ông ấy trở thành người vô địch."

Dường như tôi đã hiểu được phần nào, tôi hỏi:

"Chẳng phải là có lệnh cấm tu pháp Hùng Thiên Đại Thần này sao?"

Lama Sonam đáp: "Mật tông Tây Tạng phân làm hai phái, một phái chủ trương không được tu, phái kia chủ trương có thể tu, nhưng bởi vì tu Hùng Thiên Đại Thần có được sức mạnh lớn, lại nhanh chóng thành tựu, bởi vậy người tu Hùng Thiên Đại Thần cũng càng ngày càng đông. Đây chính là nguy cơ phân rã của Tạng mật!"


[Dorje Shugden - Hùng Thiên Đại Thần từ xưa đã là một pháp tu nổi tiếng, rất uy lực của Hoàng giáo (dòng Gelugpa), được rất nhiều vị đứng đầu dòng phái tu tập này (bao gồm cả thầy của Đức Dalai Lama). Tuy nhiên sau khi có nghi vấn vị Bổn tôn này đã hại chết quá nhiều người ở nhiều dòng phái, Đức Dalai Lama đã ra lệnh chính thức trong Hoàng giáo không được tu. Ngài giải thích rằng ngày nay các vị thành tựu giả đã không thể khống chế được vị "Bổn tôn" này nữa. Điều này gây phản ứng dữ dội và gần như tách Hoàng giáo ra làm hai dòng chảy lớn. Sự kỳ thị giữa hai dòng đã ở mức vô cùng khốc liệt.]

Lama Sonam nói tiếp:

"Cần có sự phòng bị!"

"Phòng bị thế nào?"


"Lấy Hộ pháp đối đầu với Hộ pháp!" - Lama Sonam nói.


Sau khi Lama Sonam cảnh báo tôi xong liền vội vã rời đi. Bản thân tôi lúc đó rất coi trọng lời cảnh báo này của Lama Sonam, bởi vì nó rất khế hợp với hai giấc mơ gần đây của tôi. Nhưng đối diện với vấn đề này, tôi chỉ có thể nâng cao cảnh giác, dựa vào bất biến ứng phó với vạn biến, vẫn giữ nguyên trạng thái tĩnh lặng trong mắt bão.


Trong không trung, quả nhiên Hùng Thiên Đại Thần đã đến rồi, ngài xuất hiện, quả là:

Bốn vó đạp đất bao kỳ diệu

Nón lá đội trời cũng hiên ngang

Tự do ẩn hiện không chướng ngại

Oai phong thúc ngựa vượt mây ngàn.


Hùng Thiên Đại Thần dùng chày kim cang hướng vào đỉnh đầu tôi đánh một cái. Nếu là một hành giả bình thường, lĩnh cú đánh này chắc chắn đầu sẽ bị vỡ toác chảy máu rồi đau đớn trút hơi thở cuối cùng! Một mảnh linh hồn sẽ đi tới báo danh với Diêm Vương.


Thế nhưng bình thường tôi vẫn tu pháp Hộ pháp, Đại Uy Đức Kim Cang Yamantaka lúc nào cũng ở bên cạnh tôi. Đương nhiên Đại Uy Đức Kim Cang một cách tự động sẽ hiện thân trên đỉnh đầu tôi, như thế bốn phía xung quanh trên dưới tôi đều được ngài che chắn hoàn toàn. Ngài hiện tướng phẫn nộ dữ tợn với nhiều đầu, nhiều tay, nhiều chân.


Tôi quan sát tình hình này và nhận ra nếu Đại Uy Đức Kim Cang đến để đánh Hùng Thiên Đại Thần, điều này dù chẳng có gì là không tốt, nhưng hà tất phải như vậy!


Tôi liền vội gọi Đại Uy Đức Kim Cang lui về.


Sau đó tôi tự động tách đầu mình thành tám mảnh. Một âm thanh nứt vỡ vang lên, đầu tôi tách mở ra giống như hoa sen nở. Ngồi ở trên hoa sen là Đức Phật A Di Đà hiện 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp!


Đây là:

Trăng in hồ sen hồ in trời

Gió kêu cây trúc cây kêu gió

Thế gian bao nhiêu khách tu hành


Tưởng nhầm Di Đà ở núi xa.


Hùng Thiên Đại Thần vừa trông thấy "phổ hiện từ quang bách vạn tầm. Liên hoa quốc lý nhất chi khai" [ánh sáng từ bi hiện khắp nơi, hoa sen nở thắm tràn cõi Phật], lập tức biết đúng một trăm phần trăm là Phật A Di Đà Như Lai. Ngài nhanh chóng thu chày kim cang về, chắp tay một cái rồi đi mất.


Như vậy là đã giải quyết ổn thỏa xong một trận đại chiến rồi! Lúc đầu tôi cho rằng Hùng Thiên Đại Thần đã bỏ đi thì chuyện này có lẽ cũng kết thúc. Nhưng hóa ra vẫn còn chuyện khác xảy ra sau đó.


Mỗi khi tu pháp, trước hết tôi triệu thỉnh bằng câu chú: "Ôm Sư-pa-wa Su-ta Sa-ơ-wa Ta-ơ-ma Sư-pa-wa Su-tô hăng.” [chú Quán Không: Om Svabhava Suddha Sarva Dharama Svabhava Suddho Ham

Tiếp theo tôi niệm: ”Ôm A Hùm Sô Ha." [chú Triệu thỉnh]


Khi tôi triệu thỉnh thì chư Tôn đều hiện thân. Nhưng lần này rất yên tĩnh và xa xăm, ngay cả một cơn gió cũng không có, một cái bóng cũng không có. Tôi cảm thấy vô cùng kì lạ, dường như chú lực của tôi đã mất tiêu sạch rồi.

Tôi lại triệu thỉnh bốn phương thổ địa bằng câu chú:

Na-mô Sa-man-tô Mô-thô-nam Ôm Đu-ru Đu-ru Tê-wấy Sô-ha.”


Tay kết ấn, chân dậm xuống đất.


Bình thường bốn phương Thổ địa lập tức hiện thân. Bây giờ ngay cả bốn phương Thổ địa cũng không đến nữa, dường như tôi niệm chú về cơ bản là không còn linh nghiệm. Bốn phương Thổ địa họ đều không nghe thấy, có niệm mà như không niệm. Việc này khiến tôi vô cùng ngạc nhiên, thật sự là mọi pháp lực đều đã mất hết. Tất cả sức mạnh đều không tạo ra được nữa, tôi giống như quả bóng bị xì hơi vậy.


Bình thường tôi cúng dường, niệm Cam lộ chân ngôn: "Na-mô, su-lu-pa-ya, ta-tha-ga-ta-ya, ta-ti-ya-tha, ôm, su-lu, su-lu, pô-la-su-lu, pô-la-su-lu, sô-ha.” (Chú Diệu Sắc Thân Như Lai: Namo Surupaya Tathagata Ya. Tadyatha: Om Suru Suru Prasuru Prasuru Soha.)


Sau đó rắc cam lộ, tất cả quỷ thần chúng đều sẽ tới để hưởng cúng dường. Bây giờ mọi thứ hoàn toàn trống rỗng, nước là nước, không phải là cam lộ.


Vấn đề nghiêm trọng rồi đây! Tôi niệm chú biến đổi thức ăn cũng vô hiệu, triệu thỉnh bất kì vị nào cũng vô hiệu, niệm nước chú Đại Bi cũng vô hiệu, nói chung là niệm chú gì cũng đều mất hết sạch hiệu ứng. Pháp lực của tôi thực sự hoàn toàn không còn nữa. Mất đi pháp lực của mọi chân ngôn là một việc rất tồi tệ! Tôi đã trở thành người phàm 100% rồi!


Tôi nghĩ đến công việc cũ của mình là bấm ngón tay dự đoán để đoán xem là nguyên nhân gì. Tôi đưa tay ra, thỉnh cầu các vị Thần, Thánh đi lại trong không trung tới chỉ dẫn. Quái lạ! Ngón tay cũng không còn nhảy và rung lên nữa. Linh lực biến mất, tôi không bói ra gì cả. Tôi đếm ngón tay để xem, đầu ngón tay cũng không cong lại, không thể xem dự đoán được!


Tôi ngước nhìn trời, hư không chính là hư không, tất cả đều không có gì. Đột nhiên tôi nhớ ra, ba ngọn đèn vàng trên đầu tôi thì sao nhỉ? Ba ngọn đèn vàng này của tôi là hóa hiện của lực truyền thừa gia trì, sao lại không thấy đâu nữa?


Tôi lập tức tỉnh ngộ. Có khả năng trong lúc tôi đang đối phó với Hùng Thiên Đại Thần, đại bàng Kim Súy Điểu thừa lúc tôi không đề phòng, đã lén lấy cắp ba ngọn đèn vàng này đi, việc này rất hợp với mộng cảnh trong thiền định lúc trước của tôi. Tôi biết rằng lực gia trì của truyền thừa một khi đã mất thì tất cả chú pháp đều vô hiệu lực.


Mật giáo Cương Tông viết: "Mật tông dựa vào trí tuệ linh thánh tự giác ngộ được cái Ngã cùng Phật tánh, trực tiếp truyền dạy cho con người phàm phu ở cõi Ta Bà, từ đó mà người tu tập được gia tăng thần lực, có được sức mạnh bất khả tư nghì.


Tuy nhiên Mật giáo cực kì nhấn mạnh lực truyền thừa. Người tu tập có chí, khi nhập vào đại Mandala, có được quán đảnh của Kim Cương Thượng Sư (A Xà Lê, Acarya), khi đó sẽ có được lực truyền thừa gia trì. Nếu không có lực truyền thừa gia trì, tất cả chú pháp đều vô hiệu và bị xem là trộm pháp."

Còn nữa:


"Lực truyền thừa gia trì là nền tảng quan trọng nhất của việc học Mật giáo, bởi vì lực truyền thừa gia trì này đến từ vũ trụ hư không, tác động tới trí huệ tự tâm vốn có, đây là trí huệ gốc của Mật pháp truyền thừa."


Tôi đã biết mình chỉ cần lấy lại ba ngọn đèn vàng này thì pháp lực của bản thân tự nhiên sẽ hồi phục. Thế nhưng tôi sẽ buộc phải đi đối mặt với Chod Khang Rinpoche. Tôi thấy Chod Khang Rinpoche đúng là lợi hại. Tôi thực lòng không muốn để Bổn tôn của mình xuất hiện chỉ để đi lấy lại ba ngọn đèn vàng. Phải làm sao đây?


Thật may! Tôi cũng là một người nắm giữ truyền thừa của Mật pháp. Tôi nắm rất rõ bí mật trong bí mật. Mặc dù ba ngọn đèn vàng của tôi đã bị lấy mất, tôi vẫn có thể thắp lên ba ngọn đèn vàng giống như vậy. Tôi có vô lượng “ba ngọn đèn vàng” cơ mà!


Kinh Đại Luân Kim Cang đà-la-ni viết: "Tụng chú này 21 biến, có thể thành tựu tất cả chú pháp, việc thiện mau chóng thành tựu. Có thể thành tựu tất cả ấn pháp, tất cả đàn pháp, có thể nhập vào đàn thành đại Mandala mà không cần có một đàn thành thực sự."


Kinh Đà-la-ni tập viết: "Tụng chú này 3- 7 - 21 biến, lập tức có thể đi vào tất cả Mandala, mọi việc đều thành. Tụng chú kết hợp với thân ấn hoặc các loại ấn pháp, nếu kết thủ ấn, tụng mọi chú pháp, rất dễ đạt được thành công. Nếu là người chưa từng được nhận quán đảnh đàn thành thì không được làm mọi thủ ấn. Tuy nhiên nếu người nào tụng chú này, lập tức giống như đi vào đàn thành, được kết ấn và sử dụng mà không bị coi là trộm pháp."


“Đại Tạng Mật yếu” viết: "Theo giáo pháp, tất cả chân ngôn thủ ấn đều phải được nhận từ Vị Thầy. Nếu chưa đi vào đàn thành quán đảnh, thì kết thủ ấn, làm pháp sẽ mắc tội trộm pháp, làm việc gì cũng không thành. Nếu đứng trước tượng của Như Lai, tụng chú này 21 lần cũng giống như nhìn thấy Phật, lập tức cũng như được vào mọi Mandala, cầu xin mọi pháp đều được thành tựu."


(Ghi chú: Khi gặp trực tiếp Lư Sư Tôn ở Mỹ, gặp thị giả của Ngài là Thượng Sư Liên Kỳ - người đã được Sư Tôn ban quán đảnh pháp và thần chú Đại Luân Kim Cương. Thị giả có giải thích: "Tôi đã được quán đảnh Pháp này nhưng tôi không dùng. Bởi vì Kinh điển viết trong trường hợp hành giả sinh ra trong thời đại không có Phật, không có Thầy trụ thế mới phải sử dụng cách này. Còn khi có Thầy tại thế, chúng ta nên Kính Thầy - Trọng Pháp - Thực Tu bằng cách gặp Thầy, cúng dường Thầy và xin thọ nhận chỉ dẫn, quán đảnh tu Pháp) 


Tôi lập tức thỉnh Đại Luân Kim Cang đà-la-ni. Quán tưởng đỉnh đầu tôi là tất cả các vị Thầy của dòng truyền thừa hóa thành ba ngọn đèn vàng.

Tôi tụng chú Đại Luân Kim Cang:


Na-mô, sư-tưa-li-ya, ti-uây-ka-lan, ta-tha-ga-tha-lan, ôm, uây-la-chi uây-la-chi, ma-ha-chia-cưa-la, fa-chi-li, sa-ta-sa-ta, sa-la-tưa sa-la-tưa, tưa-la-yi tưa-la-yi, uây-ta-ma-ni sa-pan-chia-ni tưa-la-ma-ti, xi-ta, cưa-li-ya, tưa-lan, sô-ha.”


Tụng 21 biến. Tôi nhìn lên đỉnh đầu mình, đâu chỉ có ba ngọn đèn vàng mà có vô số ngọn đèn vàng tỏa ánh sáng rực rỡ, tạo thành một vòng kim cương.


Có điện rồi! Tôi giải phóng ra công lực mạnh nhất!

Trên đầu đèn vàng tỏa nghìn tia

Bay ra hoa sen nở chùm chùm

Hết thảy pháp lực đều viên mãn


Trân châu óng ánh ngọc lung linh.


Sau đó tôi biết được tin tức rằng:


Ở chỗ Chod Khang Rinpoche, chuyện rất kỳ lạ là ba ngọn đèn vàng mà ông ta dùng đại bàng Kim Sí Điểu lấy trộm của tôi đó đột nhiên bay lên không và biến mất. Chod Khang Rinpoche triệu thỉnh Hùng Thiên Đại Thần, không ngờ Hùng Thiên Đại Thần lờ ông ta đi như không nghe thấy lời kêu gọi. Chod Khang Rinpoche mặt tối sầm, khí lực yếu ớt, ba lần mắc bệnh nặng rồi từ đó sống vật vã với những căn bệnh dai dẳng, trở thành một ông già bất hạnh.


Chod Khang Rinpoche nói với người ta: "Bất kì vị thầy nào ta cũng đánh được, nhưng lại không đánh được Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Pháp lực của ông ta thực sự vô cùng bất khả tư nghì, dù đã bị mất ba ngọn đèn vàng, ông ta vẫn có thể hiện lên hàng nghìn ngọn đèn khác."


Tôi thực lòng thực sự nói cho mọi người biết, tôi căn bản không có làm pháp gì đối với Chod Khang Rinpoche, thực sự là không làm gì hết.

06. Mùa xuân ở hồ bơi


Từ nhỏ tôi đã thích bơi lội, bởi vậy trong suốt quá trình trưởng thành, từ suối nhỏ, sông lớn đến hào nước, hồ bơi, bãi biển đều có dấu chân của tôi. Kiểu bơi mà tôi biết sớm nhất là bơi chó, sau đó là bơi tự do, tiếp theo là bơi ếch, bơi ngửa, bơi sải, cuối cùng là bơi bướm, bơi nghệ thuật. Khi tôi ở Đài Loan, vào những ngày đi xem phong thủy địa lý cho người ta mà gặp thời tiết ấm áp, hễ nhìn thấy có con suối nhỏ nào trong núi là tôi liền nhảy xuống nước, trông thấy hồ là tôi liền reo lên sung sướng.


Còn nữa, khi ở Mexico, tôi đã học lặn với bình dưỡng khí đeo trên lưng, hông buộc một khối chì, đội mũ lặn thủy tinh loại lớn, lắp chân vịt, lặn xuống vùng biển sâu nguy hiểm. Tôi còn học cả ngôn ngữ giao tiếp khi ở dưới nước nữa! Thích nước đã là thiên bẩm của tôi rồi.


Có một ngày, tôi đến bể bơi ở trung tâm rèn luyện sức khỏe để đi bơi, lúc đó là vào khoảng xế chiều. Vì không phải là ngày nghỉ nên hồ bơi chẳng có một ai, hoàn toàn vắng vẻ. Tôi tráng người trước, thay đồ bơi và đội mũ bơi. Khi tôi vừa xuống nước thì đột nhiên cảm thấy lạnh run người. Tôi cũng không nghĩ nhiều về điểm này bởi vì nước thực sự rất lạnh.


Tôi bơi ếch và để đầu nhô lên mặt nước, tôi vẫn thường để đầu nhô lên khỏi mặt nước, không cần phải một nổi một chìm và nhịn thở dưới nước. Cứ như vậy tôi bơi nhẹ nhàng thư giãn.


Bỗng nhiên tôi phát hiện ra nước trong hồ bơi sóng sánh một cách không bình thường, giống như là có cơn gió thổi tới làm cho nước sóng sánh nhấp nhô theo. Trước mặt tôi giống như có một màn sương mù dày đặc, mọi thứ trở nên mờ mịt. Hình như trước mặt có ai đó đang bơi tới. Người này có vẻ không để ý thấy sự tồn tại của tôi, cứ hướng thẳng tới tôi mà bơi tới. Người này bơi xuyên qua người tôi, cơ thể tôi giống như bị điện giật, ngay lập tức có một làn sóng điện chạy qua người. Tôi quay đầu nhìn xung quanh nhưng không thấy một ai cả.


Hồ bơi này vốn chỉ có mỗi một mình tôi, hoàn toàn không có ai khác. Cái lạnh làm tôi không kìm được lại run lên một chặp nữa. Lần này tôi chú ý tới cái lạnh run đó và biết là mình đã gặp ma rồi, con ma này còn vừa đi xuyên qua cả người tôi nữa!


Nếu một người bình thường gặp phải trường hợp như thế, người đó sẽ không có cảm giác gì, cho tới khi về nhà sẽ bị sốt từng cơn nóng lạnh, sẽ phải tìm người để xử lý cơn bệnh và diệt trừ rung động xấu. Việc này gọi là bị xung phạm.


Người bị xung phạm có lúc gặp ác mộng, nghiêm trọng hơn thì sẽ bị trầm cảm, mất ngủ, cuối cùng sẽ mắc bệnh tâm thần. Tôi thì không giống như thế. Tôi chỉ cần dùng pháp Chuyết hỏa [pháp nội hỏa, còn goi là tumo, tsalung] là có thể đẩy được tà khí ma khí nhiễm trên thân ra ngoài. Chỉ như vậy là xong, không có gì phải lo lắng cả.


Tôi vốn không thích lo mấy chuyện thường gặp kiểu như vậy, nhưng hồ bơi này hay có người đến bơi, nếu như bị xung phạm, họ sẽ đều dễ mắc bệnh nặng. Bởi vì lòng từ bi của mình, tôi không thể nào làm ngơ coi như không biết. Tôi trèo lên thành hồ bơi, mở thiên nhãn ra quan sát.


Tôi lập tức nhìn thấy một cô gái mặc đồ bơi, dáng người cô rất đẹp và hấp dẫn, các đường cong thực sự rất gợi cảm, làn da trắng mịn, ngũ quan vô cùng xinh đẹp. Cô có đôi mắt to tròn, trông cô mới khoảng mười sáu tuổi. Cô đang ở cách tôi không xa.

Tôi gọi: 

"Này!"

"Ông nhìn thấy tôi à, tôi cứ nghĩ là không ai nhìn thấy tôi cả!" - Cô gái rất kinh ngạc. 

"Tôi là Lư Thắng Ngạn, đương nhiên là có thể nhìn thấy rồi."

"Đã nghe qua đại đanh của ông."

"Cô họ gì?" - Tôi hỏi.

"Mọi người gọi tôi là Tiểu Thúy."

"Sao cô lại ở đây?"

"Tôi bị đột tử!"

"Sao không đi khỏi chỗ này?"

"Tôi là ma bị kẹt ở đây, không đi được. Nếu tôi đi ra khỏi đây, bên ngoài có mặt trời, mặt trăng, sứ thần đi tuần ban ngày, sứ thần đi tuần ban đêm, rồi các vị thần khác, ma nhỏ như tôi làm sao có thể đi lung tung!" - Tiểu Thúy nói. 

"Cô làm sao mà bị chết?"

"Khi hồ bơi này mới xây xong, tôi đến đi bơi, vừa xuống nước thì chân bị chuột rút. Ba, bốn phút sau là tôi đã chết rồi!"

"Người nhà không siêu độ sao?"

"Bố mẹ tôi đều đã qua đời, chỉ có ít tiền giấy người ta đốt cho tôi bên hồ bơi này thôi." - Tiểu Thúy nói.

Tôi nói:

"Tôi có thể siêu độ cho cô, tiếp dẫn cô thoát khỏi khổ luân! Tôi có đại pháp lực!"

Tiểu Thúy nghe xong rất vui mừng, liên tục nói cảm ơn:


"Cảm ơn! Cảm ơn!"


