Mật giáo 

Đại Viên Mãn

Mật giáo Đại Viên Mãn

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chân truyền, đại công khai pháp vô thượng của Hồng giáo

Văn tập: 056

Xuất bản: 02/1985

Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn

Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam


🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!



Lời mở đầu

Mật tông Tây Tạng đệ nhất pháp

Đây là một cuốn "mật thư" hiếm có khó tìm trên toàn thế giới.


Cuốn sách này nói về sự ra đời của pháp Đại Viên Mãn, pháp số một của Mật tông Tây Tạng. Pháp này không chỉ là bí mật trong bí mật, mà còn là gốc rễ không truyền.


Tôi, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư đã viết ra bí mật không truyền này, đây là một việc hi hữu nhất trong thiên hạ, là việc thù thắng nhất trong thiên hạ, là thời điểm Mật tông hưng khởi, là bồ đề tâm của Kim Cang Thủ Bồ Tát hóa hiện tại ba đời. Nếu như tôi không phải là một vị Kim Cang Bí Mật Chủ thì cũng không dám viết ra pháp vô thượng này.


Tôi viết về "Mật tông Tây Tạng đệ nhất pháp" cũng là có nhân duyên. Bởi vì "Mật tông Tây Tạng đệ nhất pháp" không có một vị Thượng Sư nào dám truyền bừa, dám viết ra, dám tùy ý giảng, bởi vì đây là "bí mật". Nói một cách nghiêm túc, có một số Kim Cương Thượng Sư vẫn không hiểu pháp Đại Viên Mãn, chỉ biết về tên gọi của nó, còn lại, rất nhiều người không biết nghi quỹ và tâm yếu tu pháp. Hôm nay tôi đã viết ra cuốn sách này, có thể lập tức chứng minh truyền thừa của Thượng Sư Lư Thắng Ngạn là chân thực có một không hai, là ấn kí chân truyền của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.

Viết cuốn sách này là có nhân duyên lớn:


Khi tôi ngồi thiền tại Chân Phật Mật Uyển ở thành phố Redmond nước Mỹ, sau khi đã nhập vào tam ma địa, tôi thấy thân thể của chính mình biến thành cao lớn đến mức lấp đầy cả hư không, tay trái của tôi nắm lấy mặt trời (nhật luân), tay phải nắm lấy mặt trăng (nguyệt luân), lúc này hai vầng mặt trăng - mặt trời phóng tỏa quang minh, khắp vũ trụ thập phương thế giới đều được chiếu tới ngập tràn ánh sáng, trở thành thế giới Tịnh thổ Đại quang minh. Việc tay nắm mặt trăng - mặt trời phóng tỏa ánh sáng chiếu khắp thế gian ở đây chính là điềm cực lành về việc sắp có vô thượng pháp xuất thế.


Đúng vào lúc này, tất cả mọi ranh giới hư không đột nhiên tràn ngập âm thanh của trống đại pháp, tiếng trống mang theo pháp ý, tiếng trống đại pháp vang vọng khắp trời đất này bất ngờ đã làm những cây khô trên mặt đất đều đâm chồi nảy lộc, mầm non xanh tươi nhú lên, tất cả rừng cây, hoa cỏ đều hiện lên xanh mướt, khắp nơi hoa nở, quả chín đầy cành. Trong chốc lát hiện lên một cảnh tượng sum suê, tươi tốt, phồn thịnh. Điều này tượng trưng cho việc sau khi đại pháp ra đời, chúng sinh đều được gia trì, có đại pháp rồi thì có thể tu hành, chúng sinh đều có thể nương dựa vào mà đạt được chứng ngộ.


Trong thiền định, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư đã được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ trực tiếp truyền thụ Mật pháp, đồng hóa được cả Đạo - Hiển - Mật. Tất cả kinh điển Hiển giáo, nghi quỹ Mật giáo, tất cả pháp nghĩa cứu cánh, thành tựu vô thượng, Đại Viên Mãn đệ nhất pháp, toàn bộ đều có được khẩu quyết kế thừa từ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Có thể nói, tất cả tam nghiệp kim cang thân - ngữ - ý đều được chuyển thức thành trí [ND: bát thức hữu lậu trở thành tứ trí vô lậu], thậm chí hoàn toàn chứng được Tam thân: Pháp thân, báo thân, ứng thân và trở nên viên mãn. Chính vì có được sự đắc chứng này mà tôi lập tức biết bản thân mình là Nam Mô Pháp Thân Thường Trụ Tam Tế Nhất Như Liên Hoa Đồng Tử, Nam Mô Báo Thân Thanh Tịnh Tướng Hảo Vô Luận Liên Hoa Đồng Tử, Nam Mô Ứng Thân Biến Hiện Yết Ma Vô Lượng Liên Hoa Đồng Tử.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hiện thân trong thiền định của Liên Sinh Thượng Sư, thọ kí quán đảnh cho Liên Sinh Thượng sư, ngoài ra còn nói: "Liên Sinh Kim Cương Thượng Sư sau này sẽ viên chứng Phật thổ của Tây Phương Cực Lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì, tương lai chúng sinh đều nhờ vậy mà được độ hóa. Tướng trang nghiêm của Liên Sinh Thượng Sư chính là phẩm hạnh như một với Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Thuyết pháp không chỉ lợi Người lợi Trời, ngay cả những người học Tiểu thừa cũng đều quy y. Liên Sinh Thượng Sư đánh trống đại pháp, thổi loa đại pháp, chúng sinh được độ nhiều tới mức sau này sẽ được xưng là có một không hai."


Trong thiền định, tôi thấy chính mình tay nắm vầng mặt trời - mặt trăng, trăm hoa đua nở, biết rằng thời cơ chuyển pháp luân của mình đã đến rồi. Hơn nữa, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ còn nói: "Đã đến lúc công bố pháp Đại Viên Mãn với thiên hạ rồi.", thời cơ Mật pháp phổ độ chúng sinh đã đến, không thể giữ nó trong bí mật nữa, nếu vẫn dạy trong bí mật thì chúng sinh sẽ mất đi cơ hội này, sẽ lại đọa lạc, vĩnh viễn khó được độ.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Ngài là bậc Bí Mật Chủ, hãy mau cứu chúng sinh!"

"Chúng sinh vô tri, không có cách nào độ cả." - Tôi đáp.

"Ngài buông xả lời thề nguyện thì thế gian lập tức sẽ bất tịnh." - Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chất vấn.


"Tôi không buông xả lời thề, cần thuyết pháp vô thượng." - Tôi đáp.


Chính vì nhân duyên bản thân là Kim Cang Bí Mật Chủ, nay tôi mới hạ bút viết ra "Mật tông Tây Tạng đệ nhất pháp". Tôi biết, tất cả chư Phật của thập phương thế giới đều đã phóng quang chiếu tới thế gian này, đã chuẩn bị vô lượng vô tận những con thuyền đại pháp. Tôi cũng biết, bởi sự hiển hiện hào quang của Thượng Sư đã kinh động đến toàn bộ thiên, địa, nhân, tam ma, chúng bắt đầu phóng ra "tướng tam độc", kêu gọi những người có tâm đen tối đến để hãm hại Thượng Sư, Thiên Ma lãnh đạo chúng sinh làm điều ác, không màng nhân quả, làm điên đảo trắng đen, đúng sai, chúng sinh Ta Bà nếu không tu hành Chánh pháp thì sẽ bị những lời nói ngon ngọt biểu hiện ra bên ngoài của chúng lôi kéo đi vào địa ngục.


Thiên Ma vô cùng hung ác, tranh đấu sát phạt, quấy nhiễu Chánh pháp, dâm dục bừa bãi, dụ dỗ hành giả Mật tông xa rời chánh hành, lúc này chúng sinh không hiểu, do vậy tâm đều mê loạn, không đi vào con đường đúng đắn. Đạo tràng yên bình sẽ bị gây rối loạn, đại địa chấn động, con người trở nên đầy lo lắng sợ hãi.


Hôm nay, tôi cần bắt đầu viết ra "Mật tông Tây Tạng đệ nhất pháp". Nếu như hôm nay tôi không viết thì rất có lỗi với Liên Hoa Sinh Đại Sĩ - Người đã dạy tôi. Hôm nay nếu tôi không viết thì pháp Đại Viên Mãn này không biết đến năm nào, đời nào mới có thể tái hiện.


Hôm nay tôi đã viết ra, đó là chuyện đại sự của thế gian, là sự việc quan trọng bậc nhất trong nhân gian, là sự thật vĩ đại chưa từng có của Mật tông. Và Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh tôn giả sẽ là ánh sáng cầu vồng xuyên suốt thế giới, vĩnh viễn tiềm tàng đại quang minh bất diệt.


Từ khi tôi ra đời cho đến hôm nay đến nước Mỹ hoằng pháp, tất cả đều nằm trong những bài kệ dự đoán của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.

Trong "Kim Cương Đỉnh Du Già Kinh" có mấy câu như sau:

"Nay con xin quy mệnh

Du già Đại giáo chủ

Khai diễn một Phật thừa

Ba Mật tạng Như Lai

Không gì so sánh bằng

Tối thượng tối đệ nhất

Chỉ Phật Bất Cộng Trí

Tương ứng thành Phật môn

Vì khiến ai giác ngộ

Viên thành pháp thân tịnh

Bạc Già Phạm ba đời

Thành tựu nhờ pháp này

Vì thế các Như Lai


Kính lễ như lý pháp."


Trong cuốn sách "Mật giáo Đại Viên Mãn", có quán đảnh giáo pháp bất khả tư nghì. Nếu có người thừa nguyện muốn đạt thành tựu mà nhận được quán đảnh thì cần phải nghiên cứu học tập kĩ càng, có chỗ nào không hiểu thì cần phải thỉnh giáo một vị Kim Cương Thượng Sư chân chính. Nếu giác ngộ được cánh cửa kho báu thậm thâm bí mật này, nên dạy lại cho người khác, để thu hút được nhiều người hữu duyên hơn nữa, khiến cho người người có thể viên mãn thọ trì pháp Đại Viên Mãn của Mật giáo này. Đây là sự chuyển Pháp luân Thánh giáo viên mãn của giáo chủ Linh Tiên Chân Phật Tông.


Nếu có người tin tưởng rằng pháp duyên như thế này là rất khó gặp được, hiểu sự thù thắng vô thượng của Mật tông Tây Tạng đệ nhất pháp, Liên Sinh Thượng sư là bậc Đại Trì Minh Kim Cương Acharya viên chính, muốn quy y Liên Sinh Thượng sư, có thể chọn ngày mồng 1 hoặc 15 âm lịch, vào sáng sớm, hướng về phía Đông chắp tay lại đảnh lễ ba lạy, niệm 3 lần: "Namo Guru Bei, Thượng Sư Lư Thắng Ngạn chỉ dẫn, Namo Buddha Ye, Namo Dharma Ye, Namo Sangha Ye". Sau đó gửi tên họ, ngày tháng năm sinh, địa chỉ nơi ở, cúng dường tùy ý đến địa chỉ của Liên Sinh Thượng Sư, thì lập tức sẽ nhận được quán đảnh quy y từ xa, như vậy là sẽ có được truyền thừa của Linh Tiên Chân Phật Tông.


(Chú thích: cách phát âm các chú ngữ có trong sách, dựa vào cách phát âm của Thượng Sư làm chuẩn.)

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn

Sheng-yen Lu

17102 NE 40th CT

REDMOND WA 98052

U.S.A

01. Cổ Phật ban sơ nhất lần đầu chuyển Pháp luân


Đại Viên Mãn là pháp số một của Mật tông Tây Tạng, nhưng là do vị nào đưa ra? Điều tôi muốn nói với độc giả là, pháp Đại Viên Mãn không phải do con người truyền xuống, mà là do tâm ấn của Như Lai truyền xuống. Có thể có được pháp Đại Viên Mãn do tâm ấn của Như Lai truyền xuống thì gọi là "truyền thừa tâm ấn Như Lai".


Vị Cổ Phật ban sơ nhất truyền pháp này chính là "Bà Tiên". Chỉ có duy nhất Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư là hiểu được tên gọi "Bà Tiên" này, hiện tại, các Kim Cương Thượng Sư và pháp sư Phật giáo trong khắp thiên hạ không có mấy người biết được tên gọi Bà Tiên của vị Cổ Phật ban sơ nhất, vô cùng ít người biết. Còn Bà Tiên Như Lai chính là đại diện cho Kim Cương Trì tôn giả quyền uy vĩ đại của Hồng giáo Mật tông (Nyingmapa).


Kim Cương Thượng Sư của Nyingmapa không biết Bà Tiên Như Lai, ở đây không phải tôi cố ý dọa cho mọi người sợ, bởi vì vào buổi ban sơ nhất Bà Tiên Như Lai truyền pháp, người có được truyền thừa Như Lai tâm ấn, ngoài Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ra gần như không có một ai khác. Do vậy ít người biết được về truyền thừa Bà Tiên Như Lai tâm ấn đại diện cho vị tôn giả đại quyền uy của pháp Đại Viên Mãn.


Trò chơi thần thông đại bi của Bà Tiên Như Lai có thể nói là không thể đo lường, có thể hiển hiện ở tất cả các cõi Phật của mười phương, thần thông của Bà Tiên Như Lai được xưng là "ngũ thân nhậm vận trì minh", "ngũ thân nhậm vận trì minh" cũng có nghĩa là pháp Đại Viên Mãn.


Như Lai "ngũ thân nhậm vận trì minh" vốn dĩ có thể nhậm vận tại Phật hải hội chúng bất khả tư nghì, vốn dĩ là sự hiển hiện của bản quang vô vi nhậm vận đại bi tự tại nội chứng trí. Pháp Đại Viên Mãn không biểu thị thuyết pháp bằng ý nghĩa câu từ, vốn dĩ pháp Đại Viên Mãn là Bà Tiên Như Lai không thuyết mà trở thành thuyết. Chỉ cần người tiếp nhận Như Lai tâm ấn hiểu được Mật ý trong ý nghĩa ấy, chứng đắc được ý nghĩa không điên đảo, thì công đức của pháp Đại viên mãn lập tức không khác biệt.

Rốt cục Như Lai tâm ấn là gì? Thì ra đó là Bà Tiên Như Lai trong bất khả tư nghì thế giới đã ứng hóa biến hiện ra vô số hóa thân tùy theo các đối tượng, chỉ cần hành giả Mật tông phù hợp với sáu tướng hóa thân Mâu Ni thì chính xác sẽ là người của truyền thừa Đại Viên Mãn Như Lai tâm ấn. Đây chính là truyền thừa Như Lai tâm ấn mà vị Cổ Phật ban sơ nhất Bà Tiên Như Lai lần đầu tiên truyền, người có được truyền thừa này chính là Thích Ca Mâu Ni Phật.

Theo tôi được biết, Bà Tiên Như Lai đại quyền uy tôn giả có công đức như sau:


 Thứ nhất, có đầy đủ mọi đại thần thông từ vô thủy đến nay, gọi là Đại uy đức, du già 37 quảng thích Đại uy lực.


Thứ hai, tên gọi Bà Tiên Như Lai chứa đựng trong hạt giống trí tuệ của tất cả chúng sinh, con người thế gian chưa từng biết đến tên gọi này, tất cả chúng sinh đều không biết, do vậy đây là pháp thân bao hàm toàn bộ vô lượng thế giới, bởi vì không thể biết đến, do vậy mà là vô cùng tận.


Thứ ba, Bà Tiên Như Lai là vô nhiễm tối thắng của tối thắng, do vậy Ngài là đệ nhất thanh tịnh, có thể giải thích là tam luân tịnh, hay còn gọi là tối thâm sâu bí mật thanh tịnh.


Thứ tư, có đầy đủ mười loại trò chơi thần thông. Mười loại trò chơi thần thông này được ghi chép lại trong kinh Hoa Nghiêm, một là Xả thiên thọ (từ chối hưởng phúc ở trên trời), hai là Hiện thụ sinh (thai sinh ở nhân gian), ba là Hiện đồng tử (biến hiện ra Liên Hoa Đồng Tử), bốn là Hiện xuất gia (hành giả giữ giới thanh tịnh), năm là Lạc khổ hạnh (khổ thế nào cũng có thể vui vẻ tiếp nhận), sáu là Hướng bồ đề thụ (dựa vào việc tu pháp để cho con người thấy), bảy là Hiện hàng ma (có đại pháp lực hàng phục tất cả ma), tám là Hiện lạc tịch tĩnh thành Vô Thượng Giác (giác ngộ minh tâm đắc chứng), chín là Chuyển pháp luân (độ chúng sinh), mười là Nhập niết bàn (an trụ trong thế giới tự như). 


Kì thực, mười loại trò chơi thần thông này chính là sự thị hiện ở nhân gian của Thích Ca Mâu Ni Phật, vốn dĩ một trong những hóa thân của Bà Tiên Như Lai chính là Thích Ca Mâu Ni Phật.


Thứ năm, tổng trì của tổng trì, còn gọi là vô tận, và biện tài của biện tài cũng là vô tận.


Thứ sáu, mọi phiền não đều đoạn tận, thành tựu hết thảy mọi loại trí huệ.


Thứ bảy, hết thảy mọi trí huệ, như có như không, như sự như lý, chính là cảnh giới này.


Thứ tám, hàng phục hết thảy ma quỷ, hơn nữa không gặp phải ma.


Thứ chín, chuyển Pháp luân tuyệt diệu, độ chúng Trời - Người.


Thứ mười, mười phương Phật thổ đều thành tựu trang nghiêm.


Công đức của Bà Tiên Như Lai vốn là vô lượng vô tận, hôm nay tôi viết ra mười đại công đức này chẳng qua cũng chỉ là lấy ra một hạt cát từ trong ngọn núi lớn mà thôi, hoặc cũng giống như lấy một giọt nước biển từ trong đại dương mà thuật lại mà thôi, tóm lại, công đức của Bà Tiên Như Lai - vị Cổ Phật ban sơ nhất căn bản là bất khả thuyết, có nói cũng là vô tận.