Người tu hành chúng ta phát bồ đề tâm chủ yếu nằm ở việc "trên cúng Tam Bảo, dưới giúp đỡ bốn loại chúng sinh". Bởi vậy tại đàn thành trong nhà mình, tôi cũng sắp xếp một đàn tràng nhỏ, đàn tràng nhỏ này tôi đặt tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát làm chủ tôn. Hương, hoa, đèn, trà, quả, tùy khả năng mà sắp đồ cúng, thành tâm cúng dường. Phía trước tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát, tôi lập bài vị của Tiểu Thúy.

Tôi nhập đàn tràng, ngồi thẳng ngay ngắn.

"Ôm, Ram, Sô-ha."

"Ôm."

Tôi niệm:

"Nguyện những hương hoa này

Thành mây đầy mười cõi

Cúng dường mọi chư Phật

Tôn pháp chư Thánh hiền.

Trong cõi Phật vô biên

Hoan hỷ làm Phật sự

Để cho mọi chúng sinh


Đều cùng chứng bồ đề."


Thế là trong hư không tự nhiên xuất hiện vô tận đồ cúng phẩm. Tôi lại đọc kinh Địa Tạng. Cứ như vậy tôi cúng ba ngày.


Thông thường khi tôi tu pháp như thế, Địa Tạng Vương Bồ Tát nhất định sẽ đích thân hạ giáng đến đàn tràng, cầm tích trượng, đứng trên hoa sen từ từ hạ xuống. Hơn nữa con ma Tiểu Thúy cũng sẽ được dẫn đến trước đàn tràng, rồi Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ phóng quang gia trì cho cô, sau đó sẽ tiếp dẫn cô đi.


Tuy nhiên lần này điều khiến tôi lấy làm kỳ lạ là tất cả nghi quỹ, tôi không bỏ qua bước nào, cũng không có chút nào sơ xuất, nhưng linh hồn Tiểu Thúy từ đầu tới cuối đều không đến.


Càng kỳ lạ hơn nữa là không chỉ linh hồn của Tiểu Thúy không đến, mà bất ngờ là ngay cả Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng chẳng đến. Tôi không tin Địa Tạng Vương Bồ Tát lại không đến, tôi đâu có đắc tội gì với ngài. Chẳng có lý do gì mà họ lại không đến. Đàn tràng của tôi tuy nhỏ, cúng phẩm tuy ít, nhưng pháp lực của tôi thì dư thừa, lực kêu gọi một khi đã phát đi thì có thể đến được khắp thập phương pháp giới. Pháp sự của tôi thường bách linh bách nghiệm, hiếm khi nào có sai sót.


Triệu thỉnh hồn ma Tiểu Thúy mà cô không tới, triệu thỉnh Địa Tạng Vương Bồ Tát không được, lẽ nào pháp lực của tôi lại mất hết rồi, niệm chú cũng không linh nữa? Nhưng thực tế là pháp lực vẫn linh. Tôi sẽ cần kiểm tra xem việc này rốt cục là thế nào. Tôi liền đi tìm người anh em kết nghĩa của tôi - Thành Hoàng Bồ Tát, người luôn lo quản cô hồn dã quỷ!

Tôi hỏi vì sao pháp sự không linh? Thành Hoàng Bồ Tát nói với tôi:

"Việc của Tiểu Thúy tôi không quản!"

"Sao cơ? Không quản?"

"Đúng vậy. Đừng can thiệp vào chuyện của Tiểu Thúy."

"Tôi chuyên can thiệp vào chuyện bất bình trong thiên hạ!" - Tôi nói.

Thành Hoàng cười hi hi nói:

"Ngài làm vậy có phải vì cô ta rất xinh đẹp không?"

"Vớ vẩn, tôi đâu có phải anh chàng họ Trư!" - Tôi tranh luận.


"Nếu như ngài vô tình gặp hồn ma một kẻ lang thang nhem nhuốc, thử hỏi ngài có siêu độ hay không?"

Tôi nhất thời á khẩu, nhưng lại kiên trì nói:

"Linh hồn của một người con gái xinh đẹp hay linh hồn của một gã lang thang, đối với bồ đề tâm thì bình đẳng không khác biệt!"

Thành Hoàng Bồ Tát nói với tôi:


"Đừng bị mê hoặc bởi hình tướng bên ngoài!"

Thành Hoàng Bồ Tát thật lòng nói cho tôi biết:

"Cô hồn của Tiểu Thúy, pháp sự bình thường không thể siêu độ được. Bên ngoài thì ta thấy sự việc là một thiếu nữ xinh đẹp đi bơi, chân bị chuột rút, chết đuối trong nước. Nhưng thực tế là cô ta bị Ngũ Lôi đánh chết. Ngũ Lôi ở đây không nhất định là sấm sét mới được gọi là Ngũ Lôi. Những thứ như lở đất, chết đuối, chết cháy, tai nạn xe, bị đánh bởi gậy gộc (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) đều được gọi chung là Ngũ Lôi."

"Vì sao cô ta bị Ngũ Lôi đánh chết?"

"Tiểu Thúy có nhân quả của Tiểu Thúy, kiếp trước cô ta đã giết người!"

"Giết người cũng có thể siêu độ mà!"

"Không chỉ một người đâu!"

"Bao nhiêu?"

"Trên trăm người!"


"Oa! Nhiều thế à!" - Tôi sợ sững cả người.

Thành Hoàng Bồ Tát nói:

"Trong một bữa yến tiệc, chỉ vì một việc vớ vẩn mà cô ta sinh lòng oán hận, đã bỏ thuốc độc vào trong canh, lập tức đã giết hại hơn trăm người! Bởi vì nghiệp này mà cô ta phải chết đuối, mà phải chết trăm lần. Không chỉ như vậy, vào ngày mồng một âm lịch hàng tháng, cô sẽ phải chịu cảnh chết đuối một lần."


"Nói về tâm của cô ta, thực sự giống như rắn rết bọ cạp. Nói về quả báo của cô ta, cũng cực kì đau đớn."

Tôi không ngừng thở dài tiếc thay cho Tiểu Thúy.



Tôi lại đến hồ bơi, vờ như không có chuyện gì xảy ra.


Khi tôi đang bơi, có rất nhiều hiện tượng lạ xảy ra. Nước trong hồ bơi đó đột nhiên trở nên rất lạnh, lạnh như nước đá vậy, khiến người ta lạnh quá phải lên bờ. Nước trong hồ bơi đột nhiên dậy sóng dữ dội, giống như sóng biển, gió bên ngoài thì không hề lớn, trong hồ bơi cũng chỉ có một mình tôi bơi, sóng nước không thể nào mạnh như vậy, khiến tôi sặc mất mấy ngụm nước.


Tư thế bơi của tôi thường rất đẹp đẽ, khi bơi ếch chân tôi đạp rất khéo. Lúc bơi về phía trước, đột nhiên tôi phát hiện có người đang kéo chân tôi, giữ chặt chân không cho tôi đạp nước nữa, hơn nữa lại còn kéo chân xuống dưới. Quay đầu lại nhìn thì chân không bị kéo nữa, nhưng vừa quay đầu đi thì chân lại bị kéo như vậy. Cứ như thế khiến cho tôi bơi vô cùng mất sức.


Lúc tôi lặn xuống nước bơi về phía trước, liền giống như bị một tấm lưới vô hình chặn lại, không thể tiến lên trước. Tôi quay người về phía sau, cũng lại là một tấm lưới vô hình, không có cách nào quay lại. Bên trái không có lối ra. Bên phải không có lối ra. Tôi nghĩ đến việc này giống như người cá bị sa lưới. Tôi ở trong lưới, bên trái bên phải đều không có lối thoát, tôi sắp hết không khí rồi!


Ở trong nước, tâm tôi niệm một câu chú: "Hum".


Một đường ánh sáng xanh phóng ra. Lưới đã bị phá. Tôi nhanh chóng trồi lên mặt nước, hít một hơi khí! Không muốn chơi đùa kiểu này nữa nên tôi đi tới phòng thay quần áo. Vừa mở cửa phòng tắm bỗng tôi giật mình nhảy dựng lên!

Tiểu Thúy mặt xanh xao đang đứng ở bên trong.

Tôi nói:

"Tôi muốn đi tắm."

"Tôi giúp ông kì lưng." - Tiểu Thúy dịu dàng nói.

"Tôi luôn luôn tự mình tắm."

"Một lần ngoại lệ cũng được mà."

"Vừa nãy cô chơi đùa còn chưa đủ hay sao?" - Tôi có phần hơi nổi giận.

"Tôi chỉ đùa chút thôi, không muốn làm thật đâu." - Tiểu Thúy nói.

"Đùa cũng không thể dùng pháp làm đóng băng bốn phía, làm như vậy sẽ lấy mạng người ta đó. May sao đó là tôi, nếu là người khác thì sẽ không thể thở được."


"Tôi thử pháp lực của ông đó mà!"


Tôi nhìn Tiểu Thúy. Gương mặt của cô quả thực có thể khiến người ta bị "hạ gục". Làn da trắng mịn màng, cơ thể đẹp đẽ, ai gặp cô đều không thể không thích cô. Người con gái như vậy làm sao có thể xấu xa, lòng dạ sao có thể độc ác như rắn bọ cạp thế nhỉ?

Tôi hỏi Tiểu Thúy:

"Cô có muốn siêu thoát không?"

"Đương nhiên."

"Nhưng vì sao cô lại hại tới cả trăm người vậy?"

"Nhất thời hồ đồ."

"Cô có hối hận không?"

"Tôi hối hận đã nhất thời kích động."

"Bởi vì cô đã hại chết hơn trăm người, tôi chẳng có cách nào siêu độ cho cô cả!" - Tôi xấu hổ nói.


"Chẳng phải ông đã nói có thể siêu độ cho tôi sao, rằng ông có đại pháp lực!"


Tôi suy ngẫm thấy bản thân tôi ở trong tình thế không phân biệt được đúng sai đã lập tức đồng ý tiếp dẫn Tiểu Thúy thoát khỏi bánh xe khổ ải, tự mình nói rằng có đại pháp lực mà chưa tìm hiểu chuyện này có nguyên nhân gì. Có lẽ tôi bị Thành Hoàng Bồ Tát nói trúng rồi. Không rõ nếu như hôm nay con ma này không phải là Tiểu Thúy mà là một con ma lang thang bẩn thỉu, liệu tôi có chủ động giúp như vậy không nhỉ?


Kì thực có rất nhiều hồn ma nữ xinh đẹp làm rung động lòng người, khi còn sống cũng không phải là dạng người tốt đẹp như họ nói, bọn họ thường nói quá lên. Nói dối tới mức hoa trời rơi rụng loạn xạ. Ghen tỵ, ghen tuông, lòng dạ hẹp hòi, tính toán tâm kế, lòng dạ thâm hiểm, độc ác. Rất nhiều phụ nữ giở những thủ đoạn còn ghê gớm hơn cả đàn ông.


Ngẫm đến những người phụ nữ như vậy thì đúng là họ tuy có đáng yêu nhưng cũng là đáng sợ nhất, kinh khủng nhất. Thử nghĩ mà xem, xưa nay khắp nơi có bao nhiêu anh hùng hào kiệt, cả một đời tiếng tăm lừng lẫy đều bị hủy hoại trong tay của phụ nữ đó thôi.


Tôi cảm thấy rất băn khoăn, ngẫm nghĩ về việc có nên cứu Tiểu Thúy không. Cuối cùng, có lẽ là nhân duyên đưa đẩy, tôi vẫn quyết định cứu cô ta. Thêm nữa, từ lúc ban đầu đã đồng ý cứu cô ta rồi, tôi cũng không thể nào nuốt lời. Tôi vẫn lập đàn tràng và làm mọi pháp sự như thường. Chỉ là từ một đàn tràng này, trong đầu tôi quán tưởng thành mười đàn, trăm đàn, nghìn đàn. Tôi trì tụng Thiên chuyển luân chân ngôn.

Ôm, va-ji-la, ku-hưa-ya, ka-ba, sa-ma-ya, hùm.” (7 biến)


Lần siêu độ này vốn là để độ một người. Nhưng trong một sát-na đã biến thành độ cả nghìn người. Tiểu Thúy phạm tội ác cũng chỉ có hơn trăm người thôi! Một tiếng sét vang lên như chập điện! Thủ ấn của tôi chỉ lên trời! Trăm người lập tức thăng thiên.


Việc thăng thiên này minh chứng cho:

Tâm này bình đẳng một câu chú

Bất kể sang hèn hay hiền ngu

Tận gốc nghiệp đen muốn tiêu trừ


Đại pháp tung ra tự như như.

Tôi trông thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát dẫn theo Tiểu Thúy đến trước đàn tràng của tôi, trên người Tiểu Thúy vẫn bị khí đen trói chặt. Tôi hét lên: 

"Cô giết chết hơn trăm người, tôi đã siêu độ cho họ thăng thiên, còn cô sao vẫn chưa thăng thiên?"

Tiểu Thúy hét to: "Hơn trăm người đã đươc độ nhưng tôi vẫn bị trói!"


Tôi nghe xong cũng không nói nhiều nữa. Từ trên đỉnh đầu mình, tôi lưu xuất ra một chữ "Ram" (chữ Phạn) màu đỏ, biến thành một hình tam giác lửa màu đỏ, ngọn lửa lớn này hướng về phía Tiểu Thúy, thiêu cô cháy thành tro.


(Cho dù Tiểu Thúy đã mắc vào năm tội vô gián, dùng chữ “Ram” này để thiêu cháy cô thì cũng diệt hoàn toàn mọi nghiệp tội.)


Tiểu Thúy bị thiêu thành tro cho thấy nghiệp chướng của cô cũng đã được diệt sạch hoàn toàn. Tôi nhìn thấy một dải ánh sáng màu trắng như ngọc mani, trong sáng tinh khiết, tỏa ra ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp pháp giới. Địa Tạng Vương Bồ Tát cầm viên ngọc mani trên tay bay lên không trung.

Địa Tạng Vương Bồ Tát nói:

"Liên Sinh thật lợi hại, chú pháp như thần!"

Tôi chắp tay:


"Đa tạ Bồ Tát đã xuống đàn tràng!"


Trong câu chuyện này, tôi đã dạy cho mọi người một mật pháp, đại pháp này là cực kì bí mật. Người tu hành, chỉ cần ngồi thẳng ngay ngắn, ổn định tâm trí, những chuyện quá khứ, hiện tại, tương lai đều không vướng bận đến thân tâm. Đây chính là pháp giới Tam ma địa (Samadhi).


Quán tưởng trên đỉnh đầu mình có chủng tự chữ Phạn "Ram" tỏa ánh sáng ra khắp nơi, giống như trăng tròn. Sau đó chữ này biến thành hình tam giác có ngọn lửa màu đỏ đang cháy. Ngọn lửa hình tam giác này thiêu cháy thân tâm của chính mình.


Tụng chú: "Ram" 21 biến.


Pháp này có thể thiêu đốt hết tất cả nghiệp chướng của người tu hành!


Còn pháp nữa:


Trước tiên người tu hành cầm chuỗi tràng hạt trên tay phải, cuốn tràng hạt bằng tay trái, sau đó lại chuyển tràng hạt sang tay phải. Hai tay chụm lại kết thủ ấn hoa sen với chuỗi hạt đặt ở bên trong, đưa thủ ấn lên trước trán và tụng.


Ôm, Ram, Sô-ha. (Thanh tịnh tất cả)


Ôm, huai-lu-chia-na, ma-la, so-ha. (Thanh tịnh và gia trì chuỗi hạt)


Ôm, va-ji-la, ku-hưa-ya, ka-ba, sa-ma-ya, hùm. (Chú Thiên chuyển luân)


Chú này nghĩa là đọc một lần tương đương với đọc nghìn lần. Đây là pháp bí mật, cũng chính là pháp nhân lên nghìn lần, một đàn pháp trở thành một nghìn đàn pháp.


Theo những gì Thành Hoàng Bồ Tát nói với tôi, bởi vì tôi đã cứu Tiểu Thúy được siêu sinh, nên chính bởi nhân duyên này mà tôi phải chuyển kiếp về nhân gian một lần nữa. Thành Hoàng Bồ Tát cười tôi thích "lắm chuyện", lắm chuyện có nghĩa là sẽ phải tái sinh nhiều kiếp. Nhưng tôi mặc kệ, một lòng cứu người là được!


Tôi cũng đã phát lời thề nguyện lớn, nguyện rằng đời đời kiếp kiếp độ hóa chúng sinh, lục thời hành đạo chẳng có gì phải nghĩ ngợi. Tôi dạy người ta niệm Phật trì chú tu pháp là để cứu chúng sinh bớt khổ. Bởi vì chúng sinh đã trầm luân trong bể khổ mà không tự ý thức được, tôi sẽ nỗ lực đến hơi thở cuối cùng!

07. Ma chó

Có một lần tôi cùng người bạn đến dự một bữa tiệc tối. Tào Tông, chủ nhân của bữa tiệc, đã giới thiệu tôi với mọi người ở đó, khi giới thiệu ông nói: 


"Vị này là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Bình thường mọi người muốn gặp ngài ấy không dễ đâu, bởi vì ngài rất nổi tiếng, cực kì bận. Những chuyện xem bói của ngài nổi tiếng trong thiên hạ. Các chứng bệnh nguy nan ngài đều dễ dàng chữa khỏi. Liên Sinh Hoạt Phật có thiên nhãn đó!"

Mọi người nhìn tôi, không ai nói gì cả. Lúc ăn tiệc, chủ nhân Tào Tông lại nói:


"Hoạt Phật, xin xem thử khí sắc của chúng tôi bình thường hay không bình thường?"

Tôi nhìn mọi người một lượt. Mọi người đều im lặng không nói câu gì, chờ đợi tôi nói. Tôi cười:

"Phần lớn mọi người đều bình thường."

Chủ nhân Tào Tông bắt bẻ câu chữ:

"Ngài nói phần lớn mọi người đều bình thường, vậy thì phần nhỏ mọi người là không bình thường, vậy người nào là không bình thường vậy?"

Tôi nói:

"Có thể nói sao? Không phiền chứ?"

"Đương nhiên không phiền." - Tất cả mọi người đồng thanh nói.

Tôi nói:

"Một người là anh Phan, Phan Thanh, có một chút…"

"Có một chút gì?"

"Có một chút khí kỳ lạ trên người."


"Xin nói rõ ràng hơn một chút, là khí gì, khí đàn ông ẻo lả, khí phụ nữ, hay khí đào hoa…?"

Mọi người ồ lên cười trêu chọc Phan Thanh. Phan Thanh nói với tôi:

"Đó là khí gì, ngài có thể nói rõ, tôi thực sự không phiền đâu!"

Tôi thẳng thắn nói:

"Có linh hồn của một con chó trên người anh."

Mọi người đều ngẩn người ra. Phan Thanh nói:

"Bản thân tôi chẳng có cảm giác gì cả!"

Chủ tiệc Tào Tông nói với tôi:

"Hoạt Phật, có phải ngài nhìn sai rồi không?"

Tôi trả lời:

"Tôi nghĩ là không sai đâu. Con ma chó này mới theo bên người thôi, trước mắt sẽ không có động tĩnh gì, sau này có thể sẽ có chuyện."

Phan Thanh nói:


"Chúng ta cứ ăn cơm trước đã, đợi ăn cơm xong, tôi sẽ nói chuyện riêng với Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn để khỏi làm ảnh hưởng đến mọi người."


Mọi người ăn tối xong. Phan Thanh cùng tôi đến một căn phòng khác. Phan Thanh rất nghiêm túc nói với tôi:

"Ngài nói rất chuẩn!"

Phan Thanh kể cho tôi nghe:


"Nhà tôi có nuôi một con chó becgie Đức, bình thường nó rất trung thành và ngoan ngoãn nên được mọi người cực kì cưng. Nhưng mấy tháng gần đây, con chó này không có chuyện gì cũng sủa loạn lên. Ban ngày sủa, ban đêm sủa, làm phiền đến chúng tôi và hàng xóm. Hàng xóm không chịu đựng được lần lượt chạy qua không ngớt phàn nàn. Chúng tôi mắng nó nó cũng không nghe, đánh nó nó cũng vẫn sủa không ngừng. Thực sự không còn nghĩ ra cách gì nữa. Chúng tôi cũng cho rằng con chó becgie này khả năng bị điên rồi. Muốn đem cho, nhưng nhà nào muốn nhận nuôi một con chó điên chứ. Đuổi nó ra khỏi nhà thì lại cảm thấy mình vô trách nhiệm. Cuối cùng, tôi đã bỏ thuốc trừ sâu Parathion vào thức ăn của nó, như thế mới làm cho nó yên tĩnh ra đi được."

Tôi nghe xong gật gật đầu.

Phan Thanh hỏi tôi:

"Nếu bây giờ con ma chó này bám lên người tôi, sau này nó sẽ làm gì?"

Tôi đáp:

"Tôi cũng không biết."

"Liệu có ám lên người một thời gian rồi sẽ đi không?"

"Cũng có thể."

"Nếu vậy thì tốt!" - Phan Thanh nói.


"Như vậy đúng là tốt nhất!"


Từ góc nhìn của tôi, việc ma chó bám lên người này, nếu Phan Thanh không chủ động tìm tôi nhờ giúp đuổi nó đi, tôi cũng sẽ không chủ động. Hơn nữa hiện tại bản thân Phan Thanh đang rất tốt, không có gì dị thường, anh cũng không mấy bận tâm. Bởi vậy tôi cũng không tiện nói gì.

Khoảng ba tháng sau. Tào Tông đến tìm tôi, đồng thời cũng nói cho tôi biết:

"Phan Thanh chết rồi."