Phật Thích Ca Mâu Ni đã có được truyền thừa Như Lai tâm ấn của Bà Tiên Như Lai mới có thể thuyết pháp tại thế giới Ta Bà, thuyết giảng các pháp Hiển giáo Mật giáo, chỉ ra ba bộ "Điều Phục, Khế Kinh, Đối Pháp", trên phương diện chân ngôn Mật giáo, thì có "Tác Mật, Hành Mật, Ứng Mật". Tại thế gian, Phật Thích Ca Mâu Ni đã tuyên thuyết 21.000 Điều phục tạng, điều phục đối trị phiền não tham dục. Tuyên thuyết 21.000 Khế kinh tạng, điều phục đối trị phiền não sân hận. Tuyên thuyết 21.000 Đối pháp tạng, điều phục đối trị phiền não ngu si. Sau đó tuyên thuyết 21.000 Đệ tứ tạng, điều phục đối trị phân đều cho tam độc.


Người đầu tiên chuyển Pháp luân của pháp Đại Viên Mãn chính là Bà Tiên Như Lai thần thông nhậm vận, vị Cổ Phật ban sơ nhất. Pháp Đại Viên Mãn ngày nay đã được người Tây Tạng gọi là "Nội tục bộ tam du già", cũng chính là "Nội thừa sinh khởi, viên mãn, Đại Viên Mãn", âm tiếng Phạn là "Maha, Anu, Ati" tam tục bộ.


Liệu Liên Sinh Kim cương Thượng sư có được truyền thừa Bà Tiên Như Lai Tâm Ấn không, tôi xin nói là Có. Bởi vì ở Seattle nước Mỹ, tôi đã ngồi thiền suốt hai năm, tự mình đã hiểu tất cả, tiền kiếp của tôi là Nam Mô Kim Cương Bất Sinh Bất Diệt Liên Hoa Đồng Tử hóa thân hạ sinh tại nhân gian, từ lâu đã thành tựu bậc Chánh Giác, từ lâu đã chứng Ngũ Phật Trí, từ lâu ở Ma Ha Đại Song Liên Trì đã có thế giới lưu ly thanh tịnh của vô thượng Phật thổ siddhi. [ siddhi: thành tựu ]


Tôi tiếp nhận sự phó thác của A Di Đà Phật, vì chúng sinh từ vô thủy đến nay mà hạ sinh ở nhân gian, chúng sinh vũ trụ lưu chuyển trong biển khổ sinh tử, không biết rằng thoát li là quan trọng nhất, vẫn cứ chịu trói buộc trong phiền não, tất cả phải chịu đau khổ của thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh. Tham - sân - si bủa vây lấy thân, lục đạo luân hồi không dừng dứt. Bởi thế mà tôi đã nắm trọng trách Như Lai giao phó, tán dương pháp Vô Thượng Bồ Đề, vận dụng tất cả trí huệ của Ngũ Phật, dùng Mật pháp vô thượng để điều phục chúng sinh, cứu giúp tất cả chúng sinh xuất li khỏi biển khổ, đến với cảnh giới Ma Ha Song Liên Trì ở Tây phương Cực lạc thế giới.


Sự ra đời của tôi từ lâu đã được ghi chép công khai, hơn nữa còn có nhiều thông tin lạ lùng, đợi đến khi tôi già sắp chết, đến lúc viên tịch tôi sẽ nói, hiện tại vẫn chưa thể nói ra, bất khả thuyết.


Hai năm tịnh tọa thiền định tại gác Chân Phật ở Seattle hoàn toàn giúp tôi thâm nhập sâu rộng, tôi tiến nhập vào trong đại định tam muội rất sâu, đã biết hết tất cả quỹ đạo bí mật, có được sự tu học toàn vẹn hoàn hảo, đã nhận Như Lai tâm ấn, được Thích Ca Mâu Ni Phật sờ đầu gia trì, tức thân đắc pháp Đại Viên Mãn, nhận được đại quán đảnh năm dòng chảy trí huệ của Ngũ Phương Phật, được ban Hồng Quán Thánh Miện, trở thành Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Đại Trì Minh Liên Sinh Mật Hành Tôn Giả. Tôi có được ý chỉ bí mật của Mật tông là như vậy.


Đồng thời, trí huệ đã hiện tiền, giống như ăn trái cây vậy, chỉ cần đưa tay hái là được. Hôm nay, đệ tử quy y tôi đều là Pháp vương tử, khẳng định là sẽ thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Người mới học hoặc hành giả tu Mật pháp lâu năm cần phân biệt kĩ càng một vị Kim Cương Thượng Sư chân chính, rồi sau đó nương dựa vào Thầy thì mới có thể đi trên đại đạo bồ đề chân chính, mới tìm được quả vị đắc chứng.

02. Kim Cương Thủ Bồ Tát chuyển pháp luân lần thứ hai


Khi Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật nhập niết bàn tại gốc cây sala, Ngài đã từng thọ kí chân ngôn vô thượng, trong đó có nói: "Chủ của pháp Lăng Già, Kim Cương Thủ hóa hiện." Ý nghĩa ở đây là trong đời tương lai có Kim Cương Thủ Bồ Tát xuất hiện, sẽ phát huy giáo pháp Nội thừa vô thượng, truyền thụ pháp Đại Viên Mãn.


Theo như tôi biết, có ba sự ghi chép chính về việc Kim Cương Thủ Bồ Tát hóa hiện để truyền thụ pháp Đại Viên Mãn như sau:


Có một vị Quốc vương, phát hiện ra trong kho ở trong cung của mình có một cái tráp quý bằng vàng. Bên trong cái tráp vàng này có một cuốn Kinh điển vô cùng bí mật được viết bằng ngọc lưu li hòa tan, trong đó có một bộ "Kim Cương Thủ bổ sở cương ba", trong đó có một bài là "Diện kiến Kim Cương Bồ Tát phẩm". Vị Quốc vương này đã y theo "Diện kiến Kim Cương Bồ Tát phẩm" này mà tu hành, sau khi tu trì liên tục suốt sáu tháng, quả nhiên Kim Cương Thủ Bồ Tát hiện lên trong không trung, gia trì cho Quốc vương, giải thích đủ mọi nội dung và đạo lý trong bộ Kinh. Do vậy, vị Quốc vương này liền tiếp tục hoằng dương pháp Đại Viên Mãn trong vương quốc của ngài. Đây là đoạn ghi chép thứ nhất về việc Kim Cương Thủ Bồ Tát hóa hiện truyền thụ pháp Đại viên mãn.


Đoạn ghi chép thứ hai như sau. Đương thời, có một vị hành giả là Ngũ Cụ Thù Thắng tu hành trên núi Ma La Da, luôn luôn nhớ đến Phật. Trong lòng rất cảm thán, cho rằng Đức Thế Tôn nay đã như mặt trời khuất núi rồi, ánh sáng trên thế gian này từ nay sẽ không còn xuất hiện nữa, ai sẽ đến trừ tận bóng đêm của thế gian đây! Hành giả này ở trên đỉnh núi 23 lần khóc sướt mướt, khóc tới mức sông núi đổi màu, nhật nguyệt không còn sáng nữa.


Thế là, Như Lai mới đích thân đi thỉnh Kim Cương Thủ Bồ Tát. Ngay sau đó, Kim Cương Thủ Bồ Tát liền hiện thân trên đỉnh núi Ma La Da, truyền dạy cho ông toàn bộ "Kinh Mật Ý Tập". Kim Cương Thủ Bồ Tát cũng từng ở phía tây xứ Orgyen hóa thân thành Kim Cương Cực Hỉ để diễn thuyết khẩu quyết Bí Mật Cát Tường và Đại Viên Mãn, và các pháp như Mẫu Nữ Tục. Vì vậy, ở xứ Orgyen này đã tiếp tục hoằng truyền pháp Đại Viên Mãn.


Đoạn ghi chép thứ ba như sau. Pháp Đại Viên Mãn này từng được hoằng truyền ở thiên giới, cũng từng được hoằng dương tại 33 cõi trời, rất nhiều chư thiên đều tu trì pháp Đại Viên Mãn này.


Ban đầu có một chư thiên tên là Hiền Hộ, con cả của chư thiên này tên là Khánh Hỉ Tạng, là con trai của một chư thiên có đại trí huệ. Khánh Hỉ Tạng không thích chơi bời, chỉ thích tu pháp trong sự suy ngẫm tĩnh lặng, hoặc trì tụng Mật điển.


Con trai Khánh Hỉ Tạng của chư thiên từng có rất, rất nhiều điềm báo tốt lành. Thiên đế cũng khen ngợi anh ta rằng: "Hiểu rõ hết Mật nghĩa của chư Phật chính là Pháp Vương tử chân chính, sau này cũng có đại pháp lực để chế ngự thiên ma, thanh tịnh tất cả hắc ám vi tế nhất, ánh sáng của Thánh giáo đã xuất hiện rồi, đã có đại pháp vô năng thắng thì có thể hoàn toàn giải thoát khỏi phiền não của lục đạo luân hồi rồi, đây là có được trí huệ vĩ đại nhất."


Vì những điềm lành như vậy, tam thế Như Lai lại đích thân khuyên thỉnh Kim Cương Thủ Bồ Tát. Kim Cương Thủ Bồ Tát ở trong kim cương quang minh phương đông sinh ra từ Kim Cương Bí Mật Như Lai. Ở trong bảo quang minh phương nam sinh ra từ Kim Cương Bảo Như Lai. Ở trong liên hoa tích tập thế giới phương tây sinh ra từ Kim Cương Liên Hoa Như Lai. Ở trong thanh tịnh thành tựu quang minh phương bắc sinh ra từ Thành Tựu Quang Minh Như Lai. Ở trong Tỳ Lô Giá Nha Như Lai tại trung ương sinh ra từ trong tâm của Tỳ Lô Giá Na Phật. Đây chính là Kim Cương Thủ Bồ Tát hóa sinh từ Ngũ Phật, Kim Cương Thủ Bồ Tát có đầy đủ Ngũ Phật Trí.

Kim Cương Thủ Bồ Tát xuất hiện tại Cung Tôn Thắng tại 33 cõi trời. Lúc này, Thiên Đế và Khánh Hỉ Tạng đem ô lọng, khiên giáp được chế tạo bằng đủ loại vàng bạc châu báu cùng cúng phẩm của cõi trời đến cúng dường Kim Cương Thủ Bồ Tát. Kim Cương Thủ Bồ Tát bèn dựa theo "Vương Quyền Kim Bình Viên Mãn quán đảnh" truyền thụ cho Khánh Hỉ Tạng mười khẩu quyết biến hóa và bảy pháp y tha, ngũ đại khẩu quyết, rất nhiều tục bộ khẩu quyết, trong sát-na diễn thuyết Đại Viên Mãn, lần lượt đều truyền thụ cho Khánh Hỉ Tạng con trai của chư thiên.


Vì thế mà pháp Đại Viên Mãn được hoằng dương tại 33 cõi trời.

Có bài kệ ghi lại việc này như sau:

"Vô nhị diệu trí bí mật nghĩa

Vô tác vô vi bản thành Phật

Đại trung quán đạo là tên gọi


Để đến thuyết giảng cho hội chúng."


Trong cuốn sách "Vô Thượng Mật và Đại Thủ Ấn", chương 26, tôi từng viết một bài về "Kim Cương Thủ Bồ Tát chân ngôn pháp". Trong đoạn ấy tôi đã viết thế này: "Trong chương sách này có ẩn chứa thiên cơ vĩ đại, người hữu duyên sẽ biết, người vô duyên thì không thể biết. Trong chương sách này có ẩn chứa huyền cơ vĩ đại, là đại bí mật của hết thảy Mật pháp, người có thể biết cũng chính là người có phúc phần to lớn như trời."


Tôi giải thích Kim Cương Thủ Bồ Tát như thế này, Kim Cương Thủ Bồ Tát hẳn là Pháp Vương tử số một của tất cả chư Như Lai, là Bồ Đề Tâm của Thập phương tam thế nhất thiết Như Lai, cũng chính là "tăng thượng chủ tể" người nắm giữ mọi bí mật của Như Lai, chính là thị hiện quyền lực của Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ.


Tôi từng nói, khi xưa Thích Ca Mâu Ni Phật thọ kí, hơn nữa người thọ kí tương hợp chính là Kim Cương Thủ Bồ Tát, cũng chính là Kim Cương Thủ Bồ Tát đã có được bí mật nghĩa tối thắng. Xưa kia khi Thế Tôn viên tịch đã nói: "Từ nay về sau, ta sẽ không còn ở nhân gian thị hiện nữa, 28 năm sau, tại 33 cõi trời có Thánh giáo rất thù thắng sẽ ra đời và phát triển, đó là sự hoằng dương của pháp Đại Viên Mãn, tại một góc của Nam Thiệm Bộ Châu ở phương đông cũng có một đất nước sẽ truyền pháp Đại Viên Mãn. Người chủ nhân truyền pháp Lăng Già này chính là hóa hiện của Kim Cương Thủ Bồ Tát."


Pháp Đại Viên Mãn - pháp số một của Mật tông Tây Tạng, nếu là truyền thừa nhận được từ Kim Cương Thủ Bồ Tát chuyển pháp luân lần thứ hai thì được gọi là truyền thừa Trì Minh.


Theo Mật tông Tây Tạng, các vị Tổ sư nhiều đời của phái Nyingmapa được biểu hiện như sau: Đời thứ nhất là A Đạt Nhĩ Mã Phật Adharma Buddha, đời thứ hai là Tỳ Lô Giá Na Phật Vairocana, đời thứ ba là Ngũ Phương Ngũ Kim Cương, đời thứ tư là Thích Ca Mâu Ni Phật Shakyamuni, đời thứ năm là Kim Cương Thủ Bồ Tát Vajrapani, đời thứ sáu là Cách Nãi Bố Đạo Nhĩ Cực Kim Cương, đời thứ bảy là Tạ Nhĩ Tốn Ha Kim Cương, đời thứ tám là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ…


Đời thứ ba trở về trước chính là khi Phật pháp còn chưa đến thế gian, pháp Đại Viên Mãn chính là Như Lai tâm ấn, cũng chính là trò chơi nhậm vận thần thông khi vị Cổ Phật ban sơ nhất là Bà Tiên Như Lai lần đầu chuyển pháp luân. Đến khi Kim Cương Thủ Bồ Tát có được bí mật nghĩa, pháp Đại Viên Mãn được hoằng dương ở Ấn Độ, nói cách khác là trước đời thứ bảy, pháp Đại Viên Mãn chỉ lưu truyền tại Ấn Độ mà thôi.


Đến đời thứ tám, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ mới đến đến Tây Tạng, sáng lập ra Phật giáo Tây Tạng (Lạt Ma giáo), là phái Nyingmapa cổ xưa nhất, phá trừ tập tục xấu của Thần giáo Tây Tạng (Hắc giáo). Do vậy, chương tiếp theo của cuốn sách này được đặt tên là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền pháp Đại Viên Mãn lần thứ ba.


Tôi (Liên Sinh Thượng sư) là người số một hiểu rõ nhất về Kim Cương Thủ Bồ Tát, là một thượng thủ trong số những người giải được Tam Mật. Tôi biết rõ nhất về Kim Cương Thủ Bồ Tát, cũng giống như Kim Cương Tát Đỏa, do vậy tôi cũng có được đại quán đảnh của truyền thừa Trì Minh.

03. Liên Hoa Sinh chuyển pháp luân lần thứ ba


Tại Mỹ, tôi thiền định hơn hai năm, người dạy cho tôi pháp Đại Viên Mãn của Mật giáo chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ thật sự đã hiện thân trong thiền định của tôi, truyền thụ cho tôi các pháp vô thượng, do vậy, trong truyền thừa của phái Nyingmapa, tôi trực tiếp nhận được truyền thừa từ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.


Ở nước Mỹ, tại đạo tràng Linh Tiên Chân Phật Tông có một bức tượng kim thân của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đến từ Tây Tạng, làm bằng đồng, phải bốn người mới có thể nhấc nổi, bức tượng này được chuyển từ Tây Tạng đến Hồng Kông, sau đó lại từ Hồng Kông vận chuyển theo đường biển đến Mỹ. Bức tượng kim thân Liên Hoa Sinh Đại Sĩ này là do một đệ tử ở Hồng Kông tặng.


Chân Phật Mật Uyển của cá nhân tôi cũng có một bức Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, là đệ tử Liên Bái của tôi trông thấy tại một nhà in Mật Tông nên đã thỉnh mua về để tặng cho tôi thờ cúng, cũng làm bằng đồng, cao khoảng một thước. [ ND: khoảng 33cm ] Hai bức Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đều vô cùng trang nghiêm.


Theo Mật tông Tây Tạng, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ được truyền rằng Ngài là ứng hóa thân kim cương tam mật hợp nhất "thân Thích Ca, ngữ Di Đà, tâm Quan Âm". Liên Hoa Sinh Đại Sĩ được sinh ra khoảng 8 năm sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn, vào ngày 10 tháng 7 âm lịch, hóa sinh tại hoa sen ngũ sắc trên biển Đạt Lạt Quách Khiếu tại tây Ấn Độ. Quốc vương của tây Ấn Độ là Ân Trướng Ba Điệt đích thân đi ra biển ôm đứa bé ở trong hoa sen vào, lập làm Thái tử.


Trong "Liên Hoa Sinh Đại Sĩ ứng hóa sử lược" có ghi lại: "Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, sinh tại tây Ấn Độ, phía đông bắc có biển sinh ra nhiều hoa sen, ở giữa có một bông sen to bằng một người ôm, có vương thần ra hái hoa thì trông thấy hoa đã tách ra thành tám cánh, bên trong lộ ra một bé trai, tướng tốt quang minh đang ngồi xếp bằng ngay ngắn." Đó chính là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hóa sinh từ hoa sen.


Theo Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, có ba nhân duyên khiến Ngài hóa thân tại tây Ấn Độ:

Khi ấy, vua Ân Trướng Ba Điệt mới vừa trông thấy Liên Hoa Sinh Đại Sĩ liền hỏi cha mẹ của cậu là ai. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đáp rằng:

"Trí huệ sáng tỏ ấy là Cha.

Từ bi hoan hỉ ấy là Mẹ.

Không sinh - không diệt ấy là Trú Xứ.

Nội - ngoại trong suốt ấy là Tâm.

Không chấp có - không ấy là Cơm.

Hàng phục vọng niệm ấy là Chỗ."


Đây là bài kệ đầu tiên của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.


Trong thời gian Liên Hoa Sinh Đại Sĩ làm Thái tử, có một hôm, Kim Cương Tát Đỏa hiện thân trong cầu vồng ngũ sắc, nói với Thái tử: "Ngài là giáo chủ, không phải chính vương."


Vì vậy, Thái tử mới đi về phương nam, đến A Điên Địa Cát Quýnh ở trong hang động tu hành, nhận quán đảnh của Kim Cương Tát Đỏa, học hết Ngoại bát thành pháp và Nội bát thành pháp, cùng pháp trường thọ bất sinh bất diệt đều đạt thành tựu.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ học thông thạo Ngũ Minh, các loại học vấn đều vẹn toàn.

Đại Sĩ cùng Ti Tả học tập thiên văn, địa lý, âm dương ngũ hành.

Đại Sĩ cùng Trạc Bất học tập y thuật.

Đại Sĩ cùng Cổn Khiết Thất học tập các loại ngôn ngữ Ấn Độ.

Đại Sĩ cùng Cát Mã học tập điêu khắc, dệt nhuộm, hội họa, các loại tài nghệ sửa chữa và chế tạo.

Đại Sĩ cùng thầy Trát Ba Hải Điệt học tập vô thượng Mật thừa.


Đại Sĩ thọ giới ở chỗ của tôn giả Cổn Cao, Trì Địa Phật Mẫu đến tặng cho áo cà sa, thập phương Phật hiện thân gia trì khen ngợi, tôn giả Ca Diếp cạo đầu cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.


Trong quá trình tu hành, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã trải qua nhiều việc, nhiều Thầy, vì mục đích tiện lợi độ chúng sinh, nên cái gì Ngài cũng học, đặc biệt là ở những nơi như Ấn Độ, Nepal, Cổ Tháp Bà, chăm chỉ tu thiền định, đắc Tam Ước Ca. [ ND: Trong cuốn "Khái quát nguồn gốc và sự phát triển giáo phái" có ghi chép: Kim Cương Thừa Mật tông vô thượng du già bộ được phân thành Maha, Anu, Ati Tam Ước Ca, trong đó Ati Tam Ước Ca được gọi là vô thượng Đại Viên Mãn. ] Thậm chí Bí Mật Chủ Kim Cương Thủ, Kim Cương Phật Mẫu, A Đạt Nhĩ Mã chư Phật đều hiện thân, truyền thụ vô thượng Mật ngũ bộ tâm truyền đại pháp, chứng đắc Ngũ Phật trí, đắc pháp thân cứu cánh, tinh thông pháp Đại viên mãn.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đến Tây Tạng độ hóa là để đáp ứng lời mời của Vua Tây Tạng Trisong Detsen. Khi ấy Tây Tạng muốn xây một ngôi chùa, nhưng lần nào cũng gặp ma thần phá hoại. Vua liền hỏi Tịch Hộ đại sư: "Tình hình thế này phải làm sao đây, chẳng lẽ công đức của ta không đủ?"


Tịch Hộ đáp: "Thần là người tu bồ đề tâm, chỉ biết pháp tịch tĩnh, không biết pháp hàng phục. Pháp hàng ma cần có pháp lực uy mãnh thì mới có thể khống chế kẻ địch. Nay Ấn Độ ở xứ Kim Cương Tọa có một người Orgyen tên là Liên Hoa Sinh, là hóa sinh từ hoa sen, biết Ngũ Minh, đắc thành tựu, phá được mọi ma, Bát bộ Thiên long là thị giả của Ngài ấy, tất cả thiên ma trông thấy đều tháo chạy, ngài ấy đã hàng phục rất nhiều ma chúng, nếu thỉnh người này đến thì chắc chắn chư ma sẽ không thể làm hại.


Trên đường đi đến Tây Tạng, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã thu phục tất cả thiên ma ở xứ Tạng và Hộ pháp đại ác của Hắc giáo, tất cả đều an định trong Chánh pháp. Ngài đến Hồng Nhai, tu pháp để trấn áp những chùa viện ở đây, xây dựng Chùa Nhậm Vận. Ba vị đại sư đã khai quang cho Chùa Nhậm Vận là Tịch Hộ Acharya, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Vi Ma La Mật Đa La, ba lần tung hoa, có rất nhiều sự tích thần biến hiếm thấy.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ ở Tây Tạng truyền pháp, chính là để truyền pháp luân "Đại Viên Mãn A Để du già đẳng nội tục bộ tam du già". Truyền thừa này chính là truyền thừa khẩu nhĩ Bổ đặc già ca. [ ND: Bổ đặc già ca (pudgala) nghĩa là chúng sinh thường tới lui qua lại nơi các nẻo luân hồi. ]


Vị Phật thứ hai ở xứ Orgyen, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Ta sẽ đem pháp Đại Viên Mãn, giáo pháp bất khả tư nghì, viết trên giấy vàng của Kinh thư, bí mật chôn vào trong đất - nước - lửa - gió - không khí để truyền pháp Đại Viên Mãn này cho hậu thế, phát nguyện gửi gắm dặn dò, nhờ dấu vết ấy mà ấn chứng. Trong các đời tương lai sẽ có thành tựu giả Liên Hoa Đồng Tử thừa nguyện mà đến, sẽ mở ra cánh cửa kho tàng của ngũ luân cất giấu trong đất - nước - lửa - gió này, để độ hóa càng nhiều hơn những Bổ đặc già ca có nghiệp chướng. Truyền thừa này chính là Truyền thừa khẩu nhĩ Bổ đặc già ca."


Theo tôi được biết, từng có nhiều Thượng Sư nhận được truyền thừa khẩu nhĩ Bổ đặc già ca, trong số những Thượng Sư này, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Mật Hành Tôn Giả là hành giả tiếp theo có được đại trí huệ, vốn là hóa thân chân chính của Liên Hoa Đồng Tử, được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hiện thân gia trì quán đảnh và truyền thụ pháp Đại Viên Mãn, truyền thừa Như Lai tâm ấn, truyền thừa Trì Minh, truyền thừa Khẩu Nhĩ đều được viên mãn thọ trì.


Tôi lĩnh ngộ pháp Đại Viên Mãn, để truyền pháp luân của Thánh giáo viên mãn này, tôi sẽ bộc lộ tất cả trí huệ chánh giác viết ra trong sách, để khắp các cõi Trời đều có thể thấy được ánh sáng của Mật pháp.

Hỉ Kim Cương trong hư không tán thán:

"Tự tánh của tâm đã thành Phật

Tâm không sinh diệt như hư không

Giác ngộ chân nghĩa tính bình đẳng


Buông bỏ mong cầu ấy là tu."


Hôm nay, người đọc được cuốn sách này đúng là có đại pháp duyên, tất cả trí huệ đều nằm ở trong cuốn sách này. Nếu tu trì có thể đạt thành tựu Đại Viên Mãn, đạt đến cảnh giới giác ngộ chính là đại bình đẳng. Đó chính là ngọn nguồn của tất cả trí huệ, cuốn sách này là hào quang vĩ đại của Mật pháp phổ hiện khắp thế gian.

04. Liên Sinh Thượng Sư đại chuyển Pháp luân


Tại Mỹ, mỗi ngày thứ bảy, vào buổi tối lúc 8 giờ, ở chỗ của Liên Sinh Thượng Sư có rất nhiều người đến tham gia pháp hội đồng tu. Sau khi pháp hội đồng tu kết thúc, Liên Sinh Thượng Sư sẽ tranh thủ thuyết pháp. Đối với những người tu Mật tông ở đây mà nói thì bởi vì tu học đúng đắn, có người đã tức thân đạt đại thành tựu, ví dụ như tiến sĩ Chung Lộ Thăng, ông ấy vừa mới quy y Thượng sư có truyền thừa đúng đắn đã lập tức có được chứng nghiệm đại thành tựu.


Vì sao Mật pháp của Liên Sinh Thượng Sư lại là Mật pháp đúng đắn? Bởi vì đó là do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hiển hiện kim thân và chân truyền, đương nhiên Liên Sinh Thượng Sư truyền Mật pháp, phàm những ai học tập cùng Liên Sinh Thượng sư thì đều có được đại thành tựu.


Vì Liên Sinh Thượng Sư được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chân truyền, lại có được sự cho phép của các vị Thượng Sư các đời trong dòng truyền thừa, trong toàn bộ vũ trụ khắp cả mười phương đều công nhận Ngài là Thượng Sư trong số các Thượng Sư, là vị Kim Cương Thượng Sư chân chính. Nhờ có chân truyền của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ mà các đệ tử đều học được chân pháp, một cách tự nhiên, các đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông đều có được tương ứng, điều này hoàn toàn chính xác, không có một chút nào giả dối.


Từ Như Lai tâm ấn của vị Phật nguyên thủy là Bà Tiên Như Lai, đến Trì Minh tâm ấn của Kim Cương Thủ Bồ Tát, đến Khẩu Nhĩ tâm ấn của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, đây chính là truyền thừa liên tục, không gián đoạn. Hôm nay, truyền thừa của Liên Sinh Kim Cương Thượng Sư từ vị Cổ Phật ban sơ nhất đến Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chạm đầu thọ kí, truyền thừa này chính là không gián đoạn, thật sự có sức mạnh gia trì to lớn, là Mật pháp chính xác số một trong thiên hạ, phàm là đệ tử quy y thì đều sẽ có được sức mạnh gia trì của truyền thừa này, có được lực gia trì của Thượng Sư chân truyền.


Trong thời đại ngày nay có đầy rẫy Mật pháp giả và Thượng sư giả. Có người cho rằng đi một chuyến đến Tây Tạng thế là biến thành Thượng sư rồi, có người cho rằng làm chân chạy việc vặt cho mấy ông Phật ở Tây Tạng, học được mấy chiêu thế là biến thành Thượng sư rồi. Thật ra Thượng Sư chân chính phải là sau khi có được truyền thừa Mật pháp đúng đắn thì mọi thứ phải dựa theo sự chỉ dạy của Thượng Sư mà tu học, có được sự khai ngộ đích thực, minh tâm kiến tánh, tự chủ sinh tử, người học Mật như vậy mới có tư cách để xưng là Thượng Sư.


Cá nhân tôi có thể nói như vậy là vì từ đầu tới cuối, tôi tu học Mật pháp đều luôn hoàn thành từng bước, từng bước một. Tôi từ thấp học đến giữa, từ giữa học đến cao, tôi có thể nói rằng tôi không bỏ phí một ngày nào. Tôi đã học toàn bộ Mật pháp, hôm nay mới có tư cách để viết ra pháp Đại Viên Mãn này, tôi từ đầu tới cuối đều hiểu thấu, tôi từ Mật pháp cơ bản học đến Mật pháp số một cao nhất.


Ngày nay, rất nhiều người muốn học Mật tông nhưng không tìm được một vị Thầy chân chính, không tìm được Mật pháp chân chính. Tôi xin nói với các độc giả, trên thế giới này, người có được truyền thừa chân chính chính là Liên Sinh Kim Cương Thượng Sư, có được sức mạnh gia trì của truyền thừa chân chính rồi thì mới có thể khiến người ta tức thân đắc đại thành tựu, mới có thể học Mật pháp chân chính, mới có thể nhận được chỉ đạo đúng đắn và toàn vẹn.


Liên Sinh Thượng Sư sau khi có được sự chân truyền chân chính của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, cũng giống như Đại sư Tsongkhapa của Tây Tạng, đã vô cùng đau lòng khi Chánh pháp lụi bại, đầy rẫy pháp Mật tông giả, đầy rẫy thầy giả, xuyên tạc giáo lý Phật giáo. Thậm chí có một số Thượng sư giả chỉ muốn làm đầy lợi ích của bản thân, không có bồ đề tâm và trí huệ, không những không phát huy được Phật pháp mà còn dùng những lời xằng bậy để hủy diệt Phật pháp. Tôi vì từ bi thương xót sự trầm luân của chúng sinh, không thể không cất lời hiệu triệu, hy vọng có thể vận dụng trí huệ vô thượng của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ để viên mãn tất cả mật nghĩa của tâm yếu Đại thừa - Tiểu thừa, viết ra một thứ tự đúng đắn để tu pháp Mật tông.


Liên Sinh Thượng Sư sáng lập Linh Tiên Chân Phật Tông, hoàn toàn không phải để tự lập nên một tông phái đặc thù riêng biệt, mà là để nêu cao Phật pháp, chư thiện phụng hành, không bài xích những tông phái khác, cũng không loại bỏ những pháp khác, mà là dựa vào phương tiện thiện xảo để xây dựng tất cả Chánh pháp. Linh Tiên Chân Phật Tông này chính là trợ duyên cho Phật pháp, Đạo pháp, thậm chí là bất kì tôn giáo nào.


Tôi biết, trên đời này có rất nhiều người mê muội. Sống chết của con người vô thường và nhanh chóng, bị luân hồi trong lục đạo luân hồi thật sự không phải là chuyện hư cấu, những người tham sân si thì càng khó thoát luân hồi trong tam ác đạo. Mỗi người cần hiểu rõ ý nghĩa của đời người, cần phải biết chán ghét sinh tử luân hồi, đừng để sinh tử tóm lấy, vĩnh viễn chìm nổi, nổi trôi. Do vậy, xuất ly khỏi biển khổ sinh tử là kiến địa chân thực của người tu đạo, mục đích của tu đạo chính là niềm hỉ lạc tuyệt diệt của sự giải thoát Đại Viên Mãn tối thắng. Tôi thường khuyên nhủ chúng sinh rằng cần có được tâm xuất ly, cần phát bồ đề tâm, cần thề nguyện thành Phật, cần chăm chỉ tu pháp, cần học chánh định, cần đoạn trừ tất cả phiền não sinh tử.


Ý nghĩa quan trọng của việc tôi dạy pháp là:

Từ trước khi gặp Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hiển hiện, Liên Sinh Thượng Sư sớm đã nhận quán đảnh của nhiều vị Thượng Sư, cũng đã học tập Mật tông hơn mười năm rồi, Liên Sinh Thượng sư cũng đã tiêu tốn vô số tâm huyết, có thể nói là đã phải chịu vô số đau khổ và những sự tôi luyện rất lớn. Tôi triệt để tiếp nhận các pháp tu trì mới có thể làm cảm động tới Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, khiến Ngài hiện thân truyền thụ Mật pháp, có thể thấy rằng sự chịu đựng đau khổ và tôi luyện là cơ sở để đạt đại thành tựu.


Hôm nay, vào thời đại Chánh pháp suy bại, huệ mạng Phật pháp đang ở trong sự gào rú của cuồng phong này, Liên Sinh Thượng Sư tượng trưng cho sức mạnh trụ cột vững vàng, tượng trưng cho mặt trời của Mật pháp xuất hiện trong màn sương mịt mù, xua tan tất cả bóng đêm, muốn cứu vãn thế giới u ám này cần phải có đại pháp môn này của Liên Sinh Thượng Sư.


Hôm nay, Liên Sinh Thượng Sư đã đạt được quả giác ngộ, tất cả Mật pháp đều đã hoàn toàn hiển minh, viên chứng tất cả các pháp, sau đó truyền tất cả các pháp, đây chính là một Đại Thượng Sư chân chính có đầy đủ mọi phẩm hạnh. Đại truyền thừa chân chính của Thượng Sư lại là chân truyền của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, có những cảm giác vi diệu nhất, có bồ đề tâm kiên cố nhất.


Bánh xe Pháp luân đã bắt đầu chuyển động rồi.


Pháp luân số một của Mật tông Tây Tạng đã bắt đầu chuyển rồi. Pháp Đại Viên Mãn Vô Thượng Mật sẽ phổ hiện khắp thế gian. Đại Viên Mãn là pháp tối cao số một, là pháp đại thù thắng của thù thắng, là quán đảnh tuyệt hảo, tuyệt đối quan trọng và mấu chốt, biểu lộ Không nghĩa, là pháp môn tức thân thành Phật. Mong những người yêu thích và hữu duyên mau chóng nhận quán đảnh quy y, chỉ cần làm theo sự chỉ dạy đúng đắn của Liên Sinh Thượng Sư, nỗ lực tinh tấn, nhất định có thể đạt đến cảnh giới thắng lợi viên mãn, đến được thành tựu Phật quả của Liên Hoa Đồng Tử.


Vì Pháp luân được chuyển bởi Liên Sinh Kim Cương Thượng Sư có đầy đủ trí huệ, đầy đủ phúc đức và truyền thừa tối vô thượng của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, một vị Thượng Sư như vậy là một Thượng Sư thù thắng. Liên Sinh Thượng Sư gia trì cho các đệ tử, các đệ tử ngày ngày tu pháp không gián đoạn, đệ tử như vậy tương lai nhất định sẽ đạt Đại thành tựu, dễ dàng có được Bồ Đề Diệu Quả tức thân thành Phật.


Đại Pháp luân Đại Viên Mãn do Liên Sinh Kim Cương Thượng Sư chuyển vận.


05. Cự Luận và Atisa tôn giả


Có người thấy Liên Sinh Thượng Sư đội mũ vàng, mặc áo vàng, cảm thấy rất mới lạ, cho rằng bởi Liên Sinh Thượng Sư đã có truyền thừa trực tiếp từ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ thì lẽ ra phải thuộc về phái Nyingmapa, vậy thì nên đội mũ đỏ, mặc áo đỏ, chứ sao lại mặc áo vàng, đội mũ vàng. Sự hoài nghi này rất có lý, do vậy trong bài viết này, tôi sẽ kể ra nguồn gốc của nó.