"Làm sao mà chết? - Tôi sửng sốt.

"Bị viêm gan cấp tính, nhập viện không chữa kịp."

"Trời đất! Thực sự là quá nhanh!"

Tào Tông nói với tôi:

"Sau khi Phan Thanh chết, trong nhà xảy ra hiện tượng quái dị khiến người nhà của Phan Thanh rất sợ hãi. Bây giờ họ rất muốn mời Hoạt Phật đến giúp đỡ."

"Hiện tượng quái dị gì vậy?"

Tào Tông nói:


"Vợ của Phan Thanh liên tiếp mơ thấy Phan Thanh trở về, nói với vợ rằng, xin hãy mời Lư Hoạt Phật đến giúp đỡ, nếu không cả nhà đều sẽ gặp nguy hiểm.”


Hiện tượng mà họ nói rất kỳ quái là: Trong nhà xuất hiện một thứ mùi quái dị, mùi này rất khó ngửi, giống như mùi của chó hoang lâu ngày không tắm, mùi này rất lâu không hết. Người nhà lần lượt sinh bệnh, bà Phan toàn thân phù nề, da khô nứt nẻ. Cô con gái nhỏ Phan Tịnh mắc bệnh đau đầu. Con trai lớn Phan Minh rất kỳ quái, hai mắt đỏ ngầu, giống như mắt chó điên.


Sau khi Phan Thanh chết thì mới xảy ra những hiện tượng này. Tính tình của Phan Minh cũng thay đổi. Cậu trở nên dễ cáu bẳn và trầm uất, đi tới đi lui, cực kì âu sầu. Còn có việc lạ nhất là đồ đạc trong nhà có hiện tượng bị dịch chuyển. Rõ ràng quần áo để ở bên này lại tự động chạy sang bên kia. Mũ đội đầu trong phòng tắm vô duyên vô cớ lại thấy ở ghế sofa. Sách vở trên bàn lại thấy rơi trên sàn nhà, không phải chỉ một hai cuốn, mà là toàn bộ đều rơi xuống sàn nhà. Nhà đã quét dọn sạch sẽ lại bừa bộn ra khắp sàn. Trong bếp rõ ràng không có người, nhưng lại có tiếng dao dĩa bát đĩa. Ban đêm, mọi người đều ngủ rồi, trong phòng phát ra âm thanh giống như có người đi lại khắp nơi, không chỉ là âm thanh đi lại mà còn có tiếng đánh vào tường nữa…"

Tào Tông vừa mở miệng là tuôn một tràng dài. Tôi nói:


"Chúng ta qua đó xem sao!"


Nhà của Phan Thanh là một ngôi biệt thự sang trọng ở vùng ngoại ô, cửa vào còn có một đài phun nước nhỏ được trang trí thêm núi và cây giả. Phòng khách rất rộng rãi, sàn nhà lát đá cẩm thạch. Cửa sổ được vẽ trang trí đẹp đẽ, đồ đạc trong nhà tinh tế đắt tiền.


Phan Thanh khi còn sống chịu trách nhiệm quản lý một công ty thương mại lớn, gia cảnh không phải hạng tầm thường. Bà Phan và hai đứa trẻ đều ở nhà. Tôi nhìn Phan Minh thì thấy hai mắt của cậu đỏ ngầu, cậu đã được bác sĩ khám và cho dùng thuốc, nhưng từ đó tới nay đều không khỏi. Con ma chó này thực sự đã nhập lên người Phan Minh rồi.

Tôi nói:

"Ma chó ở trên người Phan Minh."

Phan Minh không nói gì, đứng ngay dậy, hai mắt nhìn trừng trừng vào tôi, bộ dạng hung dữ. Mọi người đều kinh hãi.

Tôi nói:

"Không phải sợ, tôi đến để làm pháp."

Lúc này Phan Minh nói:

"Cháu có một cơn thúc giục rất muốn nhào lên phía trước cắn Lư Hoạt Phật, nhưng cháu đang kìm nén cảm giác này xuống."

Tôi nói:

"Đừng lo lắng, tôi có thể giải quyết được!"

"Xin Hoạt Phật hãy đuổi nó đi!" - Bà Phan nói.


"Không cần đuổi đi!" - Tôi nói. "Tôi chỉ cần ngồi thiền trên sàn nhà cẩm thạch trong phòng khách một chút là được rồi, mọi người xin giữ im lặng."


Tôi ngồi trên nền đá cẩm thạch trong phòng khách, uy nghi như Phật, ngồi tư thế kim cương kiết già, hai tay kết pháp giới định ấn, lưng thẳng, hai vai ngang thẳng, đầu cúi cho cằm chạm vào yết hầu, lưỡi đặt lên vòm miệng, mắt không chớp. Tôi ngồi như vậy, an định thân tâm.


Tôi niệm 3 biến:

"Ôm sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hăng.” [chú Quán không]


Lực gia trì của Như Lai, lực gia trì của pháp giới, công lực tu hành của tôi, ba thứ hợp lực lại, tôi biến thành hư không. Con ma chó đó không nhìn thấy tôi.


Tôi lại niệm thầm:

Na-mô, sa-ơ-wa, ta-tha-ga-ta, fa-lua-cưa-tưa, ôm, san-pa-la, san-pa-la, hùm.” (3 biến) [chú Biến đổi thực phẩm]

Tôi hóa thành một đống xương.

Tôi biến thành một đống xương tỏa mùi thơm hấp dẫn ngon lành, con ma chó vừa nhìn thấy, làm sao mà không thèm rỏ dãi. Con ma chó vừa nhảy ra vồ vào đống xương liền nhập vào trong người tôi. Vậy là ma chó đã ra khỏi người Phan Minh. Ma chó bám lên người tôi. Tôi đứng dậy, nói với người nhà của Phan Thanh:


"Ma chó đã ở trên người tôi rồi, tôi đem nó đi, từ nay về sau, mọi người đều được bình an, hoàn toàn vô sự."


Tôi nói như vậy, và trên thực tế gia đình họ Phan đúng thực là như thế.


Sau khi tôi rời khỏi nhà họ Phan, cái mùi kỳ quái của chó hoang lâu ngày không tắm, da thịt bốc mùi hôi thối khiến người ta muốn nôn mửa trong nhà họ cũng biến mất. Bà Phan toàn thân phù nề, da khô nứt nẻ, kể từ ngày hôm đó, bà tiểu tiện nhiều lần hơn, dần dần khỏi chứng bệnh phù nề. Hiện tượng da khô của bà cũng dần dần khỏi, mới qua hai ba ngày, những bệnh này không ngờ đã hoàn toàn khỏi hẳn. Bà Phan cảm thấy rất kì lạ, bà không cần dùng thuốc, thực sự là kỳ tích.


Con gái Phan Tịnh cũng vậy, chứng bệnh đau đầu giống như được ai đó nhấc khỏi tảng đá trong đầu đi, bây giờ đầu rất nhẹ nhàng thư thái.


Phan Minh hai mắt đỏ ngầu như mắt chó điên cũng từ từ khỏi, tính tình trở lại tốt hơn, lại là một chàng thanh niên khỏe mạnh.

Những hiện tượng quái dị trong nhà đều biến mất.

Không có chuyện đồ đạc tự động dịch chuyển.

Không có âm thanh kỳ quái.


Nhà họ Phan vô cùng cảm kích tôi.


Vấn đề bây giờ không còn ở nhà họ Phan nữa mà nằm trên người tôi. Cá nhân tôi cảm thấy linh hồn của con chó becgie này có linh lực rất mạnh. Nó ở trong người tôi chạy lồng lộn muốn thoát ra ngoài! Tôi chưa sẵn sàng thả nó ra. Thân thể của tôi giống như một cái chuồng bằng thép nhốt nó lại, nó không thể thoát ra, mất tự do, không thể đi hại người nữa.

Nó nói với tôi:

"Tôi muốn cắn gan của ông!"

Tôi biết Phan Minh cũng chính là bị như vậy mà chết. Tôi nói:

"Cho ngươi cắn!"

Nó cắn một cái vỡ luôn cả răng. Bởi vì gan của tôi đã biến thành chày kim cang.

"Tôi muốn cắn tim của ông!"

Nó cắn một cái, tim của tôi đã biến thành một khối inox - sắt không gỉ.

"Tôi muốn cắn ruột của ông!"

Nó cắn một cái, ruột của tôi đã biến thành đá granit.

Nó kêu gào, sủa điên cuồng.


"Ông đúng là ruột gan sắt đá!"


Tôi cười lớn ha ha ha.


Mặc dù con ma chó này không làm gì được tôi, nhưng uế khí của nó cũng ảnh hưởng đến tôi không ít. Ngôi nhà thân thể của tôi cũng bị ám đầy uế khí.


Tôi bèn niệm chú tịnh thủy.

"Vô cực chân thủy

Dịch thể tiên minh

Tịnh tẩy linh thai trí huệ sinh

Vạn vật tư nhuận vinh

Hà nhĩ trừng thanh


Tu đạo thượng Ngọc Kinh."


Tôi niệm chú tịnh tâm:

"Thần thành tịnh tu

Ý thành tịnh tu

Khí thành tịnh tu


Ngũ tạng thành tịnh."


Tôi niệm chú tịnh khẩu:

"Hầu thanh tịnh tu

Thiệt thanh tịnh tu

Xỉ thanh tịnh tu


Tam nghiệp thanh tịnh."


Tôi niệm chú tịnh thân:

"Thể khiết tịnh tu

Thanh khiết tịnh tu

Chỉnh khiết tịnh tu


Nhất tâm khiết tịnh."


Tôi lại niệm chú thanh tịnh ba nghiệp:

"Thân trung chư nội cảnh

Tam vạn lục thiên thần

Động tác lý hành tạng

Tiền kiếp tịnh hậu nghiệp

Nguyện ngã thân tự tại

Thường trụ tam bảo trung

Đương ư kiếp hoại thì

Ngã thân thường bất diệt

Tụng thử chân văn thì

Thân tâm khẩu nghiệp giai thanh tịnh


Cấp cấp như luật lệnh."


Sau khi tôi niệm xong, thân tâm thanh tịnh, uế khí không còn. Điều không ngờ là: Linh hồn con chó sau khi nghe chú này của tôi, thân tâm của nó cũng được thanh tịnh, nó yên lặng nghe tôi trì chú. Chú vừa kết thúc, ba nghiệp của con chó cũng thanh tịnh, tôi lấy làm vui mừng.


Cuối cùng, tôi niệm thần chú thanh tịnh trời đất:

"Thiên địa tự nhiên

Uế khí phân tán

Động trung huyền hư

Hoảng lãng thái nguyên

Bát phương uy thần

Sử ngã tự nhiên

Linh bảo phù mệnh

Phổ cáo cửu thiên

Can la đáp na

Đỗng cương thái huyền

Trảm yêu phược tà

Sát quỷ vạn thiên

Trung sơn thần chú

Nguyên thủy ngọc văn

Trì tụng nhất biến

Khư bệnh diên niên

Án hành ngũ nhạc

Bát hải tri văn

Ma vương thúc thủ

Thị vệ ngã hiên

Hung uế đãng tận

Đạo khí trường tồn


Cấp cấp như luật lệnh."

Vừa niệm chú này lên, con ma chó lập tức co rút lại còn một nửa, không thể cử động được, nó đã bị trói chặt lại. Con ma chó tru lên:

"Đừng niệm nữa, đừng niệm nữa, tôi muốn quy y!"


"Ngươi muốn quy y à, tốt lắm!" - Tôi nói.

Con chó này cũng khá tinh khôn, bởi vì nếu nó không quy y tôi, tôi chỉ cần niệm ba biến Tịnh thiên địa thần chú thì linh hồn nó càng co rút lại nhỏ hơn nữa, hoặc giả chỉ một tiếng sấm rền là linh hồn cũng bị tiêu diệt!


"Thả tôi ra, tôi sẽ quy y ngay!" - Con ma chó lại tru lên.


Đương nhiên là tôi muốn thả nó ra, bởi vì nó bám lên thân tôi mà tôi lại quy y cho nó thì chẳng phải tôi tự quy y cho mình sao. Thân tâm tôi hoàn toàn thả lỏng, con ma chó liền chuồn ngay ra ngoài. Lúc này thì đã muộn, ma chó vừa thoát ra ngoài thì rất khôn ranh, không ngờ việc quy y chỉ là giả vờ, nó muốn trốn thoát.


Ma chó có một ít thần thông nhỏ. Nó nhảy vọt lên trời để trốn đi, nhưng trên không trung có một vị thần đánh nó một cái, nó lại bị ngã xuống. Nó muốn trốn vào đất, nhưng dưới mặt đất có một vị thần đã chặn nó lại. Nó muốn chuồn theo bên trái, bên trái có một vị thần đứng canh. Nó muốn chuồn theo bên phải, bên phải có một vị thần đứng canh.

Con ma chó tru tréo:


"Tiêu rồi tiêu rồi, thiên la địa võng, tôi không trốn được, tôi đã thật sự muốn quy y rồi!"

Ma chó phủ phục dưới đất, biểu hiện sự chân thành muốn quy y. Tôi cười lớn ha ha ha. Tôi nói:


"Yêu tinh chó như ngươi nhất định cần phải dạy dỗ mới có thể ngoan ngoãn được. Điều này chả lẽ ta còn không rõ sao. Thế nên từ đầu ta đã bí mật niệm An thổ địa thần chú rồi.

"Nguyên thủy an trấn

Phổ cáo vạn linh

Nhạc độc chân quan

Thổ địa chi thần

Tà xã hữu tắc

Bất đắc vong kinh

Hồi hướng chính đạo

Nội ngoại trừng thanh

Các an phương vị

Bị thủ đàn đình

Thái thượng hữu mệnh

Sưu bộ tà tinh

Hộ pháp thần vương

Bảo vệ tụng kinh

Quy y đại đạo

Nguyên hanh lợi trinh


Cấp cấp như luật lệnh."


Ma chó ngoan ngoãn không dám ho he gì nữa.


Tôi ban cho ma chó Tứ quy y:

Quy y Kim Cương Thượng Sư, Nam mô Gu-ru pây.

Quy y Phật, Nam mô Bút-đa yê.

Quy y pháp, Nam mô Đa-ma yê.


Quy y tăng, Nam mô Sang-ga yê.


Tôi niệm Tứ quy y chân ngôn.


Và chân ngôn có thể biến đất bẩn thành đất sạch. (Ôm peo khan)


Ma chó lần lượt tiếp nhận. Ban đầu tôi vốn định đưa ma chó lên Tây phương Cực Lạc thế giới, nhưng nó đã giết chết Phan Thanh, lại có bản tính tinh ranh, nếu ngay lập tức cho nó đến Cực Lạc thế giới, đối với nó như vậy quá dễ dàng. Trong khi đó những người bị nó hại thì vẫn còn ở cõi âm gian, lại thấy ma chó không ngờ lại được tới Tây thiên, sẽ cảm thấy thiện ác đảo lộn hết cả, như vậy là không công bằng.


Vậy thì cho nó xuống địa ngục vậy! Nhưng làm như thế cũng không được, bởi vì con ma chó này nhờ vào chủng nghiệp tốt quá khứ, đời này gặp được Kim Cương Thượng Sư ban cho Tứ quy y, vừa mới nhận xong Tứ quy y đã lại được niệm chân ngôn. Như vậy kể ra cũng đã là có duyên với Phật, thế mà lại bị tống xuống địa ngục, e rằng khó có thể siêu sinh, địa ngục cũng không phải nơi có thể tu hành được. Tôi hơi có chút băn khoăn.

Lúc này một vị Thổ Địa Thần hiện đến, dắt con ma chó đi và nói:

"Hoạt Phật, không cần băn khoăn nữa, để tôi đem nó đi!"

Tôi thấy vậy vô cùng vui mừng:

"Ngài đưa nó đi trông chùa, thật hay quá! Nó có thể canh giữ ở chùa miếu!"

Thổ địa thần hướng về tôi chắp tay cung kính:


"Xin hãy an tâm."


Tôi viết một bài kệ:

Trời tròn đất vuông là luật lệnh.

Chư Phật từ bi trao tâm ấn.

Mở lòng quy y được chân ngôn.


Trở về bờ kia là thanh tịnh.

08. Phật Thích Ca nói như vầy

Có một thương nhân tên là Cố Toàn. Anh bị mắc bệnh ung thư dạ dày, đã đi chữa trị khắp nơi nhưng rốt cuộc không thấy có gì cải thiện, ngược lại bệnh ngày càng nặng hơn, Đông y, Tây y đều bó tay. Anh ta cũng lại nghe theo những phương pháp bí truyền được mách cho nên đã tiêu tốn rất nhiều tiền để mua phương thuốc bí truyền, nhưng đều vô hiệu.


Tới lúc bệnh nguy cấp, Cố Toàn đi tới một ngôi đền nhờ kê đồng cầu xin thần linh: "Nếu căn bệnh ung thư này có thể chữa khỏi, con thề nguyện xây chùa, cả đời ở chùa làm công quả."

Thần linh đáp:

"Sẽ khỏi."

Cố Toàn nói:

"Xin hỏi thần linh nào chữa được ung thư?

Thần linh đáp:

"Phật Thích Ca Mâu Ni."

"Làm sao để tìm được Phật Thích Ca Mâu Ni? Phật Thích Ca Mâu Ni sống ở đâu?"


"Tới chùa Phật tìm đi."


Cố Toàn cả đời chưa từng đến một ngôi chùa Phật giáo nào, nên vừa tới chùa anh liền hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni ở đâu. Pháp sư nói với Cố Toàn rằng Phật Tổ ở Đại Hùng Bảo Điện. Cố Toàn đi tới Đại Hùng Bảo Điện, ở trong có đặt một bức tượng vàng chính là Phật Thích Ca Mâu Ni.

Anh lạy Phật, nói lời hứa nguyện, nhưng Phật Tổ vẫn ngồi im bất động, không hề chữa bệnh cho anh.

Cố Toàn hỏi pháp sư:

"Phật Tổ biết trị bệnh sao?"

"Tâm thành tất linh."

"Tôi có thể tìm Phật Thích Ca Mâu Ni biết trị bệnh ở đâu?"

Pháp sư buồn cười quá nhưng nén không cười, vẫn trả lời:

"Tâm thành tất linh."

Cố Toàn lại hỏi:

"Tôi muốn tìm gặp Phật Thích Ca Mâu Ni để chữa bệnh, xin hỏi có thể tìm ở đâu?"

Pháp sư đáp lại bằng một câu kệ:

"Phật ở Linh Sơn tìm đâu xa, Linh Sơn ở ngay trong tâm bạn."


"Trong tâm?" - Cố Toàn không hiểu.

Vị pháp sư này bị Cố Toàn hỏi tới hỏi lui, không kiên nhẫn thêm được nữa, cuối cùng pháp sư bảo anh ta: 

"Đi tìm Lư Thắng Ngạn đi."

"Vì sao cần tìm Lư Thắng Ngạn?"


"Bởi vì……" - Pháp sư nói: "Bởi vì Lư Thắng Ngạn và Phật Thích Ca Mâu Ni thường ngồi uống cà phê cùng nhau."

Vị pháp sư này hóa ra đã từng đọc qua sách của tôi, tôi từng viết về chuyện cùng với Phật Đà ngồi uống cà phê trong tiệm cà phê, may sao ông lại nhớ được chuyện này.

Cố Toàn nghe xong rất vui mừng, anh nói:

"Tôi cũng muốn cùng uống cà phê với Phật Thích Ca Mâu Ni!"

Pháp sư thúc anh:


"Mau đi, mau đi, tìm Lư Thắng Ngạn dẫn đi gặp!"

Cố Toàn thực sự tới tìm tôi. Tôi nói với Cố Toàn:


"Phật Thích Ca Mâu Ni là thái tử nước Ấn Độ, con vua Suddhodana, người cai quản thành Kapilavastu, mẫu thân của ngài là hoàng hậu Maya. Ngài sinh ra ở vườn Lumbini, phía đông thành Kapilavastu, tên ngài là Siddhartha. Lúc còn trẻ tuổi, Phật Đà đã suy ngẫm về những hiện tượng trong cuộc sống, ngài nghĩ về cảnh khổ cực của người nông dân, ngài chứng kiến những con thú cắn xé nhau tranh giành thức ăn, ngài căm ghét sự thù địch trong cuộc sống…


Trong một chuyến đi du ngoạn khắp thành phố, ngài đã chứng kiến hiện tượng sinh lão bệnh tử. Bởi vậy Phật Đà đã lén đi khỏi nhà, tu khổ hạnh sáu năm. Sau đó ngài giác ngộ rằng khổ hạnh là phi đạo, ngài bèn tắm sạch sẽ ở sông Nairanjana và nhận cúng dường một bát sữa gạo từ một cô thôn nữ. Cuối cùng, ngài ngồi thẳng như núi dưới gốc cây bồ đề mà suy ngẫm, quan sát về Tứ đế và Thập nhị nhân duyên, trở thành bậc Chánh Giác Thế Tôn, Thầy của Trời - Người. Kể từ đó, suốt bốn mươi năm, Ngài đã đi khắp nơi, cảm hóa và giảng dạy cho rất nhiều tầng lớp chúng sinh. Năm 487 trước Công Nguyên, Phật Đà đã nhập niết bàn dưới hai cây sala gần thành Kushinagar."


Tôi kể tóm tắt về cuộc đời của Phật Tổ. Cố Toàn nghe xong đột ngột tỉnh ngộ. Cố Toàn nói:

"Hỏi thần linh, thần linh nói bệnh ung thư sẽ khỏi nhưng cần tìm Phật Thích Ca Mâu Ni để chữa. Bây giờ tôi đã hiểu câu chuyện về Phật Thích Ca Mâu Ni rồi, xem ra, bệnh ung thư này không khỏi được rồi!"