Trước khi Tây Tạng thành lập Phật giáo, có một tôn giáo gọi là Bổn Ba giáo (Hắc giáo Bon), tổ sư là Hiền Nhiễu Di Ba, luôn dùng chú thuật để hiển hiện những việc kì bí, sát sinh hại mệnh, có rất nhiều tín đồ người Tây Tạng. Người có pháp lực lớn thì có thể biến kẻ thù thành động vật, có thuật làm mưa đá, có thuật biến thành ma, có thuật bay trên không, v.v… đủ loại huyễn thuật làm xằng làm bậy.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vào Tây Tạng bèn hàng phục Hắc giáo, điều phục họ trở thành người thân thích, do vậy trong bài Khải Thỉnh Tụng của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ có câu: "Tiêu tan Bổn giáo đầy ám muội". Tôi cũng từng nói, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chính là người đầu tiên phá trừ Hắc giáo, còn tôi là người thứ hai phá trừ Hắc giáo, đây gọi là "thượng hạ cổ kim tương đồng".


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ điều phục chúng ma, diệt trừ Hắc giáo vào khoảng năm 747 sau công nguyên. Vào thời đại của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Tây Tạng hoàn toàn không có sự phân biệt giáo phái, Phật giáo đại hưng thịnh, Ấn Độ có rất nhiều người xuất gia, họ không ngừng tiến vào Tây Tạng, vua Tây Tạng cũng phái Truân Di Tam Bố Trá đi Ấn Độ du học, dịch sách tiếng Ấn Độ sang tiếng Tạng.


Tới tận năm 971 mới phân tách ra Cựu giáo (Nyingmapa) và Tân giáo (Gelugpa), trước năm 971 là thời kì tiền hoằng pháp, sau năm 971 là thời kì hậu hoằng pháp.


Thời kì Cựu giáo, vì Phật pháp hoằng dương rất nhiều, người bình thường không có cách nào tiêu hóa được, hơn nữa Lama Hồng giáo cũng dần dần mắc nhiều sai lầm, trở thành hình thức mê hoặc ngông cuồng. Lúc này, vua Tây Tạng bèn mời vị Đại Đức người Ấn Độ là Atisa tôn giả đến Tây Tạng. Căn cứ theo truyền thuyết Tây Tạng thì Atisa tôn giả là hóa thân của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.


Khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ ở Tây Tạng, Ngài từng nói: "Sau khi Ta đi, Phật pháp Tây Tạng sẽ trở nên xáo trộn, khi ấy nếu có người hiện thân Tỳ Kheo đem ngũ giới thập thiện quy y Tam Bảo, phát bồ đề tâm đến để dạy con người, thì đó chính là hóa thân của Ta."


Atisa tôn giả vào Tây Tạng, quả nhiên đã dùng ngũ giới, thập thiện và khuyên con người phát bồ đề tâm để giáo hóa con người, vì vậy người Tạng công nhận Atisa tôn giả là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hóa thân và trở lại. Atisa tôn giả đương nhiên là một vị Đại Thượng Sư đã đắc chứng, thật ra ngài uyên bác thông tuệ lý luận của hai phái Hiển Mật, pháp Đại Viên Mãn và tất cả Mật pháp ngài đều biết, Atisa tôn giả biết thứ mà Hồng giáo Tây Tạng thiếu mất chính là giới luật, hơn nữa Lama của Hồng giáo lại thích hưởng lạc, mặc sức hưởng thụ thanh sắc, tất cả đều không đúng.


Bởi vậy, sự dạy dỗ của Atisa nhấn mạnh vào ngũ giới, thập thiện, chú trọng giới luật. Ngài đã đem phương diện tư tưởng này viết thành cuốn "Đạo Cự Luận", phân loại tất cả Phật pháp Hiển Mật thành "Tam Sĩ Đạo". Đây chính là sự cống hiến của Atisa tôn giả cho Phật giáo Tây Tạng, các nhân sĩ Phật giáo khi ấy đều kính trọng ngài. Ngài xây dựng tu viện Ganden tại Tây Tạng, người đời sau cũng gọi là phái Ganden.


Theo tôi được biết, phái Ganden là Hồng giáo cải cách, được lãnh đạo bởi Atisa tôn giả, còn Hoàng giáo sau này (Gelugpa) chú trọng giới tỳ kheo và đạo lí Tam Thừa của Hiển giáo, là Đại sư Tsongkhapa người sáng lập Hoàng giáo đã tham khảo và nghiên cứu Đạo Cự Luận của Atisa tôn giả mà viết ra cuốn "Bồ đề đạo thứ đệ quảng lược nhị luận", giải thích phương pháp tu học tam sĩ đạo. Do vậy, Hoàng giáo của Đại sư Tsongkhapa thật ra là bắt chước theo phái Ganden của Atisa tôn giả.


Người hiện đại lẫn lộn hai phái này, cũng có người gọi Hoàng giáo là phái Ganden, có người nói phái Ganden là Hoàng giáo, thật ra phái Ganden chỉ là lấy tên gọi của tu viện Ganden, có sớm hơn cả phái Hoàng giáo của Đại sư Tsongkhapa.


Tiếp theo bàn đến phương diện trang phục. Có người cho rằng trang phục của Hồng giáo là màu đỏ, Bạch giáo là màu trắng, Hoàng giáo là màu vàng, đây chỉ là những lời đồn đại sai lầm. Bởi vì Mật tông Tây Tạng bất luận là giáo phái nào, ai không có địa vị thì đều mặc màu đỏ tía, người có địa vị thì mới mặc màu vàng. Về sự khác biệt của mũ thì chỉ có người của Hoàng giáo đội mũ vàng, còn ba phái khác thì đều đội mũ đỏ. (Ngoài ra mũ Pháp vương mà phái Kagyupa đội lại có màu đen.)

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ muốn tôi mặc áo vàng, đội mũ vàng, đó là có nguyên nhân.


Thứ nhất, các Lama thông thường ở Tây Tạng mặc pháp y màu đỏ tía, mặc đồ màu đỏ có điểm thêm màu vàng kim là cao hơn một bậc. Người có địa vị cao nhất thì mặc đồ màu vàng, do vậy Liên Hoa Sinh Đại Sĩ muốn tôi mặc đồ màu vàng. Đồ màu vàng là mang ý nghĩa cao nhất, biểu thị là tôi trực tiếp kế thừa vinh dự mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ trao cho tôi.


Thứ hai, tôi từng nhận quán đảnh của Hoàng giáo, cũng chính là do Lama Thubten ở cung Ung Hòa truyền pháp cho Thubten Dorje Thượng Sư. Thubten Dorje Thượng Sư truyền pháp cho Thubten Qimo Thượng Sư, và tôi chính là Thubten Qimo Thượng Sư, Thubten Qimo là pháp danh Hoàng giáo của tôi. Do vậy, tôi lại càng có tư cách để đội mũ vàng, mặc áo vàng, đây là một điều rất thật.


Thứ ba, bản thân tôi có truyền thừa Hoàng giáo, nên một cách tự nhiên tôi có thể đội mũ vàng, mặc áo vàng, đặc biệt là tôi có nghiên cứu rất sâu về Đạo Cự Luận của Atisa tôn giả hóa thân của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Mặc dù tôi đã tu Thứ Tự Sinh Viên của Ngũ Đại Kim Cương, nhưng tôi cũng đã tu Thứ Tự Cửu Thừa, đắc Tối Quang Minh Kim Cương Tạng Thừa, đây là pháp Đại Viên Mãn của Phật tánh thừa, Trí huệ thừa - pháp số một của Tây Tạng.


Bốn giáo phái Mật tông Tây Tạng là "Hồng, Hoàng, Bạch, Hoa", sự hình thành nên mỗi phái đều có điểm đặc sắc riêng, nhưng bốn giáo phái này chẳng qua là phương tiện thiện xảo, có thể nói là tùy phương cởi trói. Tôi cho rằng "kiến tu hành quả" [ ND: kiến giải, tu hành, hành vi, kết quả ] là không khác gì nhau, hành giả đạt đến điểm tận cùng thì cũng không còn phân biệt bốn giáo phái nữa. Nói cách khác là, đạt đến Cứu Cánh Địa rồi thì không những bốn giáo phái không tồn tại mà ngay cả Phật pháp cũng không tồn tại nữa.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hiển hiện trong thiền định của tôi (với bài kệ tán thán):

"Sớm đắc thành tựu thậm thâm là Liên Sinh,

Áo vàng mũ vàng được Trời - Người kính ngưỡng!

Như Lai tâm ấn chứng hiện Đại Trì Minh,


Lập tông phái truyền pháp chúng sinh đều lễ kính!"

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói:

"Liên Sinh, công phu nội chứng Đại Viên Mãn là phát lộ thời cơ rồi đó!"

Tôi nói: "Xin nghe lệnh Thầy."

"Nyingma, Galug, Kagyu, Sakya cùng chung một nguồn gốc, không nên có sự phân biệt."


Tôi nói: "Đã biết, đã biết."


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói, pháp Đại Viên Mãn này sớm đã thất truyền ở Ấn Độ. Trong tiếng Ấn Độ gọi là "A Để Ma Ha San Để Du Già (Ati Maha Sandhi)". Tại Tây Tạng cũng ít người biết đến, tại Nepal, tại Tây Khang chỉ có số ít Thượng Sư biết thôi. Ngày nay, muốn có thể tức thân thành Phật, muốn có thể từ Pháp giới nhiếp quy sắc thân, từ sắc thân xuyên vào Pháp giới thì buộc phải có Vô Thượng Mật Đại Viên Mãn. Lư Thắng Ngạn Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Mật Hành Tôn Giả viết ra tâm yếu của pháp Đại Viên Mãn này để cho Phật pháp không diệt vong, chúng sinh nên hoan hỉ cảm thán, đây là pháp duyên khó gặp đó!


06. 18 bộ Đại Viên Mãn pháp


Một hôm, lúc vừa chập tối, tôi đi vào Phật đường, thắp ngọn đèn dầu, châm mấy que hương, thay đồ cúng, tôi làm cúng dường, sau đó ngồi an tịnh trước Phật Bồ Tát, dùng việc điều tiết hơi thở khiến tâm linh dần dần trở nên bình tịnh.


Tất cả đều vô cùng tĩnh lặng, cánh cửa vào Phật đường đóng lại, mặc dù thời tiết lạnh nhưng bên trong Phật đường thì lại ấm áp. Trong Phật đường lặng gió, khói hương lờ lững mềm mại bay lên. Thời khắc này chính là thời khắc mỗi ngày tôi tu luyện, vào lúc này tôi đều nhập vào tam ma địa - kim cương tam muội đại định.

Tôi tiến nhập vào trong tâm của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, thế rồi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đưa tôi bay lên không trung, tất cả mọi thứ đều ở phía dưới chúng tôi, chúng tôi bay đi rất nhanh. Tôi trông thấy dãy Himalaya ở phía trước, tôi trông thấy Lạc Hà, dòng sông ở Lhasa, tôi trông thấy những cung điện rất to lớn, nhưng Liên Hoa Sinh Đại Sĩ không đưa tôi đi vào cung điện mà là đến một nơi là Kim Mộ Tháp bên cạnh một ngôi chùa, thế rồi chúng tôi đi vào trong tháp.


Bên trong tháp hoàn toàn không có ánh sáng lọt vào, là một hang động.

"Ngài đã là một Lama rồi, không chỉ là một Lama mà còn là một vị Đại Lama có thân phận cao quý nhất."

"Tôi không hiểu gì cả, Liên Sư." - Tôi hết sức lo lắng.

"Ngài đã có thể hiểu tất cả mọi thứ rồi, Liên Sinh."

"Tất cả những thứ này không phải là trí tưởng tượng của ngài đâu, một đứa trẻ có trí tưởng tượng phong phú cũng không thể ghi chép lại sâu sắc như vậy. Cuộc đời của ngài chính là truyền kì của thế kỉ này, chỉ là thiên bẩm của ngài khác, trách nhiệm của ngài khác mà thôi." - Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói.

"Sẽ chẳng có ai tin đâu."

"Để đến sau khi Ta truyền thụ cho ngài 18 bộ Đại Viên Mãn pháp thì sẽ có người tin, cho dù là người không tin thì cũng sẽ cảm thấy vô cùng kinh ngạc, cảm thấy không thể hiểu nổi."

"Đây là chủ ý của Liên Sư sao?"


"Không phải là chủ ý, mà là nhân duyên như vậy."


Tôi ở trong hang động ở Kim Mộ Tháp học tập 18 bộ Đại Viên Mãn pháp, do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đích thân quán đảnh cho tôi. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ như thái dương, còn tôi giống như một ngôi sao nhỏ, ngón tay của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ giống như có dòng điện chạy vòng quanh, và lúc quán đảnh thì giống như có luồng điện tinh tế nhất, giống như chớp lóe đi vào các vị trí bộ phận trong thân tôi, tạo thành những luồng khí dao động, thần thức của tôi giống như cơn gió run rẩy trong sự kích động mạnh mẽ.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Về biểu hiện bề ngoài, quán đảnh là một kiểu nghi thức, nhưng quán đảnh đích thực chính là dòng điện, cũng có nghĩa là một sự chấn động, Ta dùng dòng điện đi vào tâm linh của ngài, khiến tâm linh của ngài sản sinh ra chấn động giống như của Ta, đây chính là ý nghĩa của quán đảnh."


Liên Hoa Sinh còn nói với tôi như thế này, kinh thư thật sự của pháp Đại Viên Mãn có 18 bộ, nếu muốn học những pháp này thì phải nhận được quán đảnh 18 bộ kinh. Có người chỉ nhận mỗi quán đảnh Huyễn Hóa Mật Tạng cũng đã cần tới ba ngày. Ngoài ra, quán đảnh Bát dụ cũng cần ba ngày, chỉ riêng giải thích truyền đạt kinh nghiệm cũng phải tiêu tốn hai tuần lễ, và vì thế để quán đảnh toàn bộ 18 bộ kinh thư thì phải cần vài năm. Tôi nghe mà ngẩn người ra không nói nên lời.


Tuy nhiên, khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói và Ngài ấy quán đảnh, ngón tay của Ngài phóng ra nghìn vạn dòng điện đơn lẻ, có nghĩa là quán đảnh 18 bộ pháp Đại Viên Mãn đều nằm cả trong đó, khi phóng ra quán đảnh thì cũng đem một cá thể Lư Thắng Ngạn nhỏ bé phân thành nghìn vạn cá thể nhỏ hơn nữa, như thế nghìn vạn quán đảnh phóng vào nghìn vạn cá thể, và như thế là quán đảnh xong.


Tôi đã tiếp nhận đại quán đảnh nghìn vạn cá thể 18 bộ Đại Viên Mãn pháp của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, thật không ngờ chỉ trong một sát-na đã hoàn thành. Tôi biết pháp số một của Mật tông Tây Tạng là vô thượng pháp của phái Nyingmapa Tây Tạng, đó là một pháp vi diệu và hiếm có nhất, chính là Mật tam thừa Cửu thừa thứ đệ mà phái Nyingmapa truyền, là A Để du già. Đó chính là đại đạo pháp tối thượng tối thâm tối diệu.


18 bộ Đại viên mãn pháp này, ngoài dành riêng cho các Đại Lama của phái Nyingmapa ra thì căn bản là trên thế giới này chẳng thể tìm ra người nào có thể có, đây là mật pháp vô thượng của vị Phật thứ hai xứ Orgyen Ấn Độ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Hôm nay, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ đại mật tâm pháp độc nhất vô nhị cho Lư Thắng Ngạn, đồng thời còn dặn dò cần làm rạng rỡ truyền thống. Một lần độc nhất tôi có được đại quán đảnh 18 bộ pháp, toàn bộ quán đảnh đều đã được thực thi trên người tôi, chỉ dạy kĩ lưỡng cho tôi, đây thật sự là lợi ích pháp cho cả thiên hạ, quả thật khiến tôi cảm động tột bậc.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói rõ bốn tâm yếu:

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói bốn đại tâm yếu này thông suốt 18 bộ Đại Viên Mãn pháp. Hơn nữa, bốn bài giảng tâm yếu này chính là do bản thân Liên Hoa Sinh Đại Sĩ và Trí Huệ Hải Vương Phật Mẫu cùng kết tập lại, sau đó chôn giấu trong năm kho tàng lớn là đất - nước - lửa - gió - không ở khắp trong thập phương vũ trụ, đợi đến lúc gặp người có duyên mở ra các kho tàng thì mới có thể có được pháp bốn đại tâm yếu này.


Ở Tây Tạng đồn rằng có đại sư Vô Cấu Quang ở trong một hang động tại Khâm Phổ, vùng Samye Tây Tạng đã lấy được bốn loại tâm yếu, bởi vậy ông đã tu luyện đạt đại thành tựu. Còn tôi, trong lúc tôi nhập vào kim cương tam muội đại định, tôi đã được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đưa đi, vào trong Kim Mộ Tháp ở Tây Tạng, tất cả đều do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ, đây chẳng phải là được sủng ái mà lo sợ sao, căn bản là chưa từng có việc đại sự hiếm có và kì lạ như vậy!


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy bảo rằng, "triệt thiết" trong tiếng Tạng là "thanh tịnh không", còn "tha cát" trong tiếng Tạng là "nhậm vận hiển". Ở đây chính là câu "sắc bất dị không, không bất dị sắc, cũng tức là không bất dị hiển, hiển bất dị không, không tức là hiển, hiển tức là không" trong Tâm Kinh. Đại Sĩ đã giảng cho tôi tường tận tỉ mỉ toàn bộ về phương diện này.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói rõ rằng một pháp giới chân thực vốn là thanh tịnh bản nhiên, căn bản là chẳng có ma, cũng chẳng có chúng sinh, đó là thế giới ẩn giấu ánh sáng thanh tịnh không, cũng không có chính tà, cảnh giới này là thế giới tâm bất giác. Nhưng vì có sự vọng động của tâm nên mới có nhân quả, có nhân quả thì lại có thiện ác, trở thành có sự phân biệt âm dương, sinh diệt cũng trở thành liên tiếp không ngừng. Vạn tượng cũng biến đổi phức tạp không ngừng. Bởi vậy Không chính là nguồn gốc. Hiển chính là sự thị hiện trong cõi hồng hoang mênh mông. Thành Phật thành Thánh tức là phản vọng quy chân, chuyển thức thành trí, Không - Hiển vô ngại.