Tôi nói với Cố Toàn:

"Không phải thế đâu!"

"Lẽ nào ông có phương thuốc bí truyền?"

"Không phải tôi có phương thuốc bí truyền. Để chống chọi với bệnh ung thư cần dựa vào lòng tin. Có rất nhiều trường hợp người mắc bệnh ung thư rồi vẫn sống khỏe lại, anh có thể tin tưởng vào Phật Đà, học giáo pháp của Phật Đà, từ đó có được đạo giải thoát."

"Đây chính là Diệu pháp trị bệnh của Phật Thích Ca Mâu Ni sao?"


"Đúng vậy."

Cố Toàn vô cùng tò mò:

"Phật Đà đã viên tịch hơn 2500 năm trước rồi, làm sao mà ông cùng Phật Thích Ca Mâu Ni uống cà phê được?"

Tôi nói:

"Anh có tin không?"

"Tin."


"Bởi vì anh đã tin tôi, tôi sẽ nói rõ cho anh hiểu. Kì thực lý do rất đơn giản, Phật Đà mặc dù đã nhập Niết bàn, nhưng linh quang vẫn bao phủ khắp nơi. Việc này cũng giống như Quan Thế Âm Bồ Tát vậy, khắp nơi cầu nguyện Ngài, Ngài đều hiện diện ở khắp nơi. Phật Đà có địa vị cao chẳng kém Bồ Tát, đương nhiên nơi nào cầu Ngài, Ngài sẽ xuất hiện ở nơi đó. Còn tôi, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, cũng tu xuất ra linh quang. Tôi dùng linh quang của tôi gặp linh quang của Phật Đà cùng uống cà phê, đây gọi là lấy linh gặp linh, việc này cũng bình thường thôi!"

Tôi nói:


"Không chỉ như vậy, mỗi người sau khi qua đời, cơ thể vật lý của người đó mặc dù đã bị hủy diệt, nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại. Sau khi một người khác chết đi, hai linh hồn này có thể cùng gặp nhau. Ý của tôi muốn nói về sự khác biệt giữa sống và chết, một cái là có thân thể xương thịt, một cái không có thân thể xương thịt, sống chết là nhất thể. Khi còn sống là dương gian, còn khi chết đi là âm gian."

Tôi nói tiếp:


"Tôi có thể tu xuất linh hồn ra khỏi thân xác. Chỉ cần định tâm, ngồi tư thế hoa sen, vận khí, mạch, điểm, quang làm cho nguyên thần của bản thân xuất ra khỏi nhục thân là có thể nhập vào pháp giới, tôi gặp Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong pháp giới đó!"


Cố Toàn nghe xong không thực sự hiểu hết, tuy vậy anh nói:

"Bởi vì ông có thể gặp Phật Thích Ca Mâu Ni, vậy xin giúp tôi cầu xin Phật Đà làm sao để chữa bệnh ung thư!"

"Ồ!" - Tôi lẩm bẩm một lúc. "Tôi gặp Phật Đà, cũng cần có cơ duyên, cứ để tự nhiên đi."

"Bất kể là thế nào, tôi xin ông giúp tôi."

"Được!" - Tôi gật gật đầu. "Nhưng anh cũng cần phải nghe tôi, anh thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, niệm tụng một bộ Kinh, trì thánh hiệu Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, chuyên tâm không thay đổi, có được không?"


"Được!"


Cố Toàn rất tận tâm tận lực thờ cúng tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi dạy anh trì Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh, trì Thánh hiệu. Cố Toàn tin tưởng vào mười chữ này trong bản kinh Cao Vương Kinh: "Năng diệt sinh tử khổ, tiêu trừ chư độc hại."


Bởi vì Cố Toàn mắc bệnh nặng nên việc thờ cúng lại càng thành tâm, anh đọc Kinh trì Thánh hiệu luôn rất cẩn thận.


Việc này chính là:

Niệm Kinh cần mong niệm đến cùng

Cuối cùng mọi niệm thu về chung

Biển khổ thế gian lặng sóng gió


Thuyền lá vững trôi đến liên bang. [liên bang: vùng đất hoa sen]


Một đêm nọ, tôi mơ một giấc mơ kỳ lạ. Tôi thấy tôi một mình cô độc đi bộ trên con đường nhỏ, cứ đi, cứ đi. Đột nhiên tôi nghe thấy những tiếng khóc của một nhóm người già trẻ nam nữ vọng lại về phía mình, giống như họ đang chạy nạn vậy. Nhóm người này có khoảng trăm người.

Tôi hỏi:

"Có chuyện gì vậy?"

Một người nói với tôi:

"Một toán trộm xâm nhập vào trong làng và giết người, chúng tôi đang chạy trốn!"

"Ai là thủ lĩnh?"


Đáp: "Cố Toàn."


Trong mơ tôi lập tức hiểu ra nguyên nhân từ kiếp trước khiến Cố Toàn mắc bệnh ung thư. Rõ ràng việc Cố Toàn từng giết rất nhiều người đã kết thành oán khí. Nghiệp chướng của Cố Toàn sâu nặng, xem ra để cứu anh ta cũng không phải là một việc dễ dàng! Trong lòng tôi muôn phần đau khổ, nỗi buồn từ trong trào ra, nước mắt tôi rơi xuống như mưa.

Đúng lúc tôi đang cảm thấy buồn và bất an, trong hư không có tiếng nói:

"Liên Sinh, lại có chuyện gì đau buồn vậy?"

Tôi đáp:


"Cố Toàn!"


Tôi trả lời, ngẩng đầu nhìn lên hư không, đứng trong hư không chính là Quan Thế Âm Bồ Tát. Bồ Tát cười mỉm, tay cầm cành liễu tịnh bình, Ngài úp ngược tịnh bình và nói: "Liên Sinh, ngài nhìn xem!"


Từ trong tịnh bình phóng ra một luồng ánh sáng trắng, ánh sáng trắng này có màu sắc kỳ diệu và trang nghiêm, công đức thành tựu vô lượng, bình đẳng tuyệt diệu, bất khả tư nghì, quảng đại vô biên, lớn nhỏ tùy biến, vượt qua tam ác đạo. Trong ánh sáng trắng này có đàn ông, phụ nữ, người già, người trẻ, có rất nhiều các gia đình khác nhau. Tôi vô cùng kinh ngạc trước cảnh tượng này.

Quan Thế Âm Bồ Tát nói:

"Đây đều là những linh mệnh đã bị giết bởi Cố Toàn, ta đã gom tất cả họ lại rồi, những linh mệnh này tương lai đều là hoa sen hóa sinh từ chánh giác thanh tịnh của Đức Phật A Di Đà Amitabha Như Lai, cùng một cảnh giới, không phân biệt nữa."

Tôi vui mừng:

"Những người mà Cố Toàn đã giết đều được Bồ Tát độ hóa rồi sao?"


"Đúng vậy."

Quan Thế Âm Bồ Tát lại nói:

"Ta ở Đại Lôi Âm Tự, Thích Ca Như Lai đến dặn dò rằng nếu có gặp Liên Sinh, truyền cho ngài ấy một câu thần chú, bảo ngài ấy dạy cho Cố Toàn, chú này có thể làm cho Cố Toàn được thanh tịnh, thân tâm an lạc, tiêu trừ ung thư."


"Là chú gì?"


Quan Thế Âm Bồ Tát liền nói thần chú:


Tan-chi-tha, ưa-lan-ti, ưa-lan-mi, sư-li-pây, sư-li-sư-li, mua-chê-sư-chư, san-pua-pa-tâu, sô-ha.”


("Ta-dya-tha, A-Lan-Tê, A-Lan-Mê, Sri-bi, Sri-bi, Ma-ka-si-ji, Jam-bha-va-tu. So-ha.") 


Tôi ghi nhớ lại thần chú này rồi chắp tay tiễn Quan Thế Âm Bồ Tát. Bồ Tát cưỡi mây cát tường từ từ đi khuất.


Tôi truyền lại cho Cố Toàn câu chú này. Cố Toàn ngày đêm trì tụng, vô cùng tinh tấn dũng mãnh. Khoảng hai tháng sau, Cố Toàn lại đi kiểm tra bệnh ung thư dạ dày, không ngờ phát hiện ra kỳ tích. Bệnh ung thư đã hoàn toàn biến mất, các tế bào ung thư dường như chưa từng có. Cố Toàn đã hoàn toàn khỏi bệnh rồi.


Cố Toàn vui sướng nói cười không ngớt. Tôi cũng cảm thấy vui mừng cho anh.


Việc này chính là:

Một câu thần chú không vọng tưởng

Từng lời từ tâm tự tỏa lan

Rồi cũng từ đây gột sạch sẽ


Ung nhọt mất gốc tự biến tan.


Sau này khi tôi đọc Đại Tạng Kinh, đọc đến "Phật thuyết liệu trĩ bệnh Kinh", quả nhiên câu chú trong bản kinh giống hệt câu chú mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã truyền cho tôi. Tôi vô cùng kinh ngạc phát hiện ra thêm rằng bệnh trĩ được nói đến trong Kinh đó không chỉ nói riêng đến mỗi bệnh trĩ mà còn chỉ những bệnh ung thư và khối u. Mọi người đọc bản Kinh này là có thể biết được ngay.


Tôi đặc biệt trích bản Kinh này ở đây:

➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖

Phật thuyết liệu trĩ bệnh Kinh.


Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở thành Vương Xá, trong khu vườn Trúc Lâm, cùng với 500 vị đại tỳ kheo, có rất nhiều tỳ kheo bị mắc bệnh trĩ, thân thể gầy yếu, đau đớn đeo bám, cả ngày lẫn đêm, phiền não vô cùng.


Ngài A Nan tôn kính thấy sự việc này đã đến chỗ ở của Thế Tôn, sau khi đảnh lễ cúi đầu ngay trước đôi chân Phật, A Nan đứng dậy và thưa với Thế Tôn: "Thưa Thế Tôn, nay thành Vương Xá có nhiều tỳ kheo, thân mắc bệnh trĩ, thân thể gầy yếu, đau đớn đeo bám, cả ngày lẫn đêm, phiền não vô cùng, Thế Tôn, những bệnh khổ này, có cách nào trị không?"


Thế là bấy giờ Phật bảo A Nan, ông có thể nghe Kinh chữa bệnh trĩ này, đọc tụng thọ trì, nhớ lấy không quên, rồi lan truyền rộng rãi cho những người khác biết, thì những bệnh khổ này đều được chữa lành. Những bệnh u nhọt như trĩ phong, trĩ nhiệt, trĩ huyết, trĩ do phong-nhiệt-huyết kết hợp lại, u chảy máu, u trong bụng, nhọt trong mũi, nhọt trong răng, nhọt trong lưỡi, nhọt trong mắt, nhọt trong tai, nhọt trên đỉnh đầu, mụn tay chân, mụn lưng, trĩ hậu môn, các loại u nhọt sinh ra từ các đốt xương toàn thân. Ai muốn những ung nhọt này đều được khô dần và tiêu biến, chắc chắn khỏi bệnh, đều nên trì tụng thần chú này, thần chú như sau:


Tan-chi-tha, ưa-lan-ti, ưa-lan-mi, sư-li-pây, sư-li-sư-li, mua-chê-sư-chư, san-pua-pa-tâu, sô-ha.

("Ta-dya-tha, A-Lan-Tê, A-Lan-Mê, Sri-bi, Sri-bi, Ma-ka-si-ji, Jam-bha-va-tu. So-ha.") 


A Nan, từ đây đi về hướng Bắc, có ngọn núi tuyết lớn, trên đó có cây phasala tên gọi là Nan Thắng (Sudurjaya), cây có ba loại hoa. Thứ nhất là hoa mới nở, thứ hai là hoa nở bung, thứ ba là hoa tàn khô. Giống như hoa đó khi khô sẽ rơi xuống, với những tỳ kheo bị mắc bệnh, u nhọt trên người sẽ khô và rơi xuống như hoa, không còn chảy máu, không còn mưng mủ, không còn đau đớn, hoàn toàn bình phục.


Người thường xuyên tụng Kinh này, biết được túc mệnh, có thể nhớ được sự việc trong bảy kiếp quá khứ, thành tựu chú pháp. 


Rồi Đức Phật lại nói chú khác:


Tan-chi-tha, chan-mi-chan-mi, sưa-chan-mi, sưa-mô-ni, sưa-mô-ni sô-ha.”

(Ta-dya-tha: Jar-mi Jar-mi, Ser-ja-mi, Ser-ma-ni, Ser-ja-ni, So-ha)


Phật giảng xong Kinh này, A Nan tôn kính cùng đại chúng đều vô cùng hoan hỷ, tin tưởng làm theo.

➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖


Cá nhân tôi cảm thấy trong những khổ đau của thế giới ta bà này thì bệnh khổ là nhiều nhất. Trong Kinh Phật nói có 440 thứ bệnh sinh ra bởi tứ đại đất - nước - lửa - gió, tất cả mọi bệnh khổ đều đau khổ tột cùng, đặc biệt là bệnh ung thư, trước mắt vẫn là căn bệnh không thể chữa khỏi!


Câu chú chữa bệnh mà Phật Thích Ca Mâu Ni truyền lại là: “Tan-chi-tha, ưa-lan-ti, ưa-lan-mi, sư-li-pây, sư-li-sư-li, mua-chê-sư-chư, san-pua-pa-tâu, sô-ha.


Chú này ở ngoài kia khó gặp, số người biết không nhiều. Nó vốn được ghi chép lại trong Hoa Đại Tạng Kinh bộ thứ nhất, tập thứ năm, trang 16868. Câu chú này đã cứu được rất nhiều người!



Tôi lại lấy một ví dụ khác.


Có người tên là Hà Thái. Anh đến trước cửa nhà tôi cứ quỳ không chịu đứng dậy. Tôi kéo anh ta dậy, anh vẫn cương quyết không đứng dậy, nhất định muốn tôi cứu anh thì anh mới đồng ý đứng dậy. Thế rồi tôi gật đầu, anh mới bèn đứng dậy.

Hỏi anh:

"Có chuyện gì?"

Anh đáp:

"Ung thư giai đoạn cuối."

"Ung thư gì?"


"Ung thư tuyến bạch huyết dưới nách." - Hà Thái kéo ống tay áo lên cho tôi xem. Tôi vừa nhìn đã kinh hãi, bởi vì phần da ở đây đầy những nốt sần đỏ, các tế bào ung thư đã phát tác từ lâu, đồng thời đã lan đến phổi, xương và các nơi khác.

Tôi lắc đầu, tự biết rằng bệnh của anh có lẽ không thể cứu được, tôi hỏi:

"Bác sĩ nói sao?"

Hà Thái đáp:


"Tôi sẽ chết trong vòng nửa năm."


Tôi nói với Hà Thái tôi sẽ cố gắng hết sức để giúp anh, nhưng sức mạnh cũng có hạn, anh cần tự mình hướng về Phật Thích Ca Mâu Ni cầu nguyện!

Tôi truyền cho anh câu chú trị ung thư của Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi lại dạy anh sau khi niệm chú xong cần niệm thêm lời cầu nguyện sau:

"Đệ tử là Hà Thái, nay mắc bệnh ung thư rất đau đớn, con cầu nguyện Phật Đà ban cho đại gia trì, chỉ duy nhất cầu nguyện Ngài ban phát thêm lòng từ bi giúp bệnh ung thư tiêu trừ, kéo dài thọ mệnh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô thập phương Phật

Nam mô thập phương Pháp


Nam mô thập phương Tăng."

Sau khi Hà Thái trở về nhà, làm theo cách tôi hướng dẫn. Anh tu khoảng 21 ngày sau thì trong lúc ngủ nửa tỉnh nửa thức, anh nhìn thấy Phật Thích Ca Mâu Ni hiện lên trước mặt. Phật Thích Ca Mâu Ni hiện lên nói chuyện với anh:

"Hà Thái, bệnh của anh không cứu được, đi cùng Ta thôi!"

"Không, con vẫn muốn sống!" - Hà Thái kiên trì.

"Đời người là bể khổ, cũng là nhà cháy, đi theo Ta chẳng phải tốt hơn sao!"

"Không, con còn có tâm nguyện chưa hoàn thành, con vẫn muốn sống." - Hà Thái càng kiên trì hơn.

"Tâm nguyện này cần bao nhiêu năm mới xong?"

"5 năm."

Phật Thích Ca Mâu Ni nói:


"Được, 5 năm thì 5 năm, vậy anh cứ tiếp tục trì chú đi!"


Nói ra kể cũng kỳ lạ. Sau khi có được giấc mơ này, bệnh của Hà Thái dường như nhẹ hơn, thân tâm khỏe mạnh như người bình thường. Nhưng ung thư thì vẫn chưa hết, chỉ là tạm thời không trở nên tồi tệ hơn mà dừng lại ở giai đoạn này.


Cứ như vậy Hà Thái thực sự đã sống thêm được 5 năm nữa. Thời hạn 5 năm đã đến, ung thư mưng mủ lên rồi anh ta cũng đi luôn. Dù bệnh ung thư của Hà Thái không chữa khỏi, nhưng đã không trở nên xấu đi, chờ anh hoàn thành được tâm nguyện xong thì mới ra đi.


Đối với việc của Hà Thái, tôi cho rằng không phải là chú trị ung thư không có hiệu quả, mà là thọ mệnh đã hết, ngay cả Đại Phật, Kim Tiên cũng khó cứu được, nếu có thể cứu thì trên thế giới làm gì còn có người chết. Thế nhưng chú trị bệnh ung thư có thể kéo dài thọ mệnh, đây là một phát hiện tình cờ.


Tôi tin rằng niệm chú trị ung thư cũng có thể vãng sanh Phật quốc, nếu không thì Phật Thích Ca Mâu Ni cũng sẽ không hiện thân đến tiếp dẫn Hà Thái vãng sinh!

09. Lời thề viên mãn


Cư sĩ Lý Vỹ quy y lão hòa thượng Quảng Khâm. Mẹ của anh là Hoàng Thị cũng là đệ tử của lão hòa thượng. Một năm sau khi lão hòa thượng viên tịch, Hoàng Thị cũng vì mắc bệnh mà qua đời. Lúc còn sống, Hoàng Thị rất nhân ái hào phóng, yêu thích Phật giáo.


Có một lần Lý Vỹ tham gia một cuộc hành hương lên núi. Cuộc hành hương này là mọi người xếp hàng từ chân núi, cứ đi ba bước lại lạy một lạy, cứ như vậy vừa đi vừa lạy cho tới tận Đại Hùng Bảo Điện trên đỉnh núi, mỗi người miệng đều niệm danh hiệu Phật. Đi trước nhất là những người xuất gia, trên tay cầm liễu âm. Liễu âm là một loại pháp khí phát ra âm thanh ting ting ting. Mọi người nghe âm thanh này như mệnh lệnh ra hiệu tất cả cùng quỳ, cúi đầu, đi tiếp về phía trước hoặc niệm Phật hiệu.


Nhóm người tham gia hành hương xếp thành một hàng dài uốn lượn, và vẫn liên tục có người đến gia nhập, cảnh tượng này vừa trang nghiêm vừa náo nhiệt. Lợi ích của việc hành hương cũng rất lớn.

Thứ nhất, leo núi vận động được khỏe mạnh.

Thứ hai, thành tâm lạy Phật tu hành.

Thứ ba, niệm Phật.


Thứ tư, không sinh ra vọng niệm.


Con đường hành hương lên núi lởm chởm khó đi, có khoảng hơn một cây số đều là đường đất, bởi vậy đối với người đi chuyến hành hương này thì đây cũng là một bài thử nghiệm.


Lý Vỹ theo đoàn người hành hương lên núi, anh rất kiền thành niệm Phật quỳ lạy. Tình cờ anh quay đầu lại thì trông thấy một nhóm phụ nữ đi hành hương, một người trong đó đeo túi hương, diện mạo cực kì giống với mẹ anh. Lý Vỹ hoảng hốt. Anh vẫy tay với bà. Bà cũng vẫy tay với anh.


Lý Vỹ đoán chắc người phụ nữ này là mẹ mình. Anh vội vàng tách mình ra khỏi hàng người hành hương, đi xuống mấy chục bước. Anh nhìn lại thì không thấy người phụ nữ có diện mạo giống mẹ mình đâu nữa. Lý Vỹ không tin, nhưng thực sự là người này đã biến mất.


Lý Vỹ tin vào khả năng nhìn tốt của mắt mình, người phụ nữ đó là mẹ mình, không thể nào nhìn nhầm được. Nhưng trong tích tắc bà đã biến mất rồi. Người khác cho rằng Lý Vỹ hẳn là bị hoa mắt.

Lý Vỹ nói:


"Rõ ràng là trong nhóm người phụ nữ có một người là mẹ, hơn nữa còn vẫy tay với nhau, đi xuống vài bước chân thì lại biến mất, vậy chuyện này là thế nào đây?"

Lý Vỹ nói rõ ràng là mẹ.


Người ngoài nói không thể nào, người đã chết không thể hồi sinh, đây là hoa mắt thôi. Hai bên tranh luận qua lại.

Có người bảo Lý Vỹ:

"Đi tìm Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn."

"Tìm ông ấy làm gì?" - Lý Vỹ hỏi.


"Ông ấy có năng lực siêu nhiên!" - Người kia đáp.

Lý Vỹ nói với tôi:


"Xin nói cho tôi sự việc đó thực sự là thế nào!"


Tôi cầu thỉnh Phật Bồ Tát, Phật Bồ Tát ban cho một bài kệ:

Với lời nguyện vững chắc

Đeo túi hương diệu kỳ

Thán công đức chư Phật


Đến thị hiện từ bi.