Tại Kim Mộ Tháp, tôi đã học ba hạng Thành tựu bồ đề phần, hạng thứ nhất là Khắc kì thủ chứng, hạng thứ hai là Mệnh chung lên ngôi, hạng thứ ba là Trung ấm chuyển thành. Và pháp Đại Viên Mãn là hạng thứ nhất Khắc kì thủ chứng, là thượng pháp tối thượng.


07. Quán đảnh Ngũ trần hi hữu nhất


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từng đưa tôi đến tham quan một đại điện cổ kính. Đại điện cổ kính này rất đẹp, hơn nữa vào lúc ấy, có âm thanh tiếng ốc biển thổi tới, kèn đồng của đại điện cũng gióng lên, rất nhiều rất nhiều Lama Tây Tạng mặc tăng y màu đỏ nâu, nối tiếp nhau đi vào chỗ ngồi. Họ lắc chuông, âm thầm tụng kinh, khói hương trong đại điện ngưng tụ thành màn sương dày đặc. Những tăng nhân ấy đều là người Tây Tạng với nước da đỏ nâu. Trong âm thanh dồn dập Phạn âm này, bầu không khí thật sự là vô cùng thành kính.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ lại đưa tôi vào trong Kim Mộ Tháp, Ngài ban cho tôi một quán đảnh đặc biệt nhất, quán đảnh đó chính là quán đảnh Ngũ trần.


Ngũ trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Bởi vì năm yếu tố này có thể làm ô nhiễm chân lý, do vậy chúng được gọi tên là Ngũ trần. Ngũ trần làm biến đổi ngũ dục. Sắc là chỉ sắc tướng xinh đẹp, thanh là chỉ âm thanh uyển chuyển, hương là chỉ mùi hương thơm tho, vị là chỉ vị giác ngon miệng, xúc là chỉ sự tiếp xúc dễ chịu, chính là năm loại ham muốn chính, khiến nhân tâm khởi lên tham niệm.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chỉ ra rằng, ngũ căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân là sở duyên của cảnh, cũng chính là ngũ cảnh. Trong Tam giới, Dục giới có sắc thanh hương vị xúc, sơ thiền thiên của Sắc giới thì không còn hai cảm giác hương và vị, từ nhị thiền thiên trở lên thì ngũ cảnh đều không còn, chỉ còn mỗi ý thức mà thôi.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ quán đảnh Ngũ trần của pháp Đại Viên Mãn như sau:


Thứ nhất, quán đảnh Sắc - Thượng Sư dùng một miếng thạch anh, bên trong miếng thạch anh có ánh sáng ngũ sắc, bảo đệ tử hai mắt nhìn chăm chú vào miếng thạch anh, khiến cho ánh sáng ngũ sắc biến thành cầu vồng, rồi lại biến cầu vồng thành Đại Quang Minh Tạng, bí mật thành công ở đây là phải đích thân truyền ngay trước mặt. (Ở đây có bí mật rất lớn.)


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói rất rõ ràng rằng quán đảnh Sắc có sử dụng mỹ nữ để thử nghiệm, khi truyền quán đảnh Sắc, mỹ nữ sẽ nhảy múa trước mặt người tu hành, động tác toàn thân nóng bỏng khiêu gợi, còn người tu hành thì mặc dù mắt trông thấy nhưng tâm không thấy, xem sắc tướng của mỹ nữ như hư vô, hoàn toàn hiểu rõ và không động tâm, thậm chí cùng với mỹ nữ ôm ôm ấp ấp nhưng đều có thể không chút động lòng. Đó là quán đảnh Sắc trần.


Tôi biết tượng Phật Mật tông có rất nhiều bức tượng song thân Phật, song thân Kim Cương Minh Vương. Những bức tượng song thân Phật và song thân Kim Cương Minh Vương này, ý tứ hàm súc gốc là trừ bỏ hết quán đảnh Sắc trần của sắc cảnh, chứ không phải là hình ảnh dâm ô. Ở đây là cảnh giới khác nhau do vậy cách nhìn nhận khác nhau, quán đảnh Sắc trần có thể khiến cho nhãn căn thanh tịnh.


Thế nhưng quán đảnh Sắc trần, nếu không có Thượng Sư hướng dẫn thì tuyệt đối không thể làm bừa, không được tùy tiện tìm một mỹ nữ đến múa may trước mặt bạn vì cũng muốn tu quán đảnh đảnh Sắc trần, làm thế thì sẽ trúng chất độc của Mật pháp.


Thứ hai, quán đảnh Thanh - Thượng Sư miệng niệm Phạn chú, tay lắc chuông kim cương, sau đó dùng pháp chỉ gõ vào cái bàn, có tiếng binh binh, pháp chỉ tạo thành bởi gỗ cứng, hàm ý ở đây là thanh trần thanh tịnh.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chỉ ra rằng, có một số Thượng Sư khi làm quán đảnh Thanh thì đầu tiên là phát ra âm thanh đẹp đẽ nhất trên đời cho bạn nghe, tiếp đó lại để cho âm thanh của tiếng nước chảy gột rửa, như vậy tức là biểu thị dòng nước thanh tịnh đã gột sạch hoàn toàn thứ âm nhạc lả lướt, đó là nhĩ căn thanh tịnh.


Thứ ba, quán đảnh Hương - Thượng Sư chuẩn bị hai vật thơm - thối, một cái là hương thơm dị thường, một cái là tanh hôi dị thường, lần lượt để cho đệ tử ngửi, cứ như thế cho đến khi cái thơm không còn thơm nữa, cái thối không còn thối nữa, đã mất đi cảnh giới của hai thứ thơm thối, trở thành tị căn thanh tịnh. Đó là quán đảnh Hương.


Hàm ý của quán đảnh Hương rất sâu sắc, chỉ cần tu hành có được quán đảnh Hương thì sẽ không còn chấp vào thơm thối nữa, đây là tị căn thanh tịnh.


Thứ tư, quán đảnh Vị - Thượng Sư cầm một thứ rất cay (quả ớt), đầu tiên là làm tê lưỡi, sau đó kêu đệ tử nếm trăm vị, trăm vị đều trở thành chẳng có cảm giác gì cả, đó là thiệt căn thanh tịnh.


Thứ năm, quán đảnh Xúc - tay của Thượng Sư cầm hai vật thô và mịn, chạm vào huyệt đạo toàn thân, đồng thời niệm Phạn văn gia trì, đây là quán đảnh Xúc.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ giải thích rằng, pháp song thân ban đầu là sự tu luyện quán đảnh Xúc, vốn là dùng ý niệm để làm, khiến cho thủy hỏa tương giao. Thủy là chỉ bồ đề tâm nguyệt dịch. Hỏa là chỉ chuyết hỏa. Nhưng hữu hình hữu tướng thì tượng trưng cho thân thanh tịnh của quán đảnh Xúc.


Trên phương diện này, rất khó để giải thích rõ ràng, vốn là trình độ của đệ tử chưa tới thì tuyệt đối không thể truyền thụ, bởi vì truyền thụ rồi thì rất có khả năng phản tác dụng. Trước đây Lama của phái Nyingmapa Tây Tạng tu Đại Viên Mãn ngũ trần quán đảnh, dùng quán đảnh sắc và quán đảnh xúc, bèn tìm đến mỹ nữ để ôm ôm ấp ấp, để biểu thị sắc thanh tịnh và xúc thanh tịnh của bản thân, không ngờ sắc không những chẳng thanh tịnh, xúc cũng chẳng thanh tịnh. Tu pháp song thân "Viên đốn khiết chứng, Sắc Không bất nhị, Tự tâm như như" nào có dễ dàng như thế. Ngược lại, lại đi vào địa ngục.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói:

"Thánh nhân song thân phi hữu."

"Phàm nhân song thân thị hữu."

"Thánh nhân song thân phi không."


"Phàm nhân song thân thị không."


Ở đây đây căn cơ của con người khác nhau, đốn ngộ và tiệm ngộ cũng khác nhau, căn hành cũng khác nhau. Đối với pháp song thân và tượng Phật song thân mà nói, nếu người nào hiểu được thì nói là biết, nếu người nào không hiểu thì vẫn là lỗ tai ngu muội, xin mọi người hãy nhận thức rõ bốn câu nói của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: Quán đảnh Ngũ trần là con đường thành Phật của tu hành pháp Đại Viên Mãn, và mỗi hành giả Mật tông muốn tức thân thành Phật thì nhất định cần phải nhận được quán đảnh Ngũ trần thanh tịnh này. Trên phương diện này, sự lĩnh ngộ ở bề ngoài là không đủ, nhất định cần phải có được ngũ đại nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân thật sự thanh tịnh. Tất cả chúng sinh không biết bản thân vốn là ngũ trần tịnh diệu, trái lại, lại hướng ra bên ngoài để cầu đạo giải thoát, đây chính là bỏ gốc lấy ngọn, trèo cây tìm cá, pháp Đại Viên Mãn chính là dẫn dắt sức mạnh của ngũ đại căn này mà thành Phật.

Ngũ căn thô của chúng sinh chính là cảnh giới của chúng sinh.

Ngũ căn vi tế của Phật Bồ Tát chính là cảnh giới của Phật Bồ Tát.


Ngũ căn thanh tịnh vi diệu rồi thì chính là đắc chứng.


Thật ngạc nhiên,  giữa mê và ngộ không ngờ lại được phân biệt như vậy. Ngũ trần tịnh diệu của Phật là ngộ. Ngũ trần thô trược của chúng sinh chính là mê. Khởi điểm của Phật và chúng sinh là giống nhau, chỉ vì mê ngộ mà khác biệt, hơn nữa còn khác biệt rất lớn, xin hãy chú ý nhận thức rõ phương diện này.

Tôi (Hồng Quán Thánh Miện Kim cương Thượng sư) đã có được quán đảnh Ngũ trần, đó là do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đích thân truyền thụ, quả thực là bất khả tư nghì. Tuy nhiên, hôm nay nếu có Thượng Sư thật sự có được pháp này, khi đọc thấy tôi viết chương sách "Quán đảnh Ngũ trần hi hữu nhất" này, nhất định từ nay sẽ tâm phục khẩu phục, bởi vì học pháp Đại Viên Mãn vốn dĩ là lấy quán đảnh Ngũ trần để dẫn dắt, do vậy sẽ biết rõ và thừa nhận rằng Thượng Sư Lư Thắng Ngạn quả nhiên đã có được Đại Viên Mãn tâm yếu, ngay cả các Đại Thượng Sư từng học qua Cát Ma tâm yếu cũng phải cúi rạp mình xuống đất mà tán thán, quả thật là quá hi hữu!


08. Pháp hóa cầu vồng và bảo tọa


Ở trước mặt tôi, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ biến hiện pháp hóa cầu vồng. Thì ra điểm khởi đầu của pháp hóa cầu vồng này là một điểm ở vùng tim. Ánh sáng cầu vồng bảy sắc ấy từ trong tim tuôn trào ra, chuyển động xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, ngoài cùng là màu đỏ, trong cùng là màu lam, ở giữa là xen lẫn các màu vàng, cam, lục. Ánh sáng cầu vồng khi biến hiện pháp hóa cầu vồng này đã bao trùm toàn thân, thật sự là bảy sắc hiếm có!


Tôi chăm chú quan sát Liên Sư biến hóa thành cầu vồng, rồi lại nhìn lên bầu trời, thấy xuất hiện Quan Âm Tứ Thủ, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Phẫn Nộ Kim Cang và Phật Mẫu Diệp Hưng Tha Gia. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ lúc này biến hóa cầu vồng thành nghìn bánh xe ánh sáng, quang minh biến chiếu, tràng phan phướn lọng, báu vật trang nghiêm, ánh sáng cầu vồng của Liên Sư là hào quang xoay tròn phóng tỏa ra từ vùng tim.


Trong khoảng thời gian này, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ cho tôi pháp Tiên nhân tọa, Sư tử tọa, Tượng tọa, Kim sí điểu tọa, Kim cương tọa. Ngoài năm đại tọa pháp này thì Ngài còn dạy tôi các tọa pháp khác nữa, mỗi lần tu tọa pháp đều có thể an trụ trong mạch khiếu khác nhau, bởi vì các mạch khiếu này có liên quan tới sự tuần hoàn chân khí của pháp Đại Viên Mãn.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ giải thích như sau: Chư Phật Bồ Tát thành đạo, vì thành đạo nên có bảo tọa, pháp bảo tọa là pháp tọa của hết thảy Phật Bồ Tát.


Pháp thiên nhân tọa - phân thành hai loại, một loại là thiên y tọa, một loại là thảm len tọa. Thiên y tọa là dùng thiên y để phủ lên ghế ngồi, còn thảm len tọa là dùng sản phẩm dệt len phủ lên ghế ngồi. Tu trì pháp này thì tay ấn lên huyệt mạch ở vùng hông.


Pháp sư tử tọa - cái giường mà Phật Đà ngồi gọi là sư tử tọa, bởi vì sư tử được xem là vua của muôn thú, Phật Đà khi tại thế chiếm vị trí cao nhất tôn quý nhất, do vậy lấy sư tử để so sánh với giường ngồi của Ngài. Nhưng cũng có rất nhiều Phật Bồ Tát dùng sư tử để làm pháp tọa của họ, ví dụ như Đại Nhật Như Lai, Văn Thù Bồ Tát, Pháp Giới Hư Không Tạng Bồ Tát đều dùng sư tử dũng mãnh làm pháp tọa. Rồi Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh cũng lấy bảy con sư tử làm ghế ngồi, mật tu sư tử tọa pháp cần phải dùng tay ấn vào mạch khiếu ở đỉnh đầu.


Tượng tọa pháp - dùng voi để làm bảo tọa pháp, A Súc Phật, Kim Cương Tạng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát đều tu trì tượng tọa pháp mà đạt thành tựu. Tu trì tượng tọa pháp cần an trụ trong mạch khiếu của hơi thở ra vào, như vậy mới có được thành tựu.


Kim sí điểu tọa pháp - trong Mật pháp có Kim sí điểu vương pháp, còn gọi là Ca Lâu La, là tên một loại chim ở Ấn Độ. Loài chim này thường sống trên bốn loại cây đại thụ trên thế giới, thức ăn của nó là rồng, lần lượt được Hư Không Tạng Bồ Tát và Bất Không Thành Tựu Như Lai dùng kim sí điểu tọa pháp làm bảo tọa pháp của các Ngài, mạch khiếu của pháp này là điểm vào cánh tay.


Kim cương tọa pháp - pháp này là tọa pháp khi Phật thành tựu chánh đẳng chánh giác dưới gốc cây bồ đề Bồ Đề Già Da ở nước Ma Kiệt Đà. Các Thượng Sư thông thường cho rằng kim cương tọa là pháp tọa đặc biệt của Phật Thích Ca Mâu Ni, các vị khác đều không thể dùng, còn Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng đã giải thích rõ về mạch khiếu của kim cương tọa pháp, nhưng trong cuốn sách này, xin thứ lỗi cho tôi không thể tiết lộ.


Bảo tọa pháp thường tu nhất là liên hoa tọa. Có pháp hoa sen tám cánh và hoa sen nghìn cánh, chìa khóa thành công của pháp này là mạch khiếu ở phía dưới luân xa rốn, chỗ mà Đạo gia gọi là vị trí đan điền. Tôi tiết lộ một bí mật lớn, vốn dĩ nút thắt của ruột là cánh của hoa sen, ruột của người thế tục không ngờ lại là liên hoa tọa của Phật Bồ Tát.

Tôi viết đến đây, có lẽ vẫn còn có rất nhiều hành giả Mật tông đọc không hiểu, tôi giải thích như sau:


Người tu Mật pháp, muốn có thần túc thông thì chỉ có tu bảo tọa pháp mới có thể đắc được. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hiển hiện, chỉ dạy cho tôi tu bảo tọa pháp, dạy cho tôi tư thế ngồi và tay cần phải đặt vào mạch khiếu thế nào, như thế thì khi nguyên thần xuất - nhập đều có bảo tọa nắm giữ, bởi vì nguyên thần có bảo tọa nắm giữ nên đương nhiên có thể tùy ý ngao du khắp trên trời dưới đất, thập phương Phật quốc đều có thể đến được.


Pháp bảo tọa còn có bàn thạch tọa, điểu thú tọa (bao gồm ngựa, công, trâu, dê, ngỗng, ma), thậm chí lấy núi Tu Di làm bảo tọa.


Pháp hóa hiện bảo tọa của pháp Đại Viên Mãn là Liên Hoa Sinh Đại Sĩ mật truyền cho Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư. Theo lời của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, pháp bảo tọa này, các Kim Cương Thượng Sư trong thiên hạ không có mấy người có thể hiểu được, cũng có nghĩa là ngay cả rất nhiều Hoạt Phật (Rinpoche) căn bản đều không biết. Hôm nay, chính vì Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã truyền pháp bảo tọa, và sau khi tôi có được pháp này, tôi mới biết hóa thân cầu vồng vốn dựa vào pháp bảo tọa làm nền tảng.

Tôi viết ra cách tu pháp liên hoa tọa như sau:


Dùng hoa sen tám cánh để quán tưởng. Dùng hoa sen cắt bằng giấy cúng dường trước Phật đàn, tùy theo sở thích của bản thân mà chọn màu sắc để dâng cúng.


Hai tay an trụ ở đan điền, tức là vị trí dưới rốn bốn đốt ngón tay, lập tức quán tưởng toàn thân mình từ chỗ đỉnh đầu da thịt từ từ phân tách, để lộ ra đầu lâu xương cốt trắng toát, từ đầu đến cổ, từ cổ đến thân, hai tay, hai chân (cách quán tưởng này tương tự như quán bạch cốt). Khi quán tưởng chính mình biến thành một khối xương trắng, ngồi trước mặt Phật Bồ Tát, lúc này lập tức quán tưởng hoa sen giấy màu đỏ bay vào vị trí dưới rốn bốn đốt ngón tay của mình, hoa sen phóng to ra và di chuyển xuống phía dưới, giữ chặt lấy xương trắng của chính mình.