Tôi nói với Lý Vỹ:

"Người mẹ đáng kính của anh có khuôn mặt tròn tròn, lông mày mảnh và dài, đôi mắt hiền từ, hàm răng có một đặc điểm đặc biệt, đó là một chiếc răng cửa dưới nghiêng sang phải, đó là một chiếc răng bọc vàng."

Lý Vỹ nói:

"Cực kì chuẩn! Ngay cả đến chiếc răng đặc biệt này ngài cũng biết được, thật sự năng lực phi phàm. Xin hỏi Đại Sư, mẹ tôi hiện về là vì lý do gì?"

Tôi nói:

"Tâm nguyện của mẹ anh chưa hoàn thành!"

"Là tâm nguyện gì?"

Tôi trả lời:


"Lúc còn sống, mẹ anh tốt bụng thích làm việc thiện, bà đã làm tình nguyện trong chùa nhiều năm rồi. Bà từng phát lời thề trước Phật, Bồ Tát rằng muốn xây dựng con đường cho đoàn người đi hành hương, nhưng kinh phí cho công trình này rất lớn, bà vẫn chưa có được khả năng để tiến hành việc này. Lời nguyện đưa ra chưa được bao lâu thì bà cũng đã sinh về Tây Phương rồi, bởi vậy lời thề nguyện này vẫn chưa hoàn thành. Thế là vào lúc dòng người đi hành hương, bà đã đặc biệt hiện lên trước con trai mình, có lẽ là hy vọng con trai sẽ hoàn thành lời nguyện xây đường lớn cho việc hành hương đó!"

Cư sĩ Lý Vỹ kể với tôi:


Mẹ anh thực sự đã làm việc tình nguyện trong chùa nhiều năm. Mẹ anh cũng thực sự là người tốt bụng thích làm việc thiện. Tiền của mẹ, tiền của con gái cho mẹ cũng được dành phần lớn để làm từ thiện.


Đối với việc mẹ phát nguyện xây dựng con đường hành hương, bản thân anh cũng chưa từng nghe mẹ nói đến. Lý Vỹ nói cần hỏi lại bố anh mới có thể hiểu rõ được, có lẽ bố anh mới biết được chuyện này.


Lý Vỹ trở về nhà hỏi bố. Ông Lý xác nhận đúng là có việc này. Nhưng hoàn cảnh kinh tế của họ luôn không dư dả gì, bởi vậy có phát nguyện nhưng vẫn chưa làm được.

Lý Vỹ trở lại nói với tôi:

"Lư đại sư! Thần toán của ngài thật khiến người ta vô cùng kinh ngạc, việc của dương gian có thể biết rõ, ngay cả việc của âm gian cũng chuẩn xác. Thật là bất khả tư nghì!"

"Anh đi hoàn thành lời nguyện của mẹ anh đi!" - Tôi nói.

Lý Vỹ đáp:

"Không phải tôi không làm, tôi cũng muốn làm, chỉ là vẫn thiếu gió đông."

"Gió đông?"

"Là tiền đó."

Tôi nói:

"Tôi truyền cho anh một câu chú, anh sẽ có tiền liền!"

Lý Vỹ cười:

"Lư Đại Sư nói đùa rồi."

"Không, là thật đó." - Tôi nghiêm túc nói: "Bởi vì mẹ anh đã phát nguyện xây con đường hành hương, anh tiếp nối di nguyện của mẹ nên tôi mới sẵn lòng truyền câu chú này cho anh. Anh niệm chú này, không tới mấy năm anh sẽ giàu có. Hãy nhớ, khi đã giàu rồi, lập tức đi thực hiện lời nguyện."

Lý Vỹ nói:

"Thật là có câu chú này sao?"

Tôi nói:


"Tuyệt đối là thật."


Tôi lấy ra một bộ Kinh, cuốn này là "Vũ Bảo Đà-la-ni kinh", Kinh viết rằng: “Nếu có thiện nam tử viết ra và tiếp nhận câu chú này, sẽ có được mọi niềm vui, an ổn. Nếu có người ăn chay, sống chay tịnh, không ăn rượu thịt, ngày đêm thường tụng, sẽ được phú quý.”

Vẻ mặt Lý Vỹ có chút bối rối:

"Cần ăn chay, cần sống độc thân à?"

Tôi nói:


"Thế này đi! Trước tiên anh đừng lo lắng. Pháp của tôi cứ tự nhiên là được rồi. Tôi không cần anh phải ăn chay, không cần anh phải sống chay tịnh. Chỉ cần trước khi ăn cơm, anh niệm một biến “Ôm A Hùm”, rồi anh mới ăn. Khi nào có quan hệ nam nữ, cũng niệm một biến “Ôm A Hùm”, rồi anh mới làm."

Tôi lại dạy anh:

"Muốn tụng câu chú này, lần thứ nhất cần tụng 800 biến. Sau đó mỗi ngày chia làm ba thời, buổi sáng, buổi trưa, buổi tối, mỗi thời tụng 108 biến."

"Chú có dài không?"


"Không dài, chỉ có vài chữ thôi, rất đơn giản."


Tôi viết ra câu chân ngôn:


"Ôm, Va-su-đa-rê, Sô-ha.

Lý Vỹ đọc xong nói:

"Câu này đơn giản, có thể làm được."

Tôi nói với Lý Vỹ:"Đừng xem thường ba chữ “Ôm A Hùm”, ba chữ này là Tam Tự Minh, minh ở đây chính là thanh tịnh, cũng chính là biến hóa thành thanh tịnh, chính là Phạm hạnh. Ba chữ này bất khả tư nghì, ý nghĩa thâm sâu, cực kì quan trọng. Ngoài ra, Vũ Bảo Đà-la-ni chân ngôn thực sự có thể giúp có được phú quý. Câu chú này ít người biết, quý giá phi thường. Tôi không dễ gì truyền cho câu chú này, ai có lời thề nguyện chân thực tôi mới truyền cho."

"Cần quán đảnh không?"


"Cần. Các câu chú trong Mật giáo đều cần quán đảnh thì mới có lực gia trì của truyền thừa."


Tôi ban quán đảnh cho Lý Vỹ.


Việc này chính là:

Vốn dĩ nên sống đời chay tịnh

Cớ sao người đời lại coi khinh

Không vương cõi tục tức là Phật

Biến hóa thanh tịnh là hiển minh

Phàm phu vốn dĩ chính là Phật

Chỉ là mê tiền đã thành tính

Nay truyền câu chú mong thí thiện


Vọng tâm giác ngộ nở hoa xinh.


Lý Vỹ có tín tâm đối với tôi, có tín tâm với Vũ Bảo Đà-la-ni chân ngôn. Lý Vỹ cũng không phải người mới bước vào cửa Phật, anh biết học Phật cần phát năm đại nguyện:

Chúng sinh vô biên thề nguyện độ

Phúc trí vô biên thề nguyện gom

Pháp môn vô biên thề nguyện học

Như Lai vô biên thề nguyện làm

Bồ đề vô biên thề nguyện chứng


Pháp giới ích lợi khắp muôn người.


Lý Vỹ vốn có lòng muốn học Phật, cũng rất hiếu thuận với cha mẹ, coi lời thề nguyện của mẹ cũng như lời nguyện của mình, mẹ chưa hoàn thành được, bản thân nhất định muốn hoàn thành.

Mỗi lần anh niệm chú xong, anh lại hồi hướng:


"Nguyện tất cả mọi lời cầu thỉnh của chúng sinh hữu tình, thế gian và xuất thế gian, mọi đại nguyện thù thắng mau chóng được thành tựu."


Lý Vỹ tu được một năm. Tình hình kinh tế của bản thân vẫn chưa cải thiện, vẫn chưa có chứng nghiệm, nhưng anh không nản lòng. Một đêm nọ, anh có một giấc mơ kỳ lạ: anh mơ thấy mẹ mình đến, mang anh cùng bay đi.

Anh hỏi mẹ:

"Khi nào thì điều kiện kinh tế sẽ tốt hơn?"

Mẹ đáp:

"Khi đủ duyên!"

Anh lại hỏi:

"Nguyện ước làm đường hành hương liệu có hoàn thành được không?"


"Khi đủ duyên!"

Họ bay tới một đỉnh núi nhỏ, hai người cùng hạ xuống mặt đất. Người mẹ chỉ vào ngọn núi nhỏ nói: "Hãy nhớ, ở bên trái có một miếu Thổ địa, bên phải có một ngôi mộ hoang, phía trước có một cây cầu nhỏ tên gọi là cầu Phổ Lợi." "Còn ngọn núi này?" - Lý Vỹ hoài nghi.

"Mua nó."

"Ngọn núi hoang này có ích lợi gì?" - Lý Vỹ lưỡng lự.

Người mẹ không nói gì khác ngoài câu:


"Mua nó."


Mơ đến đây, Lý Vỹ liền tỉnh lại, lúc này mới biết là mình vẫn nằm trên giường, nhưng lời nói của mẹ trong mơ vẫn còn vang bên tai, hai tiếng "mua nó" rất rõ ràng.

Có một ngày, một người bạn của anh tình hình kinh tế gặp khó khăn nên cần bán bất động sản của mình. Anh ta tìm đến Lý Vỹ, sẵn sàng bán cho Lý Vỹ với giá tốt. Người bạn đưa Lý Vỹ đi xem ngọn núi nhỏ đó. Lý Vỹ vừa tới thì vô cùng kinh ngạc, bởi vì nó chính là ngọn núi nhỏ anh gặp trong mơ. Bên trái có miếu Thổ địa công, bên phải có một ngôi mộ hoang, ở giữa có một cây cầu. Lý Vỹ nói với bạn:

"Cây cầu này tên là Phổ Lợi."

Người bạn nói:


"Khi tôi mua chỗ này thì đã có cây cầu đó rồi, tên cầu là gì trước giờ tôi cũng không chú ý."

Hai người tiến lên phía trước xem, chính là tên cầu Phổ Lợi. Người bạn được một phen kinh ngạc.

"Anh từng đến đây rồi à?"

Lý Vỹ đáp:

"Đến trong mơ."

Người bạn nói:


"Lý Vỹ này đúng là thích nói đùa!"


Lý Vỹ làm theo lời dặn của mẹ trong mơ, anh thực sự đã mua được ngọn núi hoang này với giá rất rẻ. Sau khi mua xong, Lý Vỹ thấy rất hoang mang. Mẹ muốn anh trồng cây ăn quả sao? Trồng vải, trồng nhãn, trồng mận, đu đủ, chuối,…


Có người cười Lý Vỹ thật ngốc. Muốn trồng cây ăn quả để phát tài ư, bây giờ làm gì còn cửa!


Lý Vỹ cũng cảm thấy mình ngốc thật! Cứ cách vài ngày, anh lại đi lên núi, cảm thấy ngọn núi này chẳng có điểm gì hay ho cả. Trồng cây ăn quả thì anh cũng không phải chuyên gia. Việc khai phá đất đồi núi để làm thị trấn vẫn chưa phát triển tới nơi này. Xây linh cốt tháp thì bản thân anh chưa từng nghĩ đến. Xây một ngôi chùa thì ai sẽ tới nơi hoang vu hẻo lánh này mà xây. Đồng thời ngọn núi này cũng không phải là mảnh đất có phong thủy tốt để xây nghĩa trang.


Lý Vỹ chẳng nghĩ ra được gì. Rất nhiều người cũng không nghĩ ra được gì. Lý Vỹ mua ngọn núi nhỏ này hoàn toàn do gặp giấc mơ nọ. Anh nói với mọi người, mọi người cười, bảo anh "vào trại đi". [tiếng lóng, ý nói rằng bị tâm thần]


Lý Vỹ phát hiện ra, từ sau khi anh mua ngọn núi này, có một dòng suối nước trong mát chảy ra từ một vùng trũng trên núi. Anh không để ý tới, nhưng con suối này mỗi ngày một chảy mạnh hơn, tiếng suối chảy rầm rì, nước suối đổ vào một cái hồ nhỏ ở gần đó. Lý Vỹ dường như có linh cảm, anh lấy bình múc nước suối lên, đem đi kiểm tra. Kết quả kiểm tra quả nhiên nước suối này có chất lượng cực kì tốt, chính là suối nước khoáng thiên nhiên. Nước suối này không có chất béo, carbohydrates và protein. Nó chứa natri, canxi, magie, sắt, flo,… Báo cáo kiểm định nói chất lượng nước suối không chỉ xuất sắc mà còn có những khoáng chất thiết yếu và dễ hấp thụ bởi cơ thể con người. Nó không có chất lắng đọng, uống vào vị rất thanh mát.

Là nước suối thiên nhiên. Thế là vận may của Lý Vỹ đã đến rồi. Anh thành lập một xí nghiệp sản xuất nước khoáng. Anh tìm đến tôi nhờ đặt tên.

"Xin ngài đặt một cái tên đẹp cho nước suối này."

Ban đầu tôi đặt tên là: "Tinh khiết thanh mát tràn đầy."

Lý Vỹ nói:

"Bị trùng ý."

Tôi lấy một tên khác:

"Phổ Lợi."

Lý Vỹ nói:


"Chính là cái tên này, tương ứng rồi!"


Hóa ra tên cây cầu ở đó chính là cầu Phổ Lợi. Anh đặt tên cho ngọn núi nhỏ của mình là núi Phổ Lợi. Nước suối chảy ra từ trong núi được gọi là Nước khoáng thiên nhiên Phổ Lợi. Đây không phải là tương ứng thì là gì!


Nước suối thiên nhiên Phổ Lợi được đưa ra thị trường, doanh số bán hàng của nó liên tục tăng như tên lửa, thành tích bán hàng cực kì tốt, ai ai cũng tán dương!

Nước suối thiên nhiên Phổ Lợi phổ biến khắp cả nước, ai nấy đều thích uống. Các thương hiệu nước suối thiên nhiên khác đều thua Phổ Lợi.

Thực sự là:

Phổ cập thiên hạ


Lợi ích chúng sinh.


Việc càng kỳ lạ hơn là nước suối của ngọn núi nhỏ kia cứ tuôn chảy không ngừng. Dường như ở bên dưới ngọn núi nhỏ kia có một cái hồ lớn ngầm dưới đất với nguồn nước không bao giờ cạn.


Lý Vỹ có được phúc báo này nhưng không quên lời nguyện. Anh lập tức hoàn thành việc xây đường hành hương lên núi, trước tiên là để hoàn thành lời thề nguyện của mẹ.


Lý Vỹ làm việc thiện, bố thí giống như mẹ mình. Bây giờ anh đã là một người rất giàu có, mỗi lần ủng hộ là cả một khoản tiền rất lớn, rất nhiều các đoàn thể Phật giáo biết tin này đã đến để xin tài trợ.


Lý Vỹ đã đóng góp cho việc xây chùa, xây bệnh viện… Tôi đã xem những chương trình biểu dương Lý Vỹ trên truyền hình.

Một năm nọ tôi về nước, khi đi qua một tòa nhà rất lớn và sang trọng, tôi hỏi:

"Là công ty của ai vậy?"


"Của Lý Vỹ."


Tôi ồ lên một tiếng, rồi cũng không nói gì thêm. Sau này tôi nghe nói Lý Vỹ luôn muốn đến tìm tôi, nhưng tôi luôn không gặp anh. Cho đến một lần anh cho xe đến đón tôi, tôi mới đến nhà Lý Vỹ. Cửa nhà của Lý Vỹ có cả nhân viên bảo vệ đứng canh. Trong nhà rất có phong cách, Lý Vỹ đã trở thành tổng giám đốc của nhiều công ty rồi. Lý Vỹ từ trên tầng đi xuống, nhìn thấy tôi thì anh vô cùng thân tình, bảo người phục vụ tiếp đãi tôi rất cẩn thận.

Anh nói:

"Vì sao ngài không đến tìm tôi?"

Tôi nói:

"Xin lỗi, tôi bận quá!"

"Bận việc gì?"

"Độ chúng sinh!"

"Ngài có muốn tôi giúp gì không?" - Lý Vỹ nói.

"Ồ! Không có!"

Tôi hỏi lại anh:

"Anh tìm tôi có việc gì không?"


"Không có việc gì, chỉ muốn gặp Lư Đại Sư thôi, bây giờ đã là Đại Hoạt Phật rồi."

Chúng tôi nói chuyện một lúc. Tôi hỏi:

"Bây giờ anh còn niệm Vũ Bảo Đà-la-ni chú không?"

Anh đáp:


"Vẫn niệm. Ngày trước tôi niệm nhiều, bây giờ bận quá nên niệm ít ." - Anh ngại ngùng đỏ mặt.

Tôi nghiêm túc bảo anh đừng quên trì chú.

Anh gật gật đầu đáp:


"Vâng. Vâng. Vâng."

10. Chú Phật Đỉnh Tôn Thắng


Có một người đàn ông tên là Triệu Huy đến tìm tôi để hỏi về vận mệnh. Anh vừa bước vào cửa nhà, tôi đã cảm ứng thấy ngay.


Triệu Huy này trên đầu có một đám khí đen. Quả nhiên có hai con ma theo anh tới, tuy nhiên hai con ma bị thần giữ cửa chặn lại ở bên ngoài. Chúng ở ngoài cửa làm huyên náo ồn ào.


Triệu Huy ngồi xuống trước mặt tôi. Tôi nhìn mặt Triệu Huy, trên mặt anh có khí sắc màu xám tro, một vùng khí mốc meo bám lên người anh. Tôi thở dài khi nhìn con người này từ đầu tới chân, thậm chí nhân quả ba kiếp, da thịt xương không có một chút nào là thiện lành cả, có còn gì để nói đây!

Triệu Huy hỏi:

"Vận mệnh ra sao?"

Tôi đáp:

"Nói thật lòng, tôi không dám nói vận mệnh cuộc đời anh!"

"Xin nói thật đừng ngại!"

Tôi nói:

"Cha mẹ mất từ nhỏ, được người thân nuôi dưỡng!"

"Đúng rồi. Chết tiệt! Rất chuẩn!"

"Lúc nhỏ số khổ, thất học, làm việc lặt vặt, đánh nhau, phải đi trại cải tạo."

"Đúng luôn."

"Thanh niên trở thành kẻ trộm, đã ngồi tù hai lần!"

"Đúng thật. Đến việc này ông cũng biết."

"Đến nay không có gì cả, ai gặp cũng tránh!"

"Đúng thế."


"Bây giờ anh vẫn còn giao du với bọn côn đồ sao?" - Tôi hỏi.


Triệu Huy gục gặc đầu. Tôi nói đến đây thì không muốn nói tiếp nữa. Bởi vì tôi biết, kiểu người như Triệu Huy này có một danh từ mà con người hiện đại dùng để gọi, chính là "cặn bã". Bởi vì anh chưa từng làm bất kì công việc nào đàng hoàng tử tế, cả một đời toàn lêu lổng, cuộc sống suy đồi, sống qua ngày một cách vô độ, cờ bạc, gái gú, hút sách, thậm chí dùng ma túy, trộm cướp lừa đảo.

Triệu Huy hỏi tôi:

"Khi nào tôi mới giàu có?"

Tôi cười khổ trong lòng:

"Phải đợi thêm!"

"Đợi đến bao giờ?"

"Tôi không biết."

Triệu Huy hơi tức giận:

"Nghe người ta nói ông là đệ nhất thần toán, chuyện gì cũng biết, bây giờ bói cho tôi, sao lại nói là không biết. Liệu hồn đấy! Tôi hỏi ông đã ăn cơm no chưa đấy?"

"Xin lỗi, thực tế là vận mệnh của anh thực sự khó đoán!"


"Dù có tệ thì cũng có chút vận may, bói cho tôi xem nào. Đừng làm tôi tức giận, nếu không tôi sẽ cho ông biến mất khỏi quả địa cầu này cho xem!"

Tôi nghe xong nghĩ bụng đây đúng là khủng bố!

Tôi nói:

"Triệu Huy, nếu tôi giúp anh, anh có nghe theo tôi không?"

"Nghe. Lão tử này tuy là một kẻ côn đồ, nhưng vẫn biết nói chuyện ân oán."

Tôi nói:

"Tôi muốn giúp anh thay đổi vận mệnh. Trên nguyên tắc, vận mệnh của anh toàn một màu xám xịt. Cả đời này e rằng mãi mãi không ngóc đầu lên được. Chỉ duy nhất thay đổi vận mệnh mới có thể phát đạt. Nếu anh nghe theo tôi, tôi mới đồng ý giúp anh thay đổi!"

"Nói lôi thôi cái gì nữa! Mau nói đi!"

Tôi nói:

"Có hai con ma bám theo anh. Nếu hai con ma này không rời đi thì vĩnh viễn không có ngày anh ngóc đầu lên được. Hai con ma này là thế nào đấy?"

"Hai con ma?" - Triệu Huy không hiểu gì.

"Anh đã từng giết người sao?" - Tôi hỏi.

"Không có chuyện này, tôi từng đe dọa giết người ta, nhưng thực tế chỉ mới làm bị thương thôi, vẫn chưa thực sự giết người."

"Anh tự mình nghĩ kĩ xem, nếu chưa từng giết người, hai con ma này từ đâu tới, anh đã đắc tội với người âm ở đâu?"

Anh xoa xoa đầu. Triệu Huy nói:

"Chết tiệt! Có rồi, tôi đã ăn trộm mộ của người ta hai lần, trộm mộ là đắc tội với người âm sao?"

Tôi nói:

"Đúng rồi."

"Chết tiệt! Tôi chỉ trộm những thứ được chôn theo người ta thôi mà, đâu có làm tổn hại người ta. Bọn họ đi theo tôi làm cái gì?”

"Trộm mộ là phạm pháp đó. Đào mồ mả của người ta, người âm làm sao không nổi giận, hai con ma này bám theo anh nên anh lúc nào cũng gặp xui xẻo!"


"Phải làm sao?" - Triệu Huy hỏi.


Khi đó tôi nghĩ nên truyền cho anh một câu chú để giúp anh có thể cải vận lập mệnh. Nhưng làm sao để cân bằng lại những nhân duyên quả báo trong chuyện này?

Bố thí - Được phúc.

Keo kiệt - Nghèo đói.

Phóng sinh - Trường thọ.


Sát sinh - Đoản mệnh.


Tôi biết Phật pháp vô thượng, thù thắng vi diệu, Mật tông chân ngôn như ngọc như ý mani quý giá, có thể viên mãn tất cả thiện nguyện, thành tựu tất cả mọi việc.


Nhưng muốn truyền cho Triệu Huy ngọc quý mani, anh ta có tư cách không? Tôi quan sát nhân quả ba kiếp của Triệu Huy, có một kiếp anh làm nghề giết mổ lợn. Lại có một kiếp anh từng kinh doanh buôn bán mại dâm. Còn kiếp này, cho dù anh có không trộm cắp thì thực tế cũng không có chút thiện căn nào cả.

Tôi hỏi Triệu Huy:

"Anh đã từng làm việc thiện nào chưa?"

"Việc thiện à?" - Triệu Huy lắc đầu nguầy nguậy.

"Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói khoác, không nói lời tục tĩu, không nói dối, không ác khẩu, không tham lam, không tức giận, không ngu si. Đây là mười điều thiện."

"Hầy! Tôi không có việc ác nào là chưa từng làm!"


"Nghĩ kĩ xem, có thể có một việc tốt nào đó?" - Tôi không thể đem Mật pháp quý giá của thế gian truyền cho một người đã phạm phải tất cả mọi việc ác.

Triệu Huy nghĩ rất lâu, rồi anh nói:

"Có một lần, tôi đã ăn trộm trong chùa Phật rất nhiều đồ, trong đó chủ yếu là tiền công đức bá tánh cúng chùa để mua dầu, mua hương. Tôi nhét tiền đầy túi, ngay cả thùng công đức tôi cũng lấy đi. Họ lắp khóa cũng chẳng có tác dụng gì. Tiện tay tôi lấy luôn cả bức tranh trên tường. Đem về nhà xem thì ra là một bức pháp tướng của Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi vừa nhìn thấy tranh Phật liền nghĩ vứt vào sọt rác. Chết tiệt! Tranh Phật thì đáng giá mấy đồng tiền, vứt nó đi là xong. Sau đó nghĩ lại, thấy bức tranh Phật này cũng đẹp, tôi liền tiện tay treo nó lên tường. Tôi nhìn thấy hình Phật chắp tay lại, cũng bắt chước hướng về Phật chắp tay một cái. Xin hỏi, đây có phải là việc thiện không?"


"Ồ!" - Tôi á khẩu.


Bức Phật tướng lấy trộm được, đem treo trên tường, có được tính là việc thiện không? Hành động hướng về Phật chắp tay, có được tính là việc thiện không? Chính tôi cũng hồ đồ mất rồi.

Triệu Huy nói:

"Tôi đã làm một việc đại thiện, hi hi!"

"Việc đại thiện gì?” - Tôi rất ngạc nhiên.

"Tôi đến tìm ông, chính là việc đại thiện đó!"


"Ồ!" - Tôi lại á khẩu.

Tôi nói với Triệu Huy:

"Mọi chúng sinh vốn đều có tâm gốc thanh tịnh, thuần khiết, giống như trăng tròn. Ngay cả ngạ quỷ trong tam ác đạo, chỉ cần tụng chú ba biến, thì tất cả ngạ quỷ lập tức có được Mật pháp thậm thâm, vượt qua hết thảy ác nghiệp trói buộc, có được đầy đủ mọi công đức. Nếu tôi truyền cho anh câu chú này, anh chắc chắn sẽ thay đổi được vận mệnh, có được thành tựu lớn." 

Triệu Huy rất vui mừng:


"Mau! Mau!"


Tôi truyền cho Triệu Huy chú đà-la-ni Phật Đỉnh Tôn Thắng.


"Ôm, a-mi-li-ta, tưa-ka, fa-tợ, sô-ha." (tâm chú)

(Phạn ngữ: Om Amrita Teja Vate Soha)


[Sau này Tôn Sư truyền quán đỉnh thêm một câu tâm chú khác của Phật Đỉnh Tôn Thắng: Ôm, bờ-rùm, sô-ha. Ôm a-mi-ta, a-yu-la ta tê, sô-ha.]

(Phạn ngữ: Om Bhrum Soha. Om Amrita Ayus Dade Soha)


Tôi lấy Kinh Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà-la-ni ra đưa cho Triệu Huy xem. Trong Kinh này viết:


“Phật nói với Đế Thích rằng, chú này còn được gọi là chú Tịnh trừ - Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà-la-ni có thể diệt trừ tất cả tội chướng nghiệp báo, có thể phá tan mọi khổ đau của ác đạo. Đà-la-ni này được chư Phật tán thán và tuyên thuyết nhiều như toàn bộ cát của tám mươi tám sông Hằng cộng lại, tùy hỷ thọ trì, được ấn chứng xác thực bởi trí huệ của Đại Nhật Như Lai.


Nếu ai dù chỉ thoáng nghe được Đà-la-ni này, người đó sẽ không phải chịu trừng phạt bởi những ác nghiệp và tội chướng tích tập từ hàng nghìn kiếp trước, những nghiệp báo khiến họ phải xoay vòng trong luân hồi sinh tử dưới tất cả mọi dạng thức của ác đạo: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thậm chí là không phải làm thân kiến, bọ...


Nhờ công đức có được từ việc nghe thoáng qua Đà-la-ni này, khi kiếp sống hiện tại kết thúc, người đó sẽ được tái sinh về Phật quốc tịnh độ, cùng với tất cả chư Phật Như Lai và Chí Bổ Xứ Bồ Tát.”


[Chí Bổ Xứ Bồ Tát: Trong các bản văn dịch ra tiếng Việt còn gọi là Nhất Sinh Bổ Xứ, dịch từ tiếng Phạn là Ekajati Pratibaddha Bodhisattva, để chỉ các bậc Đẳng Giác Bồ tát, địa vị cao nhất của hàng Bồ Tát. Trong Kinh điển có nói, Bồ Tát Di Lặc là vị "Bồ Tát nhất sinh bổ xứ", hiện cư trú tại cõi trời Đâu Suất, đến lúc thọ mệnh ở đó hết, Ngài sẽ hạ sinh ở nhân gian, và thành Phật để kế tục Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.]

Tôi nói với Triệu Huy:


"Lấy một nắm đất, tụng đà-la-ni này 21 biến, rải lên trên thân người chết thì người chết lập tức được sinh ở cõi trời."


Triệu Huy nghe xong liền lập tức làm theo.


Tôi đưa Triệu Huy ra ngoài cửa, Triệu Huy ném ra hai nắm đất theo hướng mà tôi chỉ. "Bùm" một tiếng. Hai con ma biến mất, hồn ma bay lên trời đi mất! Hai con ma không còn, khí đen trên người Triệu Huy cũng từ từ nhạt dần.

Phật Đỉnh chú viết:


“Người trì chú này có thể xóa sạch tất cả nghiệp tội của một trăm kiếp, có thể diệt trừ ác bệnh, được an lạc, tăng tuổi thọ, thay đổi được tất cả vận mệnh. Nếu lúc lâm chung trì chú này sẽ được vãng sinh Phật quốc tịnh độ.”


Tôi truyền cho Triệu Huy thủ ấn Tôn Thắng. Tôi lại truyền dạy cách quán tưởng khi tụng chú, quán tưởng tim mình hóa thành một đĩa mặt trăng. Trong đĩa mặt trăng có một chữ Kham tiếng Phạn phóng quang phổ chiếu tất cả chúng sinh.


Chúng sinh nào chạm tới được ánh sáng này thì nghiệp chướng được tiêu diệt, thân tâm thanh mát, đạt được đại trí huệ.


Triệu Huy đã nghĩ thông suốt mọi việc.


Anh có được chú Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà-la-ni rồi liền trì tụng vô cùng chăm chỉ. Không chỉ như vậy, anh còn tin tưởng vào việc "lấy một nắm đất, tụng đà-la-ni này 21 biến, rải lên trên thân người chết thì người chết lập tức được sinh ở cõi Trời".


Việc này thật tốt. Triệu Huy không nói với bất kì ai, một lòng một dạ trì tụng câu chú, liên tục không ngừng. Triệu Huy mỗi đêm đều đến nghĩa trang, lấy đất đã được trì chú, bất kể là người chết có quen biết với anh hay không, anh đều rải đất lên phần mộ của họ. Làm việc này xong, Triệu Huy tự mình cảm thấy rất có ý nghĩa. Sau khi rải đất hết một khu nghĩa trang, anh lại đến rải đất ở nghĩa trang khác. Dấu chân của Triệu Huy đã in lại ở rất nhiều nghĩa trang rồi.


Có một lần, tôi nhìn thấy Triệu Huy thì giật nảy mình vì kinh ngạc. Trước, sau, trái, phải của Triệu Huy đều là ma. Nhưng những con ma này không phải là ác ma đến đòi nợ mà là một bầy ma tốt. Triệu Huy đã có được sự ủng hộ giúp đỡ của bầy ma.

Tôi nói:

"Anh trở thành người nuôi ma rồi!"

Triệu Huy trả lời:


"Tôi chỉ có thể làm việc thiện như thế này thôi!"


Khí sắc của Triệu Huy cũng thay đổi rồi. Khí màu xám đen không còn nữa, bây giờ trên mặt có ánh sáng đỏ, ánh sáng trắng, vẻ mặt đầy sự hài lòng vui vẻ. Thực tế là vận khí của Triệu Huy cũng đã cải thiện luôn. Vốn dĩ sức khỏe của anh rất không tốt, sau khi trì chú, trông anh đã có khí lực hơn, khả năng miễn dịch cũng tăng lên (thật ra là do ma tốt giúp đỡ). Các bệnh trước đây anh vốn có từ từ từng bệnh đều khỏi, anh cũng không uống thuốc gì cả nhưng chúng cứ dần dần khỏi.


Triệu Huy vốn có địa bàn riêng, thu tiền phí bảo kê, những hàng quán nhỏ đó đều kinh doanh rất tốt, đưa cho anh nhiều lợi tức. Anh cũng không có lòng tham, đem trả lại tiền cho những người bán hàng. Những người này càng ngày càng ngưỡng mộ anh.


Cha mẹ nuôi của anh đều đã qua đời, để lại cho anh một khoản tiền. Anh lấy tiền mở một tiệm ăn, không ngờ tiệm ăn phát đạt. Anh lại chuyển qua đầu tư, không ngờ hết lần này đến lần khác đều thuận lợi. Anh đã trở thành doanh nhân giàu có.


Anh đã kết hôn, sinh con. Anh làm trưởng xóm, trưởng làng, trưởng thôn. Bây giờ anh đã là nghị viên rồi.


(Rất nhiều người ủng hộ nghị viên Triệu Huy, kì thực nguyên nhân chính là rất nhiều ma tốt đã ủng hộ nghị viên Triệu Huy.)

Triệu Huy kể cho tôi nghe một chuyện:


"Chú Tôn Thắng cũng có thể hộ thân!"


Triệu Huy kể, có một lần, đối thủ cùng tranh chức phái một tay súng ngoại đạo tới chuẩn bị hạ thủ hành sự. Tay súng ở cách anh rất gần. Tay súng đã chỉ thẳng súng vào ngực anh. Triệu Huy lo lắng niệm một câu: "Ôm, a-mi-li-ta, tưa-ka, fa-tợ, sô-ha."


Tay súng bóp cò. Triệu Huy cho rằng mình tiêu đời chắc rồi. Không ngờ "cạch" một tiếng, viên đạn kẹt lại trong súng.

Tay súng của đối phương hét lớn:

"Chó chết, có ma!"


Tay súng vội vã tháo chạy!

Triệu Huy nói:


"Đây chỉ là một trong những sự việc nguy hiểm đã được hóa giải, vẫn còn rất nhiều kỳ tích không thể đếm được. Mỗi khi anh gặp nguy cấp nhất đều xuất hiện những chuyển biến, tất cả đều được hóa giải hết, thực sự không thể tưởng tượng được!"


Tôi thấy xung quanh anh ngày càng tụ tập nhiều ma tốt hơn, họ toàn là đến giúp anh. Rất có thể anh sẽ từ một nghị viên địa phương trở thành nghị viên của tỉnh, rồi lại lên nghị viên Quốc hội Đài Loan chưa biết chừng.


Tôi viết một bài kệ:

Mật chú gia trì đất bình thường

Rắc lên người chết là pháp môn

Gặp phải nơi sông cùng núi hẻm


Lại thắp lên một vùng càn khôn.

11. Quang minh chân ngôn


Tôi đi chơi đến một vùng hồ nhỏ ở nơi vô cùng hẻo lánh. Tôi tìm thấy một lùm cây mà từ đó có thể vọng nhìn ra cánh đồng trải rộng, lại có thể tránh được ánh nắng mặt trời chói chang, nhìn ngắm mặt hồ nước lấp lánh như thủy tinh, cảm giác rất thư thái tự tại.

Tôi nhắm mắt lại, yên tĩnh ngồi thiền. Đột nhiên, tôi nghe có tiếng thì thầm bên tai.

"Người này trên thân có ánh sáng!"

"Ánh sáng rất mạnh!"

"Liệu ông ấy có làm hỏng việc của chúng ta không?"

"Rất khó nói!"

"Chúng ta đi báo cáo với Đô Đô!"


Tôi mở mắt ra, nhìn thấy bên dưới gốc cây sam có vài đứa trẻ con đang vừa nhảy, vừa nói chuyện. Nhưng trong chốc lát lại không thấy chúng đâu nữa. Những đứa trẻ này đương nhiên không phải là người, mà là ma. Tôi rất bình tĩnh, đứng dậy, đi trên con đường nhỏ dốc xuống hồ, tới một cửa hàng buôn bán.

Tôi hỏi người chủ cửa hàng:

"Ở đây thường có người đến bơi không?"

"Có."

"Có xảy ra chuyện ngoài ý muốn không?"

Người chủ trả lời không giấu giếm:

"Mỗi năm đều có vài vụ. Trẻ con tiểu học thích nghịch nước, lại không biết nguy hiểm hay không nguy hiểm, khó tránh khỏi xảy ra việc ngoài ý muốn. Sức nước ở hồ này cũng rất kì lạ, cũng có vài chỗ rất sâu."

"Có bảng cảnh báo không?"


"Có." - Chủ cửa hàng nói. "Nhưng đối với tụi học sinh, có biển cảnh báo cũng như không!"


Tôi đứng bên bờ hồ, quả nhiên trông thấy vài đứa học sinh đang cởi quần áo xuống nước. Mùa hè gặp hồ nước hay như thế này, ai mà chẳng muốn xuống nước chơi. Tôi không nói gì, cũng đi thay đồ bơi rồi xuống nước cùng tụi trẻ con.


Tụi học sinh ở dưới nước té nước vào nhau, cùng nhau la hét, xô đẩy nhau, cũng có vài đứa bơi đến chỗ sâu. Tôi phát hiện ra nước hồ này, bên ngoài trông thì phẳng lặng, nhưng ở dưới có những dòng chảy ngầm rất mạnh. Đất dưới hồ mềm, rất dễ lún xuống. Trong hồ cũng có rong rêu mọc dưới nước, có thể quấn vào chân của người bơi. Nước hồ ở gần bờ khá ấm, còn ở phía xa bờ thì lạnh.


Khi tôi thấy tụi học sinh không chú ý, tay phải tôi kết ấn, vẽ lên không trung một chữ Ah tiếng Phạn, ấn hướng về tụi học sinh.


Dùng thiên nhãn, tôi nhìn thấy có bốn đứa học sinh đang bơi, đồng thời cũng có bốn con ma nhỏ khác. Bốn con ma nhỏ này cũng đang nhanh chóng rẽ nước tiếp cận bốn đứa học sinh kia. Nhưng đi tới một điểm thì chúng không tiến lên tiếp được nữa. Hình như có một tấm lưới khí vô hình đã bao trùm lấy bốn đứa học sinh.


Bốn con ma nhỏ dù có làm cách nào cũng không thể đến gần bốn đứa học sinh được. Cuối cùng, bốn con ma nhỏ sức tàn lực kiệt, chán nản bỏ đi! Trước khi rời đi, chúng còn trừng mắt nhìn tôi một cái. Tôi cũng nhếch mép cười đáp lại cái nhìn của chúng.

Bốn đứa học sinh chơi thêm một lúc nữa rồi lên bờ. Tôi hỏi:

"Chơi vui không?"

Chúng đáp:

"Vui lắm ạ. Lần sau lại đến chơi!"

Tôi nói:

"Ở đây cấm bơi, rất nguy hiểm! Cảnh sát có biển cảnh báo kìa!"

Chúng nói:

"Chẳng phải ông cũng vừa xuống chơi đó sao!"


"Ơ..." - Tôi cười ha ha, á khẩu không nói được gì.


Buổi tối hôm đó tôi nằm mơ. Có một con quỷ nước đến gần tôi, nó biến thành một con rắn nước rất to đến bơi tới bơi lui quanh giường tôi, nhưng không có cách nào tiếp cận hơn được.


Con quỷ nước lại hiện nguyên hình, lắc đầu vẫy tai. Từ trong miệng nó nhổ ra những cành rong rêu rất dài. Những cành rong rêu này muốn quấn lấy cổ tôi khiến tôi nghẹt thở mà chết. Thật đáng tiếc, khi cành rong rêu vươn tới gần mặt tôi liền dừng lại.


Con quỷ nước lại nhổ ra nước, nước ngập hết cả phòng tôi, muốn cho tôi chết đuối. Cũng như vậy, xung quanh tôi đầy nước nhưng trên người tôi thì ngay cả một giọt nước cũng không thể bám lên được.


Con quỷ nước lại nhổ ra đất bùn, mùi rất kinh khủng, ngửi trúng là muốn nôn, nhưng tôi vẫn an nhiên như thường. Quỷ nước phát hiện ra xung quanh tôi và xung quanh chiếc giường của tôi được bao bọc bởi một lớp khí vô hình, giống như lưới ánh sáng vậy.

Giường hóa thành hoa sen.


Tôi hóa thành chày kim cang.

Quỷ nước biết là gặp phải cao thủ rồi, nó quỳ xuống, chắp tay. Tôi hỏi:

"Ngươi là Đô Đô?"

"Đúng."

"Ngươi đã hại bao nhiêu sinh mệnh rồi?"

"Thật xấu hổ!"

"Vì sao làm vậy?"

Đô Đô đáp:

"Luân hồi."

Tôi hỏi:

"Làm sao mà ngươi chết?"

"Tự sát."

"Sao không tu hành?"


"Không có Sư Phụ dạy. Nếu có thể bái ngài làm Thầy thì có thể thành tựu rồi."

Thế rồi Đô Đô rất tò mò hỏi tôi:

"Sao trên người ngài lại có ánh sáng? Xung quanh lại có lưới ánh sáng?"

Tôi nói:


"Trên người ta có ánh sáng và lưới ánh sáng là do ta tu tập Quang minh chân ngôn mà có được. Nếu ngươi không tiếp tục làm hại sinh mệnh người ta nữa, ta sẽ truyền cho ngươi Quang minh chân ngôn, ngươi và bầy quỷ nhỏ đều có thể siêu sinh. Trong Kinh điển đã nói, nếu chúng sinh nào gây ra mười tội ác, năm tội chết người, bốn trọng tội, thân hoại mệnh chung, đọa vào mọi ác đạo, dùng chân ngôn này gia trì 108 biến, người chết lập tức được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc Tịnh thổ. Còn nữa, nếu có chúng sinh nào nghe được chân ngôn này 2, 3 hoặc 7 biến, lập tức tất cả mọi tội chướng đều bị diệt trừ."


Quỷ nước Đô Đô nghe xong vô cùng vui mừng, quy y ngay tại đó, cầu xin được nhận chân ngôn.

Tôi niệm:


"Ôm, a-ma-ka, vai-rô-cha-na, ma-ha-mu-tưa-la, ma-ni-pa-tưa-ma, chi-fa-la, la-fa-ơ-ta-ya, hùm.”

Tôi nói:


"Quang minh chân ngôn này cũng chính là do Phật Vairocana [Đại Nhật Như Lai] đại quán đảnh. Khi tụng chú này, quán tưởng ở tâm vòng nguyệt luân có một chú tự, chữ Ah tiếng Phạn màu vàng kim, phóng tỏa ánh sáng phổ chiếu tất cả chúng sinh. Chỉ cần được chạm tới ánh sáng thì có thể rũ bỏ mọi khổ đau, có được niềm vui. Câu chú này chính là quy y Đại Nhật Quang Minh Ấn của Đại Nhật Như Lai, như có được ngọc quý, như có được hoa sen, như có được sinh mệnh mới, như có được quang minh, lập tức siêu sinh, mãn nguyện."

Tôi nói với Đô Đô:

”Buổi chiều ngày mai, ta sẽ vẽ ra Quang Minh chân ngôn, ném vào trong hồ, hy vọng các người đều trì tụng cho tốt, tự cứu độ cho mình." 


Quỷ nước Đô Đô cúi đầu lạy rồi đi.


Buổi chiều hôm sau, tôi vẽ Quang Minh chân ngôn lên giấy vàng rồi ném xuống hồ nước.