Quán tưởng rõ ràng rành mạch như vậy rồi thì liền sau đó trì chú:


"Om yamalani zuawantieye soha (Om Amarani Jiwantiye Soha)" 108 hoặc 1080 biến.


Trì chú xong, lập tức dùng hơi thở ra vào đi vào đan điền, dùng hơi thở để thổi bùng lên chuyết hỏa, quán tưởng chuyết hỏa thành hoa sen tám cánh màu đỏ, nhập vào tam ma địa hoa sen tám cánh.


Tu thành công pháp bảo tọa hiển hiện rồi thì khi xuất nguyên thần, có pháp tọa giữ nguyên thần lại, ánh sáng mênh mang, hoa nở rực rỡ, lao thẳng đến điểm đến. Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư hôm nay xuất nguyên thần đến những nơi to lớn như rặng tuyết sơn Himalaya, nhanh chóng chỉ trong một hơi thở là đi, trong một hơi thở là về, đến thập phương Phật quốc cũng như thế. Đây chính là dựa vào tu hành pháp bảo tọa hiển hiện, còn nếu không có pháp bảo tọa hiển hiện thì đại bộ phận những người nói rằng có thần túc thông đều là giả!


Nếu có Kim Cương Thượng Sư thật sự đắc được pháp này thì khi đọc được tôi viết về pháp hóa cầu vồng và pháp bảo tọa chắc chắn cũng phải tán thán, thì ra Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư đã đắc được pháp bảo tọa. Pháp bảo tọa này không thể tùy tiện truyền tùy tiện nói, đây đều là những bí mật to lớn đó! Hôm nay, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ pháp Đại Viên Mãn số một của Tây Tạng cho Lư Thắng Ngạn, còn Lư Thắng Ngạn rốt cục có lai lịch ra sao? Liên Hoa Đồng Tử là gì? E rằng không chỉ đơn thuần như vậy đâu!


Tôi dự tính trong tương lai không xa, muốn tìm vài người đệ tử có đủ tư cách để truyền thụ cẩn thận pháp bảo tọa, vì tôi dùng tay để điểm vào mạch khiếu của họ, khiến họ có thể bùng lên ngọn lửa hừng hực, sau đó tụ hỏa thành hình, hóa thành bảo tọa.


Chân Phật Tông toàn thế giới cũng trở thành nơi bảo tọa bay lượn, siêu nhân hiện đại có thể bay tới bay lui, niềm vui vô tận, là đệ nhất pháp, đó chính là thần túc thông.


09. Đại viên mãn "Lập đoạn"


"Triệt tức" trong tiếng Tạng chính là "Lập đoạn", ý nghĩa cũng chính là bản tịnh.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói:


Một người đạt đại giác ngộ thật sự vốn là không nhiễm một hạt bụi, không đến không đi, là hoàn toàn thanh tịnh, đó là pháp thân vốn thanh tịnh, chính là bản tịnh.


Ý nghĩa của bản tịnh không phải là tu Chỉ - Quán", cũng không phải là tu Vô tưởng định, lại càng không phải là Tứ thiền bát định", không phải là Tham thoại đầu của thiền, cũng không phải là "ai là người tham niệm Phật".


Người đạt được bản tịnh chính là Đại Viên Mãn, đứng tách biệt khỏi mọi tình hình chính tà, diện mục bản lai thanh tịnh hoàn toàn hiển hiện bộc lộ ra.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Những điều này các Phật tử đều biết, nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu!"

"Đúng vậy! Phải bắt đầu từ đâu đây?"

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Đó chính là chỗ mà một vị Minh Sư cần truyền dạy, hôm nay, Ta sẽ truyền lại cho ngài."


"A! Tôi hiểu rồi, thì ra đây chính là kiến địa chân thực."


Cuối cùng tôi đã tu đắc "Triệt tức", trong sát-na đã hiểu tự tánh, thập phương Phật quốc sát thổ đều hiện lên trước mắt.

Trong việc này có một vài huyền cơ, tôi giải thích như sau:


Tất cả các pháp nhiễm tịnh, trên nguyên tắc đều là tâm pháp giới vô chướng ngại. Việc này làm sao để lĩnh hội được? Ở đây cần dựa vào trí huệ quan sát. Trí huệ quan sát này là biết tất cả mọi pháp chính là tâm tự tánh của chính mình, sau này thành tựu huệ thân thì càng không phải do người khác, mà là do chính mình tự giác ngộ.


Trong pháp giới vô chướng ngại, tất cả pháp nhiễm tịnh đều từ tâm này mà ra, hơn nữa, toàn bộ mọi thứ không gây chướng ngại lẫn nhau, tất cả mọi căn trần đều là pháp giới vô chướng ngại. Pháp này không lấy tên gọi, nên gọi là "phổ nhãn pháp".


Điểm khởi đầu của việc này là trước tiên phải khởi lên quán tưởng, quán tưởng cho đến khi có hình tướng xuất hiện ở trước mặt, sau đó lại dùng "trí huệ Không" để tịnh trừ sự xuất hiện này, như thế là có thể biến thành đại dụng bất khả tư nghì, có được đại dụng rồi thì trong chốc lát có thể đốn nhập Phật quả, khi đốn nhập Phật quả thì đó chính xác là Lập đoạn "ngôn vong lự tuyệt". [ ND: cắt đứt, ý niệm và lời nói tan biến vào chính nó ]


Pháp "Triệt tức" tu được rồi thì đó là ngôn vong lự tuyệt, tất cả đều sáng tỏ rõ ràng, bất kể là đi đứng ngồi nằm đều ở trong sự uy nghi, thường thấy cảnh giới bất khả tư nghì. Cảnh giới bất khả tư nghì này vốn là bản tính vốn như thế. Loại bỏ được mọi ngu muội thì tất cả đều hiển lộ ra.


Trong giới định huệ, giới ở đây là chấm dứt ác hành, định là cố định tâm một chỗ, huệ là phá vọng chứng chân. Nói một cách đơn giản là, trì giới là thanh tịnh tâm được an, tâm an thì có thể đạt được định, đạt định thì có thể quán chiếu phân minh mà sinh ra trí huệ. Trong giới định huệ, giải thoát tri kiến nói rõ: "Nhất giới, nhì định, tam huệ, tứ giải thoát, ngũ giải thoát tri kiến. Năm điều này gọi là ngũ phần pháp thân. Giới là để phòng thân tránh ác, định khiến tâm không loạn, huệ phá vọng chứng chân, giải thoát là rời xa trói buộc và chứng đắc niết bàn, giải thoát tri kiến tức là trí huệ khởi lên từ niết bàn." Tam học này chính là tam vô lậu học.


Khi tôi đắc được "Triệt tức", lập tức tôi nhập vào thế giới Vô Lượng Quang Minh, thật sự không thể tưởng tượng được, Tôi có thể phân biệt được 12 ánh sáng, 12 ánh sáng này chính là: "Vô lượng quang, vô biên quang, vô ngại quang, vô đối quang, diễm vương quang, thanh tịnh quang, hoan hỉ quang, trí huệ quang, bất đoạn quang, nan tư quang, vô xứng quang, siêu nhật nguyệt quang."

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ giảng giải cho tôi như sau:


Vô lượng quang biểu thị tính vô thời gian của "Lập đoạn", vô biên quang biểu thị tính vô không gian của "Lập đoạn", vô ngại quang là tổng hợp của vô lượng vô biên, vô đối quang là không có tướng đối lập, còn diễm vương quang biểu thị chân lý tuyệt đối của "Lập đoạn", thanh tịnh quang biểu thị "Lập đoạn" vô tham, hoan hỉ quang biểu thị "Lập đoạn" vô sân, trí huệ quang biểu thị "Lập đoạn" vô si, bất đoạn quang biểu thị sự vĩnh hằng của "Lập đoạn", nan tư quang và vô xứng quang biểu thị địa bất động của "Lập đoạn", siêu nhật nguyệt quang biểu thị sự siêu thắng của "Lập đoạn".


Trong sát-na, tôi thấy mình ngồi trên tòa hoa sen, còn xung quanh tòa hoa sen của mình cũng có nghìn nghìn vạn vạn các tòa hoa sen khác. Tôi nhìn những tòa hoa sen ở xung quanh, thì ra cũng là mình ngồi ở đó. A! Thì ra là mỗi tòa sen có một ta, đó chẳng phải là có nghìn nghìn vạn vạn Liên Hoa Đồng Tử trong chốc lát đã thành tựu Phật đạo, giống như Liên Hoa Đồng Tử có trăm nghìn triệu thân, giờ đây trăm nghìn triệu thân Liên Hoa Đồng Tử, mỗi thân đi tiếp dẫn chúng sinh nhiều như vi trần.


Tôi thấy nhật nguyệt ở trong tòa hoa sen của tôi, núi Tu Di cũng ở trong tòa sen của tôi, Tứ thiên hạ, Tứ thiên vương, 33 Thiên, Dạ ma thiên, Đâu suất thiên, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại thiên, Phạm thế thiên, v.v… tất cả đều ở trong tòa sen của tôi. Tam thiên đại thiên thế giới viên quang quả nhiên đều ở trong tòa sen của tôi, và tòa sen này quả thật là vô lượng vô biên.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Thành rồi."


Tôi đã hiểu rõ ràng rồi, đây chính là sự bất khả tư nghì to lớn của pháp giới vô ngại. Hôm nay cuối cùng tôi đã hiểu, sự tức thân thành Phật của chư Phật chỉ có các vị Phật với nhau mới hiểu, ngay cả Bồ Tát và Thánh giả La Hán cũng không chắc có thể thông đạt. Do vậy, Mật giáo Đại Viên Mãn vốn là Phật - Phật tương truyền chứ không truyền sự giảng giải đi nơi khác. Người thượng thánh mới có thể học được pháp Đại Viên Mãn, người bình thường chỉ có thể học Hiển pháp. "Bất khả thuyết" của Phật Thích Ca Mâu Ni thì ra là chỉ điều này.


Trên phương diện tu trì "Lập đoạn", đầu tiên cần có giữ ý niệm rằng trí huệ cũng không phải là đến từ bên ngoài, mà đây chính là "trí huệ bồ đề bát nhã, thế nhân vốn tự có sẵn", người người đều có Phật tánh, chúng sinh vốn dĩ là Phật, đương nhiên trí huệ cũng từ tự tâm mà ra. Phật từng dạy A Nan: "Hãy tự thắp đuốc, chớ không phải là người khác thắp", quy y kì thực cũng là tự quy y.


Một người khi đã ngộ được "Lập đoạn" thì đã chứng tỏ được "tự tâm quang minh", quang minh một khi xuất hiện thì có thể hàm chứa toàn bộ đại thiên thế giới, toàn bộ vũ trụ, cái tôi cá nhân nhỏ bé hoàn toàn dung nhập vào trong cái vô ngã, cùng dung nhập và kết hợp thành một thể.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Nay ta truyền cho ngài "triệt tức", tất nhiên là có nhân duyên."

"Thỉnh Đại Sĩ khai thị!"


"Đó là muốn mượn ngòi bút của Liên Sinh Thượng Sư để thị đạo kiến tánh. Đây là Trí Độ Bồ Tát Mẫu, xem phương tiện là cha, dùng vô số phương tiện để khai thị cho chúng sinh."


"Phổ nhãn vô ngại pháp giới quán pháp", lại cộng thêm giới định huệ tam học, liên tục cho đến khi đạt đến ngôn vong lự đoạn, khi tự tâm quang minh xuất hiện, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới thì chính là lúc đã tu trì thành tựu"triệt tức". Pháp bí mật tới ngày hôm nay như vậy coi như là có thể tìm thấy lại được dòng truyền từ xa xưa, hôm nay nếu như tôi không viết ra thì ai sẽ viết ra đây?


Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư giáo chủ của Linh Tiên Chân Phật Tông giải thích rõ "phổ nhãn tam học", trong đó cũng có bộ phận bí mật không thể nói ra, cần phải đích thân truyền thụ. Chúng sinh nhìn ra một vị Kim Cương Thượng Sư chân chính thì đích xác ấy là chỗ dựa của chúng sinh.


10. Đại viên mãn "Nhậm vận"


"Thoát cát" tiếng Tây Tạng có nghĩa là "Nhậm vận".


Một hành giả Mật tông đắc được Phật tánh kim cương, hiển hiện quang minh, từ từ thân hòa tan vào pháp giới, thân hòa tan vào Pháp giới này chính là "Nhậm vận".


Khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hướng dẫn cho tôi về "Nhậm vận" đã từng dùng sự biến hóa để chỉ cho tôi thấy. Đại Sĩ đứng trước mặt tôi, tay vung một cái, bên trái, bên phải mỗi bên đều xuất hiện một vị Đại Sĩ, tổng cộng là có ba vị Đại Sĩ. Ba vị Đại Sĩ lại vung tay một cái ở phía trước và sau, trước mặt ba vị Đại Sĩ ban đầu lại xuất hiện thêm ba vị Đại Sĩ nữa, sau lưng ba vị Đại Sĩ ban đầu lại xuất hiện thêm ba vị Đại Sĩ nữa. Trong chốc lát cả bầu trời đều đầy kín Liên Hoa Sinh Đại Sĩ.


Tình huống này khiến tôi nghĩ đến Tôn Hành Giả trong Tây Du Kí. Tôn Hành Giả lấy một nhúm lông khỉ, thổi một hơi khí, mỗi chiếc lông liền biến thành một Tôn Hành Giả, hình dáng cử chỉ đều giống hệt Tôn Hành Giả nguyên gốc, hơn nữa vẫn có thể nhậm hành, làm những việc độc lập.


Thật ra, "Nhậm vận" chính là "hóa thân bên ngoài thân" của Đạo gia. Nhưng quá trình tu hành "Nhậm vận" kì thực là từ "triệt tức" mà ra, thân từ từ hòa tan vào Pháp giới. Tôi lấy một so sánh, ví dụ chúng ta thường dùng cát để cho vào bình, nhưng miệng bình lại rất nhỏ, chỉ có thể để một hạt cát đi qua thôi. Đây chính là cái đồng hồ cát đo thời gian, lộn ngược bình lại, hạt cát nhỏ từ đỉnh chảy xuống, chảy vào bên kia. Tình huống này tượng trưng cho thân từ từ hòa tan vào Pháp giới.


Đến khi thân hòa tan vào Pháp giới rồi thì sẽ biến thành "nhậm vận đốn siêu". Pháp môn nhậm vận hóa thân bên ngoài thân rất khó dùng trí tưởng tượng của người bình thường để tưởng tượng ra, pháp môn này không phải do chân sư truyền thụ thì không thể nhận thức và hiểu rõ được. Do vậy, nhậm vận hóa thân bên ngoài thân này căn bản là không thể nói ra, nói ra sẽ khiến người ta châm biếm phỉ báng.


Bởi thế, kinh Kim Cang có một câu như thế này: "Như Lai nói cho người phát tâm Đại thừa, vì người phát tâm tối thượng thừa mà nói", đại pháp nhậm vận này, người chưa có nhân duyên đủ chín thì căn bản là không có cách nào hiểu nổi, cũng là điều bất khả thuyết.


Trong một đêm, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư cùng lúc nhập vào trong mơ của rất nhiều đệ tử, mà các đệ tử này lại sống ở khắp nơi trên thế giới, có người ở Brazil, có người ở Đông Nam Á, có người ở châu Âu, có người ở Canada, đây là nhậm vận một thân phân thành nhiều thân, đây gọi là pháp môn nhậm vận của Đại Viên Mãn.


Khi tôi viết đến đây, trong lòng tôi cảm thấy tôi nói như vậy, không biết mọi người có tin hay không? Nhưng Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã thật sự nói với tôi rằng: "Liên Sinh, viết ra những cuốn sách này chính là mục đích sống của Ngài, Ngài sống ở thế gian, sinh tồn tại thế gian, lí do duy nhất chính là để viết ra, truyền bá hoàn toàn pháp bí mật. Thế nhân có thể sẽ chế giễu Ngài, đả kích Ngài, thậm chí nói là Ngài lừa đảo, nói Ngài là thần côn, Ngài sẽ phải chịu ma nạn rất lớn, thế nhưng đừng nản lòng, nhiệm vụ độ thế mới chỉ vừa bắt đầu thôi, một vị Hoạt Phật chân chính phải có khả năng chịu đựng được tất cả."

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói:


"Nhậm vận là xuất hiện dựa trên tần số rung động chung, cần biết rằng, tần số của rung động giống như bức xạ của tim, chỉ cần cùng tần số giao tiếp với một người khác thuộc về bình diện tiếp nhận, người đó có thể cảm nhận được sự tồn tại của Ngài. Bởi vì tần số của hành giả Mật tông rất rộng, khi bao trùm toàn bộ không gian trái đất, người trong thiên hạ, rất nhiều người đồng thời nhận được tần số của Ngài, đều có thể đồng thời mơ thấy Ngài."

Nghìn sông có nước, sẽ có nghìn trăng trên sông.

Hàng chục nghìn máy thu thanh có thể nhận các chương trình phát sóng từ cùng một đài phát thanh.

Đây chỉ là cách giải thích ở một lớp bề ngoài mà thôi.


Thì ra bên trong còn có một lớp giải thích sâu hơn nữa, khi tần số rung động kết tinh với các hạt vật chất nhỏ thì có thể tạo thành sinh vật có hình có tượng. Pháp nhậm vận sẽ sản sinh các tần số rung động, tần số này sẽ kết tinh với các hạt vật chất siêu nhỏ, tạo ra một hình tượng mới, như vậy là có thể hiển hiện. Điều này đã giải thích rõ bí mật về sự ra đời của nhân loại và đủ loại luân hồi, pháp đoạt xá của hành giả Mật tông và thừa nguyện lại đến của Phật Bồ Tát.