Tôi cung kính trì niệm:

"Quang minh chân ngôn nhập hồ này

Nước hồ biến thành nước sạch

Người muốn rửa chân

Nước sẽ rửa chân

Người muốn rửa đùi

Nước sẽ rửa đùi

Người muốn rửa hông

Nước sẽ rửa hông

Người muốn rửa cổ

Nước sẽ rửa cổ

Người muốn rửa sạch lục phủ ngũ tạng

Lục phủ ngũ tạng sẽ được rửa sạch

Người muốn rũ sạch tâm bẩn

Tâm sẽ được sạch trong

Người muốn được quán đảnh


Sẽ được ánh sáng quán đảnh."

Tôi niệm:

"Quang minh chân ngôn nhập hồ này

Giống như kho báu vô lượng ở đây

Lưới ánh sáng phủ khắp hư không

Phát lên pháp âm vi diệu

Truyền đi lời Phật nói

Quanh hồ mở rộng bốn phía

Ngập tràn tia lấp lánh

Diễm lệ tột cùng

Gió lành từ thiên nhiên

Khe khẽ thổi quanh hồ

Nước hồ ấm áp dịu dàng

Sóng dập dờn quện mùi hương thơm ngát


Bất khả tư nghì."


Tôi nhìn thấy Đô Đô hóa thành một con rắn nước lớn, các con ma nhỏ hóa thành một đàn rắn nước nhỏ, kéo đến bên hồ nước để nhận quán đảnh Quang Minh chân ngôn.


Tôi vừa mới quán đảnh xong liền có gió thổi tới cây quý, phát ra tiếng Phật.


Rắn nước lớn nhỏ đều có được niềm vui. Nước trong hồ êm đềm lấp lánh, phảng phất hương thơm.


Rắn nước lớn nhỏ lập tức hóa thành rồng, rẽ sóng nước cưỡi gió bay lên, từ từ bay lên trời đi mất.

12. Ma trong mắt


Có một người đàn ông tên là Vương Ân, khoảng ngoài 40 tuổi, gia cảnh khá giả. Có lần ông đi qua một nghĩa trang thì gặp gió thổi tung đầy cát bụi rơi trúng vào trong mắt ông.


Hai mắt của Vương Ân đỏ lên rồi ngứa, ông lập tức đi khám bác sĩ. Sau khi được bác sĩ chữa trị, hai mắt không còn đỏ, không còn ngứa nữa, nhưng lại có chút mờ đục. Thị lực của Vương Ân liền trở nên rất kém, đồng thời mỗi ngày lại có xu hướng kém thêm một chút. Ông đã trải qua nhiều lần chữa trị mà vẫn không thấy hiệu quả gì, cho đến cuối cùng thì ông bị mù luôn, không nhìn thấy gì cả. Tất cả mọi việc di chuyển đi lại của Vương Ân đều phải dựa vào cây gậy chống của mình hoặc nhờ người nhà dẫn đường.


Cứ như vậy ông trải qua những ngày tháng tối đen không còn thấy ánh sáng. Trong vòng hai năm, ông đã tìm đến tất cả những bác sĩ nhãn khoa nổi tiếng, tất cả các biện pháp Đông y cũng đều đã thử. Nghe nói ở đâu có cao nhân dị sĩ, Vương Ân đều thử đi tìm gặp, kể cả là tướng sĩ kê đồng nổi tiếng ông cũng đều đến gặp. Nhưng không chỉ thuốc thang vô hiệu, ngay cả biện pháp châm cứu cũng đều không giúp ích gì. Ông cũng đi cầu Thần Phật, cũng lễ lạy nhưng không có dấu hiệu chuyển biến gì hết.


Năm đó tôi từ Mỹ về Đài Loan hoằng pháp. Vương Ân nhờ người đến tìm xin được gặp. Nhưng bởi vì hành trình hoằng pháp của tôi đã được sắp xếp rất chặt, về cơ bản hầu như không còn thời gian dư thừa nào để gặp người ngoài, do vậy ông đã bị từ chối.

Vương Ân nói với người nhà:

"Nghe nói Lư Thắng Ngạn Hoạt Phật có phép thần thông kì lạ, tôi nhất định cần đi gặp ông ấy!"

Người nhà trả lời nói:

"Ông ấy chẳng có chút thời gian rảnh nào."

Vương Ân nói:

"Vậy thì đến sân bay đón! Đi thử một phen xem sao!"

Người nhà nói:

"Nghe nói ông ấy hễ về tới Đài Loan, vừa xuống máy bay là có cả vạn người đến sân bay đón tiếp, không ai tới gần được cả."

Vương Ân nói:

"Tôi nhất định phải đi!"

"Đi cũng chẳng ích gì."


"Đi thì còn có cơ hội, nếu không đi thì hoàn toàn không có cơ hội nào." - Vương Ân kiên trì.


Người nhà không thể thuyết phục được Vương Ân, chỉ có thể thuận theo ý muốn của ông. Họ đưa Vương Ân đến sân bay quốc tế. Theo lý lẽ mà nói, nếu Vương Ân chờ ở khu vực sảnh đón tiếp sau khi nhập cảnh để gặp tôi thì chắc chắn cơ hội gần như bằng không. Bởi vì sảnh đón tiếp ở sân bay cả nghìn vạn người, dòng người như sóng biển, ngay cả đến mẹ ruột hay mẹ vợ tôi cũng chẳng thể đến gần. Tôi nhanh chóng bị cả biển người vây quanh, trong chốc lát tôi sẽ được che chắn để lên xe rồi rời đi!


Nhưng gia đình của Vương Ân ở Đài Loan là người có quan hệ rộng, họ giúp thu xếp cho Vương Ân có được một tấm thẻ thông hành của nhân viên đặc biệt, Vương Ân có thể đi vào trong khu vực hải quan, có thể đi qua văn phòng xuất nhập cảnh, trực tiếp đi tới nơi ngay cạnh chỗ máy bay hạ cánh. Việc này cũng thật sự lợi hại.


Tôi vừa bước xuống máy bay, mới vừa đi qua cửa đã nhìn thấy một người đàn ông mặc âu phục, hai mắt đeo kính râm, quỳ xuống trước cửa máy bay, ngoài ra có một người phụ nữ đứng cạnh hỗ trợ ông.

Người đàn ông nói với tôi:

"Tôi là Vương Ân, đặc biệt tới nghênh tiếp Hoạt Phật về nước!"

Tôi nói:

"Vâng! Vâng! Cảm ơn!"

Tôi đỡ ông dậy.

Ông lại nói:

"Tôi là Vương Ân."

Tôi đáp:


"Vương Ân! Ồ! Vương Ân!" - Kỳ thực tôi chẳng biết Vương Ân là ai!

Chúng tôi sánh bước đi, Vương Ân đi bên cạnh nói với tôi:


"Hoạt Phật! Tôi đã mắc bệnh hai năm nay, mắt mù rồi, cầu xin gặp Hoạt Phật không được, nay đặc biệt đến đây đón ngài, xin Hoạt Phật gia trì cho hai mắt này sáng lại."

Tôi nghe xong, lúc này mới hiểu ra.


Đối với tôi mà nói thì đây là chuyện thường gặp vì rất hay có người chen qua đám đông đến gần tôi, cầu xin gia trì. Nhưng Vương Ân này vào lúc tôi vừa xuống máy bay thì đã quỳ dưới cửa máy bay để xin gia trì rồi, việc này cũng khá hiếm. Trước ngực ông ấy còn có đeo thẻ thông hành của nhân viên thực hiện nhiệm vụ đặc biệt nữa.


Tôi không nói gì thêm, đưa bàn tay ra vỗ vỗ lên đầu của Vương Ân. Rồi tôi dùng kiếm ấn điểm một cái trên mí mắt của Vương Ân. Tôi nói: "Đã gia trì rồi!"

Vương Ân luôn miệng nói:


"Cảm ơn! Cảm ơn! Cảm ơn!"


Lúc này những người đón tôi đã đến rồi. Trước ngực họ cũng đeo thẻ thông hành của nhân viên thực hiện nhiệm vụ đặc biệt. Họ nói bởi vì máy bay đến sớm, thành ra họ đến đón tôi bị muộn mất một chút. Đệ tử Chân Phật Tông rất đông. Họ làm việc trong cục cảnh sát hàng không, cục hải quan, cục di dân, cục xuất nhập cảnh, v.v… Họ vừa đến, Vương Ân liền lùi cách xa tôi một chút.


Tôi vẫy tay chào Vương Ân, ông đương nhiên không thấy. Chúng tôi nhanh chóng đi vào khu vực dành cho khách V.I.P.


Vương Ân nhận được gia trì xong liền trở về nhà. Kì thực mắt của ông vẫn chưa hồi phục lại thị lực. Thậm chí, dù chỉ hồi phục một chút xíu xiu cũng không. Nhận được gia trì so với việc không nhận được gia trì chẳng khác gì nhau cả.

Chỉ là đêm đó, Vương Ân nghe thấy có hai người thì thầm nói với nhau: 

Một người nói:

"Lư Thắng Ngạn này chút xíu nữa là đẩy hai chúng ta ra ngoài rồi!"

Người kia nói:

"Ông ấy vỗ đầu một cái, tôi liền lùn đi một nửa, nếu ông ấy vỗ thêm cái nữa là tôi biến mất tiêu rồi!"

"Ông ta vừa chạm vào mí mắt, tôi như bị động đất!"

"Tôi thì ngã lộn nhào!"

"Có bị thương không?"

"Nguyên khí bị tổn hại nặng!"

"Cơn động đất này mấy độ?"

"E là cũng phải đến tám độ!"

"Nơi này còn có thể ở được nữa không?"


"Đã ở đây hai năm rồi, không nỡ chuyển đi!"


Vương Ân nghe xong bị “sốc toàn tập”!

Vương Ân nói to với hai người đang thì thầm nói chuyện này:


"Các người là ai? Có phải các người đang ở trong mắt tôi không? Tôi và các người không oán không thù, xin hai người đi ra đi!"


Vương Ân nói xong, đối phương im lặng không thấy nói gì. Vương Ân cảm thấy vẫn nên đến tìm tôi một lần nữa. Ông cho rằng tìm tôi có thể có hiệu quả, đã có chút cảm ứng rồi.

Nhưng người nhà phản đối.

"Đừng có mê tín thế!"

"Tôi rõ ràng nghe có tiếng nói!"

"Đó là ông tưởng tượng ra thôi!"

"Chỉ một lần nữa thôi!"

Người nhà đáp:

"Ông không phải chỉ mới một lần, mười lần, năm mươi lần ông đã đi tìm những kỳ nhân dị sĩ rồi, mỗi lần đều tràn đầy hy vọng đi gặp. Ai ai cũng gặp, nhưng người nào người nấy chẳng có cách gì, cuối cùng cũng đều khiến ông thất vọng mà thôi. Tôi thấy hay là thôi đi!"

Vương Ân nài nỉ:

"Chỉ một lần này thôi, tôi thực sự nghe thấy tiếng nói đó!"

"Chắc chỉ là mơ thôi!"


"Chỉ một lần thôi, làm ơn đi!" - Vương Ân kiên trì nài nỉ.


Tôi ở Đài Loan hoằng pháp, hành trình quả nhiên rất dày. Đài Bắc, Đài Trung, Đài Nam... đều có pháp hội lớn, đều tổ chức ở sân vận động kín người không còn một chỗ trống. Không chỉ như vậy, tôi còn phải đến các phân đường và trung tâm hoằng pháp trên khắp Đài Loan.

Có một lần trong nhà hàng ăn cơm, một thị giả nói với người khác:

"Có nên báo cáo Sư Tôn không?"

"Tôi không muốn, Sư Tôn bận quá rồi!"

Tôi quay đầu lại hỏi:

"Có chuyện gì?"

Thị giả đáp:

"Có một người mù tên là Vương Ân, ngồi xe đi theo chúng ta hai, ba ngày rồi, một mực cầu xin gặp. Chúng con đã từ chối nhiều lần, ông ta vẫn sống chết bám theo. Chúng con đều sắp không chịu được nữa rồi!"


"Ồ! Vương Ân! Tôi biết rồi! Cho ông ấy vào đi!"

Vương Ân và người nhà nhanh chóng đi vào nhà hàng. Tôi lại gia trì cho Vương Ân một lần nữa. Tôi nói:

"Tôi có Nhãn Minh Kinh và Nhãn Minh Chú, giao cho người nhà ông, người nhà sẽ dạy ông niệm, niệm rồi mắt sẽ sáng lại."

Vương Ân vui lắm.


Tôi viết Nhãn Minh Kinh ngay tại chỗ, giao cho người nhà Vương Ân.

➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖


Phật Thuyết Nhãn Minh Kinh như sau:

“Nam mô Quang Minh Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. 

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm, 

Lưỡng nhãn tự kim đăng.

Phật toạ Tây Phương nhất toà tháp, 

Như Lai hội thượng nhất tàng Kinh.

Văn Thù Bồ Tát kỵ sư tử, 

Phổ Hiền Bồ Tát kỵ tượng vương.

Lưỡng nhãn tự thiên đường.

Nhân lý ma, nhãn lý ma, nhãn trung ế chướng tận tiêu ma.

Nhân lý mạc, nhãn lý mạc, nhãn trung vân vụ tận tiêu lạc.

Nhân lý minh, nhãn lý minh, nhãn trung đẩu điểm tận quang minh.

Hữu nhân tụng đắc nhãn minh kinh. Sinh sinh thế thế nhãn quang minh.

Khổng Tước Minh Vương linh cảm ứng, Quan Âm Bồ Tát bảo an ninh.

Ôm, Si-ten-tua, Pao-chuy-na (Om Siddhamta Bajurna)


Nam mô Quang Minh Địa Tạng Vương Bồ Tát. Sô-ha.

➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖➖

Tôi đưa Nhãn Minh Kinh cho người nhà Vương Ân.


Vương Ân có được Nhãn Minh Kinh thì vô cùng vui sướng, giống như có được gia tài. Kinh văn này chỉ có Bồ Tát Thánh hiệu và một vài đoạn nhỏ chú văn, rất dễ nhớ, đọc cũng rất nhanh. Vương Ân đã học thuộc lòng rồi.


Mỗi ngày Vương Ân đều đọc vô số lần. Vào buổi chiều ngày thứ 49 (bảy bảy bốn mươi chín ngày), trời đột nhiên nổi sấm chớp. Vương Ân cảm thấy sợ hãi, run rẩy từ đầu tới chân. Vương Ân cảm thấy có hai vật gì từ trong nhãn cầu của mình lăn ra ngoài, vừa giống như nước mắt lại không giống nước mắt, vừa giống viên ngọc lại vừa không giống viên ngọc. Hai thứ này vừa lăn ra khỏi mắt thì mọi thứ bắt đầu thay đổi.


Lúc trời nổi sấm sét, Vương Ân không phải chỉ nghe thấy tiếng sét, mà ông còn cảm thấy cả ánh sáng của tia chớp. Kể từ hôm đó, mắt của Vương Ân mỗi ngày một tốt hơn. Thị lực từ từ có thể nhìn thấy đồ vật. Mắt bị mù không ngờ hoàn toàn khỏi hẳn.

Vương Ân hét lớn: "Lư Sư Tôn vạn tuế! Phật Thuyết Nhãn Minh Kinh vạn tuế! Hai mắt đã hoàn toàn hồi phục lại thị lực rồi!"


Việc này chính là:

Việc đời đều theo lẽ tự nhiên

Khỏi bệnh phải nhờ thiện nhân duyên

Chân kinh xuất hiện tựa gương sáng


Lo gì vạn vật không hiện tiền.


Trong thời gian hoằng pháp, có một lần tôi ngồi cao trên pháp tọa, đột nhiên phát hiện ra có thứ gì đó bay vào trong mắt. Mắt tôi đột nhiên bị cộm, có cảm giác bị nhói đau, mắt đỏ lên, rất khó chịu.

Đêm đó, tôi nhỏ vài giọt thuốc nhỏ mắt rồi lên giường đi ngủ.

Tôi cũng nghe có tiếng nói:

"Lư Sư Tôn, Lư Hoạt Phật, đắc tội rồi!"

Tôi chẳng hiểu gì cả:

"Chuyện gì?"


"Chúng tôi ở chỗ Vương Ân, bây giờ Vương Ân đã đẩy chúng tôi ra, bây giờ oan có đầu, nợ có chủ, chúng tôi đến nhà ông ở vậy!"

Trong lòng tôi lập tức hiểu ra chuyện này.

"Mấy người là ma trong mắt đúng không?"

"Đúng vậy."

"Mắt tôi rồi sẽ ra sao?"

"Sẽ bị mù." - Ma trong mắt nói.

"Tôi có thể đuổi các người từ trong mắt của Vương Ân ra, lẽ nào tôi không thể đuổi các người ra khỏi đây?"

Ma trong mắt nói:


"Người trong cuộc thì mù, người ngoài cuộc thì tỏ."

Tôi hỏi:

"Các người tổng cộng đã hại bao nhiêu người rồi?"

Ma trong mắt đáp:

"Vô số."

Tôi nói:

"Tốt lắm! Các người hại vô số người, hôm nay, thiên đường có lối các người không đi, địa ngục không cửa lại muốn đâm đầu vào, tôi tha cho các người cũng không được!"

Ma trong mắt kêu to:


"Tôi không sợ!"


Tôi nhắm chặt hai mắt lại để cho chúng không còn chỗ nào để chạy!

Mắt tôi chảy nước mắt, đây không phải nước mắt giống bình thường, mà là nước có "độ nổi thấp" trong huyền thoại chảy từ chân núi Côn Lôn, thậm chí một cọng lông vũ cũng không thể nổi được. Nước không ngừng dâng lên, biến hai mắt tôi trở thành hai biển lớn. Còn hai con ma ở trong mắt thì kêu la ầm ĩ:

"Chúng tôi chết chìm rồi, chúng tôi không biết bơi, thả chúng tôi ra!"

Tôi nói:


"Không!"


Cuối cùng, hai con ma trong mắt hoàn toàn chết chìm. Hai con ma trong mắt này hại người rồi kết cục là hại mình. Tôi, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn thì chẳng tổn hại dù một sợi tóc!

13. Chú Phản hồi


Mật giáo dựa vào ba nguyên tố chính để tu hành, ba nguyên tố này chính là:

1. Chú (chân ngôn).

2. Ấn (thủ ấn, thân ấn).


3. Quán tưởng (niệm lực).


Cũng chính là: Miệng tụng chân ngôn, tay kết thủ ấn, ý niệm quán tưởng Bổn tôn. Như vậy, thân, khẩu, ý thanh tịnh, đạt đến Tam Nghiệp chuyển thành Tam Mật. Phương pháp tu hành như vậy chính là cách hành trì của Mật giáo.


Tổ sư sáng lập Hồng giáo (Nyingma) của Mật giáo là Ngài Liên Hoa Sinh Đại Sĩ (Padmasambhava). Trong quá trình tu hành của Ngài, Ngài đã từng bị 500 kẻ ngoại đạo tấn công. 500 kẻ ngoại đạo này niệm chú triệu tập quỷ trâu thần rắn xuống, dùng pháp lực để hại chết Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Tình hình của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ khi đó vô cùng nguy cấp, Ngài đã ở bên bờ vực của cái chết, bởi 500 kẻ ngoại đạo này toàn là những cao nhân các phái tà giáo, đã tu hành nhiều năm, có thể gọi gió hô mưa, rắc đậu thành binh, có thể đánh bay thần bạt quỷ. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ sụp xuống bên dưới một cái cây to, thấy mình sắp mất mạng đến nơi rồi! Lúc này, Nhất Kế Phật Mẫu Ekajati hiện thân.


Hình tướng của Nhất Kế Phật Mẫu là: Một búi tóc, một mắt, một răng, nhưng Ngài là một trong các vị Phật Mẫu có pháp lực vô thượng. Ngài là Thầy của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, cũng là Bổn Tôn của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, lại đồng thời là Hộ pháp của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Vị Nhất Kế Phật Mẫu này đóng vai trò của cả ba thân phận.


Nhất Kế Phật Mẫu truyền dạy cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chú Phản hồi. Câu chú này là bí mật tối thượng trong Mật giáo, không phải ai cũng có thể được truyền.

1. Không truyền cho kẻ ác.

2. Không truyền cho người không trong truyền thừa.

3. Không truyền cho người có tâm không kiên định.


4. Không truyền cho người không thể giữ bí mật.


Thế nào là người có tâm không kiên định? Nhìn chung đệ tử theo Sư Phụ, lúc mới bắt đầu thì chắc chắn là cung kính nghe lời. Nhưng sau một thời gian liền xuất hiện tâm không kiên định. Ví dụ chính là những đệ tử nổi loạn như Đề Bà Đạt Đa, Judas và vô số những người khác nữa. Bởi vì chú Phản hồi là một chú lớn, là vô thượng chú, không thể tùy tiện. Thế nào gọi là chú Phản hồi?

1. Hồi: Quay ngược lại. Đối phương đánh ra chú gì thì sẽ đẩy ngược lại chú đó. Đối phương sẽ nhận lại báo ứng tương đương với uy lực của câu chú đã đánh ra.


2. Phản: Che chắn. Đối phương đánh ra chú gì, sẽ cản lại toàn bộ chú của đối phương, khiến chúng hoàn toàn không có tác dụng gì cả, hoàn toàn mất đi chú lực.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có được chú Phản hồi của Nhất Kế Phật Mẫu, chú này vừa niệm lên, liền bật ngược trở lại đối phương. Một trận sấm sét đùng đùng nổ ra! Khuấy lên một màn sương dày đặc!


500 tên ngoại đạo tà sư toàn bộ đều nằm thẳng cẳng, tất cả đều bị chú Phản hồi đánh ngược lại mà chết.


Đây chính là một trận đánh huyền diệu của chú Phản Hồi lừng lẫy!


Tôi có một người bạn tên là Phùng Phương.


Người bạn Phùng Phương này thực sự xinh đẹp như quốc sắc thiên hương, từng có người viết thư tình miêu tả cô như sau: "Dáng người em duyên dáng thanh cao như chim hồng nhạn. Từng bước chân đi của em giống như hoa sen trắng nở trên mặt nước xanh. Eo của em thon thả như quấn khăn lụa. Chiếc cổ thon dài, cánh tay, gót chân, khuôn mặt để lộ ra làn da trắng trẻo mịn màng không cần son phấn, diễm lệ vô song. Mái tóc đen dài bóng mượt buông xuống như thác nước. Đôi mày cong cong thanh mảnh. Đôi môi đỏ mọng ngọt ngào như trái anh đào che đi hàm răng trắng đều như những vỏ sò nhỏ. Đôi mắt lấp lánh đầy quyến rũ…"


Mọi người đều ca tụng vẻ đẹp của Phùng Phương. Điều quan trọng nhất là Phùng Phương rất thoải mái và tự tin, bởi vậy cô càng toát lên một sức lôi cuốn tự nhiên. Người ái mộ cô rất nhiều! Trong số đó có một thầy pháp nổi tiếng tàn ác. Hắn cũng viết thư tình gửi cho Phùng Phương.

"Nàng là tuyệt sắc mỹ nhân

Ta trao cho nàng viên đá quý mà tổ tiên truyền lại

Để biểu đạt lòng ái mộ của ta

Ta mời thần tiên đến làm mai mối

Xin đừng nỡ lòng từ chối ta

Xin đừng vô tình

Ta có được nàng


Chẳng còn phải đi tìm kiếm nơi đâu nữa."


Tên thầy pháp tà ác này làm thơ tình cũng không tệ nhỉ!


Đáng tiếc là Phùng Phương hoàn toàn không thích thú gì hắn, bởi vậy đã từ chối hắn. Tên thầy pháp tà ác hừng hực giận dữ, chẳng ngờ lại đi nói với người ta: "Phùng Phương có gì mà xuất sắc, phụ nữ đẹp như cô ta đầy đường kia kìa. Vì cô ta dám coi thường tôi, tôi sẽ để cho cô ta biết thế nào là pháp lực của tôi. Tôi muốn cô ta cả đời này bi thảm, khiến cô ta phải quỳ gối đến cầu xin tôi. Mà cho dù có quỳ gối tới cầu xin, tôi cũng mặc kệ cô ta."


Thầy pháp tà ác không chỉ nói với một người mà nói với rất nhiều người. Tuy nhiên Phùng Phương không sợ hãi, cũng không quan tâm. Tên thầy pháp này cuối cùng thực sự đã làm phép. Hắn dùng máu của gà trống trắng để vẽ bùa, và dùng ngọc để ấn lệnh cho bùa, dùng gạo tốt để cúng cho quỷ thần…


Những quỷ thần mà hắn cúng rất kỳ dị: Đều là toàn thân đen sì, có hai đầu, vô cùng dữ tợn đáng sợ, trên tay còn cầm rắn độc, tay trái cầm rắn xanh, tay phải cầm rắn đỏ. Thần này được gọi là Tinh Quỷ Giáng Thần.


Một buổi tối, Phùng Phương đang nằm ngủ mơ thì mơ thấy tên thầy pháp đến yểm phép lên cô. Hắn đóng rất nhiều đinh lên đầu cô, mỗi chiếc đinh đều dính đầy máu gà. Sau khi tỉnh lại thì cô bắt đầu mê sảng, tinh thần hoảng hốt. Sau đó Phùng Phương thường xuyên mất ngủ, buổi tối không thể nào ngủ được, dùng đủ mọi phương pháp cũng không thể nào ngủ được. Cuối cùng cô phải uống thuốc. Lúc đầu mới uống thuốc thì còn ngủ được, về sau thuốc cũng không có tác dụng nữa. Phùng Phương trở nên kiệt quệ tinh thần, diện mạo khô héo, ủ ê, cuối cùng không ngờ bị tâm thần, tính khí thất thường. Bệnh của cô được các bác sĩ khoa thần kinh chẩn đoán là bị chứng hoang tưởng.


Phùng Phương cho rằng có một nhóm người rất đông đến làm hại cô. Ví dụ:

Có một chiếc máy bay đang bay trên trời, Phùng Phương sẽ cho rằng máy bay đó tới để bắt cô.

Người đưa thư tới phát thư, cô sẽ cho là người đưa thư là kẻ xấu ngụy trang đến để giết cô.

Chó mèo trong nhà Phùng Phương đều đã được đem cho người ta, bởi vì cô cho rằng chó mèo trong nhà đều đã bị kẻ xấu bắt mất linh hồn, thay thế vào đó là linh hồn của kẻ xấu đến để làm hại cô.

Cơm lấy cho cô ăn, cô cho rằng đó là thuốc độc, trừ khi cô tự nấu.

Mỗi ngày cô đi tắm nhiều lần, cảm thấy mình bị nhiều thứ bẩn bám vào, rửa mãi mà không sạch được.

Quần áo của cô mỗi ngày cũng được giặt rất nhiều lần.

Cô nhìn người ta luôn thấy người nào trên người cũng bẩn, đều có vết bẩn, cô rất sợ bị dính lên người.

Cô nói năng lung tung.

Cô cười hi hi, rồi lại tự cười một mình, có lúc lại khóc, cho rằng trên thế giới này không có một người tốt nào cả, người nào cũng muốn làm hại cô! Cô không ngủ, không ăn.


Thỉnh thoảng cũng ngủ hai, ba ngày, có lúc lại hoàn toàn không ngủ chút nào. Cô la hét ầm ĩ, nghĩ gì làm đó.

Tình trạng của cô nghiêm trọng tới mức:

Cô cởi hết quần áo rồi chạy ra chợ.

Đem thức ăn ném hết ra ngoài đường lớn.


Đập vỡ hết bóng đèn, cô nói những gì phát sáng đều là ma quỷ.


Việc này giống như một bài thơ cổ:

"Họa lớn có ngày ập đến thân

Phải biết bệnh tật là bất phân

Vọng tưởng đóng lại thì vẫn đó

Hiểu được thực tướng là điều cần

Mọi bệnh xảy đến đều do nghiệp

Tiêu nghiệp mới thực là diệu quyết

Chỉ có tu hành thoát sinh tử


Mọi tai ương mới hóa bụi trần."


Phùng Phương vốn dĩ là một đại mỹ nhân, bây giờ mắc phải bệnh nặng, chẳng mấy chốc cô đã biến thành một bộ xương khô héo. Phùng Phương được một đệ tử đưa tới gặp tôi.


Tôi vẽ phù Thượng Yểm đưa cho cô, thật bất ngờ là không có hiệu quả gì! Tôi làm kết giới trên người cô, cũng không có phản ứng luôn!


Tôi lo lắng, chỉ còn cách ngồi thiền để quan sát. Khi que hương cháy được một nửa, tôi đột nhiên nhìn thấy một khu rừng lớn, trong khu rừng có một con đường nhỏ, tận cùng con đường nhỏ dẫn đến một thần đàn. Tôi trông thấy một người mặc đồ đen đang cúng tế một thần quỷ rất kỳ quái, chính là một thần quỷ toàn thân mặc đồ đen. Sau đó tôi nhìn thấy người mặc đồ đen này cầm dao nhuốm máu cật lực chặt một người con gái. Người con gái này quả nhiên chính là Phùng Phương…


Tôi nhìn thấy mà kinh hãi. Tôi hỏi người nhà của Phùng Phương, người nhà trả lời đúng là như vậy.


Người nhà kể: Phùng Phương từ chối tên thầy pháp tà ác, đã đắc tội với hắn, thầy pháp thực sự đã giáng bùa phép lên Phùng Phương. Có người tận mắt chứng kiến thầy pháp cũng đích thân nói với rất nhiều người rằng hắn muốn Phùng Phương cả đời thê thảm!


Bình thường mà nói, phù Thượng Yểm và kết giới rất lợi hại. Nhưng thầy pháp và thần quỷ kia không ngờ lại còn lợi hại hơn khiến tôi lấy làm ngạc nhiên.


Sau đó tôi tra cứu trong sách cổ, hóa ra thần quỷ đó vào thời kỳ thượng cổ được xếp vào thần quỷ nghìn năm, không phải tên gọi là Tinh Quỷ Giáng Thần mà gọi là thần quỷ Khương. Bởi vì đây là thần quỷ từ thời thượng cổ nên phù Thượng Yểm và pháp kết giới đều mất đi công hiệu. Tôi thấy có lẽ nên đến tìm thầy pháp tà ác kia để thương lượng với niềm tin rằng gặp mặt trực tiếp sẽ có thêm được chút cảm tình. Chỉ cần người ta có một chút biết lẽ phải thì đều có thể thương lượng được.


Sau đó tôi đã đến gặp thầy pháp tà ác.


Người này họ Cố, được một sư phụ ở Trung Quốc Đại Lục truyền dạy phép thuật cho, các tín đồ ở đó đều rất sợ hắn, bởi vì thuật bùa ngải của hắn rất lợi hại. Chỉ cần trúng phải bùa phép thì không ai không bị điên cả.

Tôi nói:

"Tôi đến đây vì Phùng Phương!"

Thầy pháp đáp:

"Cô ta không biết lễ độ, đáng bị như vậy."


"Có thể tha cho cô ấy không? Cô ấy chịu khổ như vậy đủ rồi, hẳn là cô cũng biết mình mắc tội rồi." - Tôi nói với thầy pháp về tình người.

Thầy pháp nói:

"Phùng Phương trúng bùa, ai nấy đều biết. Cô ta tâm thần thất thường, việc làm ăn của tôi càng phát đạt. Ông là ai mà dám đến đây đòi hỏi?"

"Tôi là Lư Thắng Ngạn!"

"Hóa ra là ông, ông cũng có một tí danh tiếng đấy, nếu ông trúng phải bùa chú của tôi, vậy thì lại càng có chuyện vui, càng tuyệt vời!"

"Chúng ta không oán không thù, tôi đến để cầu xin ông!"

"Cầu xin tôi? Hay là đến thách thức đây? Nếu tôi không tha cho Phùng Phương thì sao? Đấu pháp không?"

"Không!"

"Lư Thắng Ngạn, ông đi về đi, chúng ta so tài một phen!"


"Không!" - Tôi nói.


Thầy pháp cơ bản là không để ý tới tôi, hắn còn bận lo chuyện làm ăn của hắn. Tôi như hít phải một đám bụi bẩn, đem cái mặt nóng của mình dán vào cái mông lạnh của người ta, người ta chẳng thèm đếm xỉa gì đến mình. Thế nhưng sự việc không phải chỉ có như vậy là xong. Thầy pháp này thực sự cho thần quỷ Khương tới làm pháp giáng yểm vào tôi!


Những biện pháp phòng hộ của tôi đều bị vô hiệu hóa. Nói cách khác là Hộ pháp của tôi vừa nhìn thấy Khương, tự biết không địch nổi liền biến mất không còn dấu vết. Ngay cả cái ô vô hình bảo vệ lúc ngủ ban đêm cũng không còn nữa. Tự nhiên "tôi" bắt đầu cảm thấy đầu óc quay cuồng, đầu như bốc hỏa, lúc thì lạnh, lúc thì nóng, trong đầu trống rỗng.


“Tôi” không ăn được gì, vị giác không còn nữa. Ngủ cũng không giống ngủ, mà nếu như có ngủ thì cũng mơ lung ta lung tung cực kì hỗn loạn. Bên trong cơ thể như có lửa thiêu đốt.


"Tôi" cảm thấy cuộc đời mất đi mục tiêu, chẳng biết sống vì cái gì, có suy nghĩ muốn tự tử mỗi ngày một thêm mãnh liệt. Con người, khi chết đi rồi thì chẳng còn gì cả. Kì thực cho dù có nỗ lực thế nào, anh hùng hảo hán, thần tiên tu sĩ, phú quý vinh hoa, cuối cùng cũng đều đi vào con đường chết. Thôi tôi chết đi cho xong!


Cuộc sống là khổ, là hư vô, là vô thường, tôi cảm thấy chẳng còn chút ý nghĩa nào và lý do gì để sống nữa.


Nhưng rồi tôi đột nhiên tỉnh giác, rõ ràng là bản thân bị trúng bùa giáng đầu rồi! Tôi phát hiện ra xương cốt toàn thân vô cùng đau nhức, giống như trăm thứ bệnh phát sinh. Tôi muốn nhập thiền để quan sát xem chuyện gì xảy ra nhưng cũng không thể nhập định được. Thỉnh thoảng tôi định được một chút thì thấy rắn xanh, rắn đỏ đang bò lung tung trong người mình.


Thần quỷ Khương nghìn năm này quả nhiên lợi hại. Tôi không nghĩ ra cách gì để có thể trị lại Khương. Tôi bắt đầu nhìn thấy huyễn ảnh, cũng nghe thấy huyễn thanh, tôi nghĩ mình chẳng còn cách ngày bị tâm thần điên loạn bao xa nữa!


Thời gian này thực sự là:

Mây núi mờ mịt nước lạnh băng

Hoàn toàn trống rỗng tựa thần kinh

Dưới núi gầm gừ vọng tiếng hổ

Trong rừng chạy loạn đám người bùn

Sóng bụi dưới nắng tan theo gió

Mưa thấm không hoa tản mát rơi

Thế gian khi không còn chỗ đứng


Dù là thần tiên cũng hóa điên.


Tôi thấy rắn xanh, rắn đỏ bò tới hệ thống bài tiết nước tiểu của tôi. Tôi mắc phải căn bệnh rất kỳ quái, cứ cách năm phút tôi lại phải đi vệ sinh một lần, nước tiểu đi ra chỉ có vài giọt, nhưng cứ luôn có cảm giác rất muốn đi tiểu, không đi không được, đây là chứng tiểu rắt, nghĩa là đi tiểu lắt nhắt.


Càng thảm hơn là có lúc cảm thấy rất buồn tiểu, thấy là bụng khá đầy rồi, nhưng khi vào tới toilet thì không thể đi được. Tôi nghĩ tôi có khi cần phải đến bác sĩ khám. Cho dù có đi tiểu được thì vẫn cảm thấy cần phải đi tiểu tiếp ngay lập tức. Không chỉ như vậy, việc đại tiện cũng rất thảm! Tôi cảm thấy buồn nôn, chóng mặt, mất cảm giác thăng bằng.


Đi khám bác sĩ và uống thuốc đều không có hiệu quả. Nghĩ đến những ngày tháng ăn không ra ăn, ngủ không ra ngủ, thực sự tôi sống không bằng chết!


Tôi nhìn thấy hung thần ác quỷ xuất hiện, nhập vào trong người, khiến cho lục phủ ngũ tạng của tôi đều bị sưng viêm và mất cân bằng, các chức năng đều không hoạt động. Tôi thực sự bị hoang tưởng mà nghĩ đến việc chết.


Tôi cảm thấy sống trên đời này, khổ do bệnh là cái khổ số một trong thiên hạ. Thân tâm con người bị mắc bệnh mãn tính hoặc bệnh không thể chữa được, chi bằng chết đi cho xong. Nói thật lòng, nếu như có cách chết nào an lạc một chút, tôi rất sẵn sàng dùng.


Tôi nghĩ đến chuyện tự sát. Rất nhiều người mắc bệnh mãn tính, không thể chịu đựng được sự dày vò của bệnh nữa, tìm cách thoát khỏi giường bệnh mà đi tự sát. Trước đây tôi cho rằng những người tự sát thật là ngốc, bây giờ tôi không nghĩ thế nữa rồi, bởi vì chỉ có người nào từng bị bệnh hành hạ mới hiểu được những người bệnh đó vì sao lại muốn tự sát. Bệnh khổ thực sự là thiên hạ đệ nhất khổ. Làm con người có gì hay. Đời này của tôi cho dù đã cứu được vô số người, nhưng cũng bị người ta làm hại vô số lần. Đã đi đến bước đường này rồi, tôi cảm thấy có đáng để sống tiếp không?


Tôi đấu tranh giữa hai bên sống và chết!

Mặt trời đã quyết lặn về tây

Hồn ta chưa quyết về nơi ấy

Chốn ngộ trên núi không một vật


Xem xem hiếu tử để ai làm.

Thế rồi "một mảnh ý nghĩ của tôi" lại suy luận:

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tự sát rồi!

Hoa Quang Tự Tại Phật tự sát rồi!

Liên Hoa Đồng Tử tự sát rồi!


Điều này trái ngược với những bài giảng pháp của tôi ngày trước. Tôi đã từng nói tự sát chính là giết Phật, thân thể này chính là công cụ để thành Phật, tự sát khác nào giết Phật.


Linh hồn tự sát không thể lên trời, chỉ có luân hồi trong ba đường ác, đồng thời trí huệ suy giảm, cho dù có được tái sinh làm người thì cũng chỉ là người bại liệt.


Tôi là Thầy của người ta, nếu tự sát rồi, thực sự là chuyện siêu nực cười cho Người và Trời! Thế nhưng những nỗi khổ tập trung lại trên người "tôi", tám loại khổ của nhân gian mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói đến, "tôi" đều có hết. "Tôi" thực sự khổ không lời nào nói hết! "Tôi" khổ tới mức không thể chịu đựng được thêm nữa. "Tôi" thực sự không muốn sống nữa.


Nếu như tôi chết thật thì đúng là một trò cười lớn. Người sáng lập Chân Phật Tông, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tự sát chết rồi! Còn có Chân Phật Tông nữa không? Những người thân bên cạnh tôi sẽ rất đau khổ. Những người oán thù tôi sẽ rất vui sướng. Đúng là kẻ khóc người cười!


Khi thầy pháp họ Cố dùng pháp lực để bẻ gãy đầu của tôi, rắn xanh, rắn đỏ len lỏi vào trong não tôi, khiến đầu tôi như muốn nổ tung thành tám mảnh! Ở giữa có một đàn thành, chính là Bổn Tôn của tôi. A Di Đà Như Lai Amitabha đến ngồi an tịnh ở đó. Có thể nói, toàn thân tôi đều đã chết, chỉ còn lại Bổn Tôn của mình, đây chính là kết tinh sau nhiều năm tu hành của tôi. Thầy phép họ Cố muốn giết Bổn Tôn của tôi. Rắn xanh, rắn đỏ muốn ăn sạch Bổn Tôn của tôi.


Lúc này, Bổn tôn của tôi bình tĩnh không chút hoang mang, niệm một câu chú Phản hồi.

"…"

Ánh chớp lóe lên:

Tứ chi bỗng phân tán

Thân này đi về đâu

Hình thể này cũng mất

Tên tuổi cũng bằng không

Dài ngắn nhìn cỏ thu

Thưa dày hỏi gió đêm

Xin anh thử nhìn lên

Ngẫm việc này cho kĩ

Đừng ép người thái quá!


Đừng ép tôi thái quá!


Sau khi Bổn Tôn A Di Đà Phật của tôi niệm xong câu chú Phản Hồi làm xuất hiện một ánh chớp lóe lên, tôi thấy mình đang nằm trên giường không cử động, toàn thân kiệt sức, giống như một người sắp chết. Nhưng ý thức trong tâm tôi thì vẫn rất rõ ràng: Rắn xanh, rắn đỏ trong người đã biến mất, thầy pháp họ Cố cũng không thấy đâu nữa.


Trong hư không chỉ thấy rắn xanh, rắn đỏ đang bám riết lấy cắn thầy pháp họ Cố, hắn cố gắng đánh lại nhưng càng bị rắn xanh rắn đỏ quấn chặt. Những tiếng thét thê lương của thầy pháp họ Cố xé toạc bầu trời đêm.


Các triệu chứng bệnh của tôi chẳng mấy chốc đã biến mất hết. Thân thể mỗi ngày một khỏe trở lại, khoảng một tuần sau tôi đã hoàn toàn bình phục.


Còn về phía Phùng Phương cũng giống như vậy. Đột nhiên tất cả mọi chứng bệnh của cô đều từ từ hết hẳn, người hoàn toàn tỉnh táo. Sau khi chăm sóc lại thân tâm một thời gian, cô đã hồi phục lại thân thể khỏe mạnh.


Cá nhân tôi thì như vừa trải qua một cơn ác mộng! Riêng cơn ác mộng của Phùng Phương thì dài hơn rất nhiều!

Nói về phía thầy pháp họ Cố, hắn bị chính tà thần Khương nghìn năm mà hắn ta thờ cúng quay lại cắn, thoát thân không kịp. Cuối cùng hắn đã bị tâm thần rồi!


Điều tôi muốn nói cho mọi người biết là, chú Phản hồi quá quan trọng, quá bí mật, quá vô thượng, do vậy chỉ có thể truyền một cách bí mật, xin thứ lỗi cho tôi không thể viết câu chú ra đây. Có những sự việc đem lại cho tôi bài học rất lớn. Cần xem trọng những câu chú, cần sống cuộc đời thanh tịnh, cần kính cẩn tu hành. Đó chính là:

Khởi đầu Mật giáo chú ngữ coi trọng

Sống đời thanh tịnh sắc thân trang nghiêm

Tâm không lay động mong muốn cứu đời

Giải được một nghiệp tăng thêm một huệ

Bổn Tôn ở bên luôn được an lành

Độ thế phi thường vẫn sống bình thường

Tinh tấn vững chắc chánh niệm kiền thành


Năm qua tháng đến vô tận vô biên.


Om Ah Hum


(Hết)