Tôi, Lư Thắng Ngạn chính là tần số của Liên Hoa Đồng Tử phóng xạ ra, kết tinh với các hạt vật chất mà sinh ra. Đó là nhậm vận của Liên Hoa Đồng Tử, tôi vì thế giới này mà đến, trên thực tế là vì hoằng dương Phật pháp chân chính mà đến, những tai họa ở trước mắt tôi sẽ luôn là nhiều vô số, đó là ma kiếp trùng trùng, nhưng càng là ma kiếp trùng trùng thì tinh thần của tôi lại càng siêu tự nhiên, càng siêu phàm.


11. Đại Viên Mãn "Quán tinh"


Khi Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, thành bậc Chánh Đẳng Chính Giác, có một đoạn ghi chép như sau: Thái tử Siddhartha [Tất Đạt Đa ]  khi ấy ngồi dưới cây bồ đề, dụng tâm cầu giải thoát, có dụng tâm từ "dục lậu" đến cầu giải thoát, cũng dụng tâm từ "hữu lậu" đến cầu giải thoát, lại càng dụng tâm từ "vô minh lậu" đến cầu giải thoát. Dụng tâm như vậy đến khi đến được cảnh giới giải thoát chân chính thì từ từ thân hòa tan vào Pháp giới, lập tức đạt được trí huệ giải thoát.


Thái tử Siddhartha biết rằng mình đã hoàn toàn hiểu rõ về cuộc đời này rồi, nhiệm vụ của kiếp này cũng đã rõ rồi, ngọn cờ Đại Pháp của Phật giáo cần được dựng lên trên thế giới này, đến nay tất cả đã thành rồi, sau khi đắc được trí huệ giải thoát thì từ nay sẽ không còn chuyển thế luân hồi nữa.


Chính vào lúc ấy, khi 3/4 buổi đêm đã trôi qua, đến phần tư cuối cùng của buổi đêm, ở phương đông xuất hiện một ngôi sao sáng, Thái tử Siddhartha lúc này nhìn thấy sao sáng trong đêm, lập tức nảy sinh tri kiến, ngôi sao sáng tỏ, tâm quang trong trẻo, trong sát-na đã đắc được A nậu đa la tam miểu tam bồ đề. Vào lúc Thái tử Siddhartha khai ngộ, buổi đêm vẫn còn tĩnh mịch, tất cả chúng sinh vẫn đang chìm trong giấc ngủ, còn chưa tỉnh giấc.

Thái tử Siddhartha nói bài kệ:

"Đêm dài bốn phần đã quá ba,

Còn một phần cuối hiện sao sáng

Chúng sinh chưa dậy, chưa làm việc

Là lúc Đại Thánh Vô Thượng Tôn

Đã diệt mọi khổ đắc Bồ Đề,

Hết thảy trí huệ của thế gian

Trước Phật Nhiên Đăng đã thọ kí,


Thích Ca Mâu Ni ấy là tên."


Vào lúc ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni đã đắc trí huệ giải thoát, tất cả thiên cung, ma cung, thiên tiên và chúng sinh giới đều xuất hiện cảnh giới đại quang minh, ngay cả núi Thiết Vy ở địa ngục cũng sáng bừng. Uy lực thành Phật ấy khiến toàn bộ vũ trụ trên dưới thập phương đều khai sáng, thậm chí toàn bộ cây trên thế giới chỉ trong một sát-na đều ra hoa kết quả, trong hư không hoàn toàn thanh tịnh, mọi phương đều trong vắt và hiển hiện lên thật rõ ràng.


Sau khi tôi đọc xong đoạn ghi chép viết về "thành tựu chánh đẳng chính giác" này, trong lòng tôi xúc động vô hạn. Sau khi Phật Thích Ca ngộ đạo, bánh xe pháp của Phật giáo nhờ trí huệ của Ngài đã khai mở ra tám vạn bốn nghìn pháp môn, và số người tiếp nhận được sự chỉ đạo của tư tưởng Phật giáo không thể nào ước tính được. Phật Thích Ca Mâu Ni lãnh đạo thế nhân hướng đến cảnh giới chí thiện, quả thật là đại công đức, đại trí huệ không gì sánh bằng. Trí huệ này thật sự là trí huệ đại bồ đề bát nhã, trí huệ đại bồ đề bát nhã này còn cần phải có người hiền tiếp tục phát huy.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói với tôi: "Phật Thích Ca Mâu Ni trong đêm tối thấy sao sáng mà kiến tánh thành Phật. Người đời nghĩ rằng nhìn thấy một ngôi sao ở phương đông, không ngờ giữa đêm nhìn thấy sao sáng mà lại có thể ngộ đạo, thế thì hành giả Mật tông ai ai cũng có thể vào lúc tảng sáng, là lúc sau ba phần tư của buổi đêm, đi nhìn ngôi sao ở phương đông này, mọi người sau khi nhìn thấy ngôi sao ở phương đông này rồi thì chẳng phải sẽ thành Phật hết sao!"


"Đương nhiên không phải." - Tôi đáp.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy tôi như sau:


Pháp Đại viên mãn chỉ ra rằng, ngôi sao phương đông mà Thái tử Siddhartha nhìn thấy là thiên tinh ở trong chính thân mình, hơn nữa thiên tinh này chính là ánh sáng, cần biết rằng người giác ngộ sẽ phát sinh trí huệ giống như nhìn thấy sao trời vậy, đó mới là sự ngộ đạo chân chính. Sao trời mà Phật Thích Ca Mâu Ni khi ấy nhìn thấy cũng là ngôi sao trí huệ trong chính bản thân Ngài, nhưng e rằng nói ra thế nhân cũng không hiểu, chỉ có tạm nói là ngôi sao phương đông mà thôi!


Trong sự đắc chứng pháp Đại Viên Mãn ngôi sao này là "một pháp giới thật, không hiển lộ ra thì cũng vẫn sáng". Ngôi sao trời này là đã nhìn thấy rồi thì vĩnh viễn sáng ngời, sẽ không bao giờ bất ngờ tiêu biến mất.


Muốn chứng minh ngôi sao phương đông mà Thái tử Siddhartha đã nhìn thấy chính là bản tánh của chính mình, điều này không khó, bởi vì Thái tử Siddhartha trước khi muốn nhìn thấy sao trời thì trong khi tu trì pháp Đại Viên Mãn, đầu tiên phải "sinh nhãn sinh trí sinh ý", rồi từ đây mới "sinh minh sinh quang sinh huệ". Như vậy là Thái tử Siddhartha đã có được định tâm, thanh tịnh tâm, vô cấu tâm, vô phiền não tâm, nhu nhuyễn tâm.


Bởi vì đã có được định tâm tịch tĩnh, thế nên thanh tịnh, thế nên vô cấu, thế nên vô phiền não, thế nên nhu nhuyễn. Và bởi vì thật sự biết vô minh, rồi tập hợp vô minh, rồi diệt vô minh, vô minh diệt hết thì sẽ thành đạo, và thế là sao trời liền xuất hiện.


Phật Thích Ca Mâu Ni giữa đêm nhìn thấy sao sáng mà thành đạo, một số pháp sư trên đời đều cho rằng, quả nhiên vào lúc trời sắp sáng, bầu trời đêm ở phương đông mọc lên một ngôi sao, thế là Phật Thích Ca Mâu Ni lập tức đốn ngộ mà thành  Phật. Trên thực tế, khi Phật Thích Ca Mâu Ni còn chưa ngộ đạo, từ lâu đã nhập vào tịch định, sao trời mà Ngài nhìn thấy là huệ quang, đó là đại thiên tinh "sinh minh - sinh quang - sinh huệ", chứ không phải là một đốm sao nhỏ treo ở trên không trung.


Cảnh giới "Quán tinh" của pháp Đại Viên Mãn vốn dĩ ai ai cũng có, nhưng trong quá tình tu trì, phương diện công đức còn có nông sâu, phương diện trải nghiệm thì có dày mỏng, phương diện chứng ngộ thì có cao thấp, vì thế có người vẫn còn vi trần, có người thì quang minh trong trẻo.

Tôi thuật lại ngắn gọn về Đại Viên Mãn "Quán tinh" mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chỉ dạy như sau:

Vô minh là phiền não của kiếp quá khứ từ vô thủy, vốn là sự tổng hợp của ngu si cùng mê muội, mờ mịt. Vô minh dẫn tới hành động mù quáng, chúng sinh bị luân hồi trong thế gian, do vậy chính là gốc rễ của sinh tử. Cần phải phá bỏ vô minh thì thiên tinh sẽ hiển lộ ra.


Người tu trì dựa vào pháp "đại than thi", [ ND: thi trong từ thi thể, pháp này dựa vào quán tưởng thi thể nằm trải ra ] nằm ngửa trên giường, trước tiên quán tưởng đến ánh sáng của thiên tinh nằm tại vị trí thiên tâm, sau đó thiên tinh này vận chuyển đến mắt, khiến cho "sinh nhãn", tiếp đó lại di chuyển đến tim, khiến cho "sinh quang", tiếp đó lại di chuyển đến đan điền, khiến cho "sinh ý". Thiên tâm, tâm, đan điền này chính là ba điểm tập trung của người vận khí, ba vị trí thiên tinh tụ quang di động.


Hành giả Mật tông chỉ cần tập trung tinh thần, giữ ý niệm về thiên tinh ở ba nơi thiên tâm, tâm, đan điền. Sau khi làm được điều này hồi lâu, sắc thân và pháp giới hòa thành một. Pháp này cũng có thể sử dụng tư thế ngồi kiết già, tinh thần tập trung, nhẹ nhàng dùng tâm trí để giữ ý niệm về ánh sáng của thiên tinh đang vận chuyển. (Bên trong cũng có rất nhiều khẩu quyết, nhưng không tiện tiết lộ hết ra trong sách.)


Hôm nay, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư đã hoàn toàn thấy rõ thập phương Phật thổ, điều này không phải là chỉ nói suông, mà hôm nay sách tôi viết ra không phải viết vì bản thân, mà là viết vì chúng sinh, giữa Phật và chúng sinh vốn không có gì khác biệt, chỉ có sự phân biệt mê-ngộ mà thôi.


Tôi nói để mọi người biết! Mặc dù khi tu pháp thiên tinh này, đầu tiên sẽ hiển lộ ở bên trong, nhưng vốn không phải ở bên trong, cũng không phải hiện lên bên ngoài, lại càng không phải là ở giữa, chỉ cần tu đến một điểm lí tưởng vừa khéo thì sẽ hoàn toàn rõ ràng. Hãy còn quá sớm để giải thích trước!


Pháp Đại Viên Mãn là pháp số một của Mật tông Tây Tạng, vì vậy Sakya Chứng Không Thượng Sư từng nói thế này: "Đại Viên Mãn của Nyingmapa - Ati du già không phải là một pháp tu đơn giản bình thường, căn bản đây chính là Trí huệ thừa, không phải là người có đại trí huệ thì không có cách nào tu được, không có nơi bắt đầu, bởi vì đây là Phật tánh thừa!"


12. Đại viên mãn "Cầu vồng pháp thân biến"


Phần lớn hành giả Mật tông đều biết, thành tựu chí cao tột cùng vi tế của tu hành chính là hóa thân cầu vồng của pháp Đại Viên Mãn. Trên phương diện này có ba đại thành tựu:

Loại thứ nhất, tên tiếng Tạng gọi là "Giai lỗ tức cổ", có nghĩa là thành tựu Pháp thân cầu vồng.

Loại thứ hai, tên tiếng Tạng gọi là "Giai lỗ pha thanh", có nghĩa là thành tựu Trường thọ cầu vồng.


Loại thứ ba, tên tiếng Tạng gọi là "Giai lỗ đức bối", có nghĩa là thành tựu Xá lợi toàn thân.


Pháp thân cầu vồng là khi mệnh chung, toàn bộ thân thể của mình biến thành một dải cầu vồng, bay cao lên mãi, dung nhập vào Pháp giới rồi biến mất, đó là hóa ánh sáng cầu vồng đắc chứng Pháp thân, hợp làm một với ý thức vũ trụ tối thượng.


Khi Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 hỏa táng, có ánh sáng cầu vồng từ lò hỏa táng bay lên, lên đến không trung thì hiện lên ánh sáng của cầu vồng mây ngũ sắc, còn trái tim của Ngài thì không thiêu được, đó là xá lợi tim. Pháp thân cầu vồng cũng có khi chỉ lưu lại một ít lông tóc móng tay, còn những thứ khác hóa thành cầu vồng và tan đi.


Trường thọ cầu vồng là do người tu tập pháp hóa cầu vồng [ quyết định ] không nhập niết bàn, do vậy nhìn biểu hiện bên ngoài thì vẫn là sắc thân, thật ra bên trong thân thể, linh hồn và thể xác đều trở nên tuyệt diệu rồi, có thể nói là trong ngoài đều thấu triệt, cũng giống như hư không, thân thể có thể hóa thành ánh sáng cầu vồng, nhưng tự do tự tại, có thể trường thọ vô số kiếp, có thể biến hóa nhậm vận. Thượng Sư của tôi và Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, đã trụ trong tuổi thọ vô số kiếp, cũng không nhập niết bàn, họ đều đã đắc chứng Trường thọ cầu vồng.


Xá lợi toàn thân ở đây là không hóa thành ánh sáng cầu vồng, chỉ là thân thể thu nhỏ lại, khi hỏa táng, thân thể biến thành những viên đá óng ánh có ánh sáng. Cũng có người toàn thân rung lên không ngừng, rồi sau đó vô số hạt xá lợi tuôn ra. Thành tựu như vậy cũng rất vĩ đại, thành tựu xá lợi toàn thân và thân hóa thành viên đá óng ánh phát quang đều là những biểu trưng của sự thành tựu.


Ba đại thành tựu: Pháp thân cầu vồng, Trường thọ cầu vồng, Xá lợi toàn thân là bình đẳng, không có phân biệt đẳng cấp. Ở đây chỉ là do sự thề nguyện khác nhau. Lấy Pháp thân cầu vồng mà nói thì hợp nhất cùng vũ trụ tối thượng cũng tương đương với nhập niết bàn. Nhập niết bàn rồi thì sẽ ít trở lại độ chúng sinh, thế nên Trường thọ cầu vồng là không nhập niết bàn, với lời thề nguyện đời đời kiếp kiếp độ chúng sinh. Còn xá lợi toàn thân với những viên ngọc, đá lấp lánh là sự khác biệt trong tu pháp mà thôi. Ba loại đại thành tựu này là bình đẳng, không khác biệt, đều là đại thành tựu Cầu vồng Pháp thân biến.


Tu trì Cầu vồng Pháp thân biến của Đại Viên Mãn hoàn toàn cần dựa vào sự chỉ dẫn của một vị đại trì minh kim cương acharya [ a-xà-lê ] chân chính, dùng chân trí để giáo hóa đệ tử, tất cả thành tựu trong tương lai đều nằm ở thân tâm chính mình, không cần phải hướng ra bên ngoài để tìm kiếm. Phương pháp tu chứng được gọi là "lí sự viên dung, bất nhị pháp môn". "Lí" là gì? "Lí" chính là đạo lí. Chúng ta cần hiểu đạo lí của pháp Đại Viên Mãn, ví dụ tánh Không và trí Huệ, hai thứ hỗ trợ lẫn nhau, không thể rời xa lẫn nhau. Tánh Không và trí Huệ vẫn là bản tánh của chư Phật, hiểu rõ tánh Không và trí Huệ thì trước tiên phải hiểu từ "lí", tất cả đều cần Thượng Sư giảng giải rõ ràng. Giống như vị Phật nguyên thủy Bà Tiên, thể tánh của Ngài là ở khắp hư không, bao phủ Pháp giới, căn bản là bất khả thuyết, nhưng bất khả thuyết thì cũng không thể không nói, nói ra thì cũng vẫn là một chữ "lí".


Trên phương diện "sự" mà nói, dù đã hiểu rõ đạo lí, nhưng lại không tu, thì đây là nói suông, chỉ nói lí mà không có sự tu trì, như vậy thì không thể thành Phật. Nói lí càng hay, càng cao, càng tuyệt vời thì cũng chẳng khác gì cả một mớ lời nói vô ích, nếu không làm thì cũng sẽ không có thành tựu. Ví dụ lấy tôi để nói, Thượng Sư Lư Thắng Ngạn nếu bản thân chỉ nói "lí", chỉ biết viết sách, nói suông mà không làm, thì Thượng Sư tôi đây chính là Thượng Sư giả. Do vậy, đã hiểu được đạo lí rồi, cộng thêm nỗ lực tu trì, thì đây chính là lí sự viên dung, bất nhị pháp môn.


Hôm nay, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư trên phương diện "lí" đã hoàn toàn hiểu rõ thấu triệt, trên phương diện "sự" cũng đã tu trì đạt tương ứng, nội hỏa toàn thân sáng rực, khí hóa thành hỏa, hỏa có thể biến thành quang, tự thân chính là hư không cảnh, cũng là thành tựu trường thọ cầu vồng. Bởi vì lời thề nguyện của tôi quá lớn, lớn tới mức đời đời kiếp kiếp không nhập niết bàn, nhất định phải đời đời kiếp kiếp độ chúng sinh.


Bí mật trong bí mật của "Cầu vồng Pháp thân biến" là bắt đầu từ quán tưởng (phương pháp căn bản nhất). Đầu tiên là đi nhìn mặt trời mọc ở trên biển, khi mặt trời lên tới ngang mặt nước thì ghi nhớ vào trong đầu màu vàng kim, màu đỏ và nhiều màu sắc, minh tưởng chữ "Ah" trong mặt trời, cần nhớ rõ như vậy! Chữ Phạn "Ah" là thông suốt mọi chủng tử tự, bất kì vị Phật nào cũng đều hiển hiện trong chữ Ah. Đây là một đại bí mật.


Trong Mật giáo Đại Viên Mãn, chủng tử tự và quán tưởng vô thượng quyền uy đại bí mật pháp hóa thân cầu vồng là chữ Ah tiếng Phạn.

Khi đạt được thành tựu này, trong không trung sẽ có thiên nhạc tiếng Phạn hát rằng:

"Chư Phật từ bi thừa nguyện bay,

Từ nay sử dụng Đại Viên Mãn

Cứu lấy chúng sinh ban Đại Pháp

Tùy bệnh đưa thuốc đến các nhà

Tùy theo phiền não mà đối trị

Giải từ mê lầm đạt giải thoát

Pháp đã ban ra mau tu học


Tỳ Lô Giá Na bồ đề tâm."


Bài kệ tiếng Phạn này được hát lên rất đẹp đẽ và vui tai, lại thêm hàm nghĩa sâu xa ở trong đó. Ý nghĩa dường như có vẻ rất bình thường, nhưng trong cái bình phàm có cái bất phàm, ở đây vốn là tinh nghĩa dương cao đại giáo ứng thế, đồng thời phát huy được sự uyên thâm của Bát Nhã. Pháp Đại Viên Mãn vốn là bí mật không truyền, nay bí mật được cất giấu này đã được mở rộng ra rồi. Đây không chỉ là ân huệ của hành giả Mật thừa mà còn là công đức vô lượng đối với hằng hà sa số các pháp môn tu đạo.


Viết đến đây, trong lòng tôi rất đau buồn, tôi cảm thấy những con người vô tri của thế gian chiếm đa số, thật sự là tội căn và nghiệp chướng đều rất nặng rồi. Hôm nay, đại pháp được mở ra rộng rãi, có thể xem là thời đại hưng thịnh của Mật pháp, tận tai nghe Thượng Sư chân chính truyền pháp, có được đại pháp bản bí mật như vậy cùng với sự chỉ rõ những sai lầm mê lạc như vậy, căn bản là trong quá khứ chưa từng có. Đây là điều cực kì quý giá.


Tôi cảm thấy tôi viết nhiều sách, nhận được sự bồi dưỡng hết lòng của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Đại Sĩ không bỏ rơi chúng sinh, việc tôi viết sách có ý nghĩa vô cùng trọng đại. Trí huệ của pháp Đại Viên Mãn có thể xem là "trí huệ tổng trì", là đệ nhất tối vi diệu, có thể loại trừ đủ loại trọng tội, khiến mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử, mau chóng chứng niết bàn pháp lạc.


Tại đây, tôi đặc biệt tuyên bố lần lượt từng bí mật vô thượng của pháp Mật giáo Đại Viên Mãn này, là đại pháp số một của Tạng mật, điều này là cực kì trân quý, là hiếm lạ phi thường. Hi vọng người người có thể coi trọng, pháp Đại Viên Mãn này là ngọn đèn sáng đẩy lùi bóng đêm, là con thuyền thoát khỏi biển khổ, là Đại Nhật, là Phật quang phổ chiếu. Những bí mật vi diệu mà Như Lai đã nói này thật sự có thể coi là thắng nghĩa vô tận trong Tạng môn ảo diệu Đại Viên Mãn.


13. Đại Viên Mãn "Nhiếp đới"


Tôi biết, tại một địa phương là Derge Yihun ở vùng Kham, Tây Tạng có một vị Lama phái Nyingmapa tên là Sonam Rinchen, ông vốn là một nhà điêu khắc tượng Phật, sau này có được nhận thức sâu sắc hơn về điêu khắc tượng Phật, ông bèn xuất gia làm Lama. Trong khi tu pháp, ông đã thấy Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ cho ông pháp Đại Viên Mãn, thế rồi ông âm thầm tu "Lập đoạn đốn siêu".


Vị Lama này tu trì rất lạ lùng. Ông không kết Mật đàn, cũng không bày cúng dường, lại càng không dùng đến quán tưởng, đồng thời cũng không trì chú. Vị Lama này chỉ thường xuyên hát bài hát tiếng Phạn trong miệng, hai mắt thường nhìn lên không trung. Ở đây có tồn tại một điều bí ẩn.


Khi Lama Sonam Rinchen viên tịch, thân thể đột nhiên thu nhỏ lại, chỉ còn chừa một ít lông tóc, còn cả người thì tiêu biến vào trong không khí. Lúc này, trong không trung có bài ca tiếng Phạn, trên bầu trời cũng xuất hiện cầu vồng.


Các vị Lama đứng xung quanh đều vô cùng kinh ngạc trước thành tựu của ngài. Thân phận của vị Lama này không cao, có thể nói là tên chẳng được nhắc đến trong kinh truyện, nhưng thật sự lại tiêu dao tự tại, không có một chút bám chấp nào, chân lý của pháp Đại Viên Mãn quả nhiên là bất khả tư nghì.


Thật ra, hành động hai mắt thường nhìn lên không trung này của vị Lama chính là "kết liễu đàn" trong hư không vũ trụ, lấy hư không trả về hư không, chính là cúng dường, có đàn tế ở trong hư không vũ trụ rồi thì dùng hư không làm cúng dường, đây chính là ý quán tưởng. Bài ca tiếng Phạn chính là chú, thường xuyên hát bài ca tiếng Phạn tức là trì chú. Pháp dung hợp thân tâm này đâu có chỗ nào kì quái nữa, chỉ là phương pháp ngộ chứng khác nhau mà thôi, sự nông sâu của công phu đã phô bày sự khác biệt cao thấp.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng đã giải thích rõ phương pháp tu trì này, chính là "Nhiếp đới".

Hư không tức là hư không.

Hư không tức là một.


Hư không tức là tất cả.


Xin những người tu tập hãy nhận thức được ba câu nói này, hư không tức là hư không (tương đương với không có gì). Hư không mặc dù là vô cùng vô biên, nhưng trong toàn bộ hư không mà nói liệu có phải là một "cái" hư không không, nghĩa là tương đương với một. Lại nghĩ tiếp, hư không vốn là vô cùng vô tận, đương nhiên hư không là bao hàm tất cả rồi.


Do vậy, ta có thể suy rộng ra là, tất cả Phật là tất cả con người, tất cả con người là tất cả Phật, một nhiếp một, buộc vào thành một. Tôi giải thích như sau: Tôi đã gặp một vị Phật, trong quán tưởng, tôi nhiếp rút vị Phật này vào trong tâm của tôi. Rồi tôi lại gặp một vị Bồ Tát, tôi lại nhiếp rút vị Bồ Tát này vào trong tâm của tôi. Tôi lại thấy một vị La Hán, tôi lại nhiếp rút vị La Hán này vào trong tâm. Lúc này, trong tâm của tôi có Phật, Bồ Tát, La Hán, nhưng tôi lại nhiếp rút La Hán vào bên trong Bồ Tát, rồi lại nhiếp rút La Hán, Bồ Tát vào bên trong Phật. Cách "Nhiếp đới" như vậy chính là pháp Nhiếp đới của pháp Đại Viên Mãn.


Lama Sonam Rinchen thì Nhiếp đới núi vào trong hư không, nhìn thấy biển, liền Nhiếp đới biển vào trong hư không, nhìn thấy tất cả mọi vật tốt đẹp bèn Nhiếp đới vào trong hư không.  Đây là thấy tất cả bụi trần thì đều Nhiếp đới vào trong hư không. Đến cuối cùng, vị Lama này cũng Nhiếp đới chính mình vào trong hư không luôn.


Ở đây cũng giống như gương và gương đối chiếu nhau, cái gương ở phía đông Nhiếp đới cái gương ở phía tây, rồi cùng đi vào trong cái gương ở phía nam, mặc dù có một chút khó hiểu nhưng cũng không phải là khó giải thích.


Pháp Nhiếp đới của Đại Viên Mãn là Nhiếp đới tất cả vào một, rồi lại Nhiếp đới một vào hư không, mà hư không thì tức là tương đương với hư không, Lama Sonam Rinchen chính là đã đắc chứng theo cách này. Tôi cho rằng điều này hành giả Mật tông cần phải tự mình lĩnh hội, cần chuyên tâm tu luyện, sau một thời gian dài tự nhiên sẽ hiểu và tỉnh ngộ. Mỗi một người học có thể học pháp tụ quang Nhiếp đới trước, luyện tập tụ quang Nhiếp đới hồi lâu thì quang minh tụ hội, tâm tuệ sẽ khai sáng, quang minh tự hiển, tất cả tự tính sẽ tự bộc lộ ra.


Hành giả Mật tông chúng ta biết đạo lý "một tức là tất cả", "tất cả tức là một". Đây chính là nghĩa rộng của pháp Nhiếp đới Đại viên mãn. Tu hành một pháp có được tương ứng rồi thì có thể tương ứng mọi pháp, cũng có nghĩa là có đầy đủ tất cả tương ứng pháp rồi.


Vị Lama kia tu pháp Nhiếp đới là đã biết rằng thân người chỉ là hình tướng giả, biết rằng sắc vốn là không, đã biết tịch chiếu chân lý. Bởi tu pháp thành tựu mới có thể khiến toàn bộ thân thể là không, khi đắc chứng thì bản thể và tác dụng đều vô chướng ngại, không tướng hữu tướng đều dung nhập.


14. Đại Viên Mãn "Địa bộ"


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ pháp Đại Viên Mãn "Địa bộ" như sau: Địa bộ chính là kiên lao. [ND: kiên lao nghĩa là kiên cố, vững chắc]


Hành giả tu trì pháp Đại Viên Mãn cần phải đạt đến kiên lao địa ở phần dưới của thân thể mình. Đây là nền móng của pháp Đại Viên Mãn, vô cùng bí mật và trọng yếu.


Một hành giả đắc kiên lao địa Đại Viên Mãn thì sự tu trì của bản thân sẽ giống như đại địa sâu 16 vạn do tuần đến cảnh giới kim cương luân toàn bộ đều kiên cố vững chắc.


Thành tựu Địa bộ đại địa có nghĩa là thổ địa vô cùng phì nhiêu, sông suối ao hồ trên mặt đất và mọi cây cối đều sinh trưởng xanh mướt, tất cả mọi rễ củ lá mầm đều vô cùng đáng yêu, đất đai có hương vị, vì thế sản sinh ra sự rực rỡ xinh đẹp, đất đai có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh hữu tình, có thể khiến mọi người an ổn vui sướng, tất cả chúng sinh đều có được thân tâm vui vẻ.


Cần biết rằng cúng dường Địa bộ cũng là vô hạn, tất cả vàng, bạc, đồng, sắt, ngọc thạch, hổ phách, kim cương, châu báu, có chứa ở trong đất đai đều là vô hạn, tất cả cúng dường đều đến từ Địa bộ. Tất cả người tu hành có thể có được quang minh, khí lực, dũng mãnh, dung nhan đoan chính vẫn là vì có Địa bộ phì nhiêu, mới có thể khiến cho tất cả chúng sinh đạt được an lạc.


Một hành giả Mật tông chỉ cần tu trì pháp Đại Viên Mãn Địa bộ thì trong các đời tương lai vô lượng trăm nghìn na-do-tha đa kiếp sẽ vĩnh viễn sinh ở cõi trời, thường xuyên được hưởng niềm hạnh phúc siêu thắng diệu kì, nhờ thành tựu của pháp Địa bộ mà tất cả chư Phật đều có thể gặp được, rất nhanh chóng đắc được "A nậu đa la tam miểu tam bồ đề", vĩnh viễn không chịu khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.


Pháp Đại Viên Mãn Địa bộ có thể thấy được chân thân của Phật, có thể đạt được tất cả nguyện vọng, vì Địa bộ là duyên cớ phong phú nhất, tất cả của cải châu báu đều có thể có được.


Trong lúc Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền thụ cho tôi pháp Địa bộ từng dùng ngón tay điểm vào Địa bộ của tôi, hơn nữa còn dùng chú để gia trì cho Địa bộ, do vậy mà hiển hiện sự kiên cố của Địa bộ, khiến Địa bộ chứng minh đắc lợi. Thì ra pháp Địa bộ Đại Viên Mãn có cái lợi ích như vậy, trong Địa bộ hiện lên tối thắng vương cung tỏa ánh sáng vàng kim, tất cả uy quang vô lượng, có được pháp ích cực lớn.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ gia trì cho tôi như sau: "Tan chu tha. An shua ni. Ji li sa cha ni shu pi. Ta li ha ha su su. Ou lu. Pha sua. So ha."


Huyệt Địa bộ mà Liên Hoa Sinh điểm vào là huyệt Tam lí, huyệt Tam lí nằm ở vị trí xương ống chày thẳng xuống ba ngón tay ngang, tức là một ngón tay ngang trên bờ ngoài của xương chày.


Còn có một huyệt nữa cũng cần điểm vào, là ấn vào huyệt Tam âm, ngón cái tay phải ấn lên huyệt Tam âm ở cẳng chân bên phải trong hai phút, đến khi cảm thấy buốt, tê, trướng thì tức là hiệu quả rất tốt. Sau đó dùng ngón cái tay trái ấn lên huyệt Tam âm ở cẳng chân bên trái (huyệt này nằm mặt trong của cổ chân cách đỉnh xương mắt cá trong 4 ngón tay ngang).


Thật kì lạ, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vừa điểm ấn như vậy, vừa đả khí, sau đó lại gia trì Phạn chú, bản thân tôi cảm thấy thân thể liên tục khuếch trương ra, tôi to lớn như núi Tu Di ngồi vững chãi trên mặt đất, tự cảm thấy mình trở thành chúa tể vũ trụ, núi sông hồ biển đều ở dưới chân tôi, mây lơ lưng ở vùng hông tôi, địa cầu giống như một đóa hoa sen giữ chặt thân thể khổng lồ của tôi.

Cái cảm giác ấy thật sự là bất khả tư nghì, toàn bộ địa cầu trở thành một tòa hoa sen, còn tôi thì ngồi lên chính tòa hoa sen ấy, sừng sững trở thành một vị Phật.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Chân và đất tương ứng."

Tôi đáp: "Tạo hóa nhất điểm thông."

"Kiên cố là nền móng."


"Chuyển hóa là thần lực." - Tôi nói.


Tôi viết những điều này dường như là quá huyền bí quá thần diệu, địa cầu làm sao lại trở thành hoa sen được? Còn bản thân sao có thể biến hiện thành núi Tu Di, ngồi ngay ngắn trên tòa hoa sen? Quả thật khiến người ta khó mà tưởng tượng nổi. Trên thực tế, việc khó tưởng tượng nổi vẫn còn ở tiếp sau đây. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói, vũ trụ này trên dưới thập phương vốn là sự hóa hiện của vị Phật nguyên thủy, nếu con người biết Mật pháp Đại Viên Mãn và Địa bộ kiên cố tương ứng, hành giả Mật tông có thể biến thân thành núi Tu Di, có thể tương ứng cùng đại địa, nhập thẳng vào cảnh giới kim cương luân, điều này không phải là thần bí mà chỉ là vì người thế tục vô tri thôi.


Người có được pháp Đại Viên Mãn Địa bộ có thể nhập vào trong tâm của địa cầu, đi xuyên qua không chướng ngại, chỉ cần Địa bộ tương ứng thì chính là đạt đến cảnh giới như vậy.


15. Đại viên mãn "Thủy bộ"


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy tôi pháp Đại Viên Mãn "Thủy bộ" như sau:


Ngày xưa, có vị Phật từng dạy pháp Thủy bộ, vị Phật này xưng là Thủy Thiên Phật. Tên gọi Thủy bộ nghĩa là thanh tịnh.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói:

"Thích Tôn lúc tại thế đã từng so sánh như thế này, nước sạch trong suốt tinh khiết là bản chất của nước, còn thế gian có rất nhiều thứ vẩn đục, như đất cát bụi bặm ô uế, giả dụ bỏ một ít những thứ bẩn vào trong nước sạch, nước vốn dĩ ban đầu trong sạch liền trở thành bẩn, như thế, hai thứ trộn lẫn vào với nhau, tất cả sẽ trở thành một tướng hỗn độn, nhân gian bây giờ chính là tướng ngũ trược như vậy. Đối với mỗi người mà nói, con người vốn dĩ có bản tánh thanh tịnh, thế nhưng bản tánh của nước, do lục căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý bị ô nhiễm, nên tính chất vốn thanh tịnh của nước đã trở thành vẩn đục bất minh."


Thủy Thiên Phật dạy chúng sinh pháp Thủy bộ Đại Viên Mãn là như sau. Trước tiên quán tưởng Thủy bộ trên thân thể chúng ta, ví dụ như nước mắt, nước mũi, nước bọt, mồ hôi, nước tiểu, máu, v.v… những thứ là nước trong thân thể con người này thật ra đều có tướng hỗn độn không sạch sẽ, không có gì là tinh khiết. Ngộ ra được rằng tánh thủy của thân thể con người hoàn toàn là vẩn đục, cần mau nghĩ tìm đạo giải thoát.


Sau đó lấy một chậu nước sạch, suy nghĩ rằng nước sạch này có thể thanh tịnh như vậy, và nước biển ở thế giới bên ngoài kia cũng thanh tịnh sạch sẽ, nước của thân thể mình và nước của thế giới tự nhiên thì có gì khác nhau, đây chẳng phải là thanh trược dù khác, nhưng tính chất của nước thì giống, thủy tánh cần phải bình đẳng như một.


Đến khi lĩnh ngộ được nước mắt, nước mũi, nước bọt, mồ hôi, nước tiểu, máu… đều cùng một một dòng chảy nguồn của Tỳ Lô tánh, là nhất vị lưu thông, là tánh thủy chân không, là tánh Không chân thủy, tất cả nội thủy ngoại thủy vốn như một, vốn không có sự khác biệt, vì quán chiếu thấy như vậy mà ngộ ra, đó là thành tựu pháp Thủy bộ của Đại Viên Mãn vô thượng.


Tôi vì suy nghĩ tìm tòi pháp Thủy bộ của Đại Viên Mãn này mà đi ra ngắm biển, biển và nước trong người tôi tương giao lẫn nhau, cả người tôi giống như được tắm mình trong nước biển. Tôi biết trong nước biển có rất nhiều, rất nhiều thứ, nước biển có sự tươi sáng của tình bằng hữu và sự yên bình, có sự hiểu biết và trí huệ. Thật ra tôi đã nhận thức rõ ràng, nhân loại chẳng qua chỉ là một bộ phận của nước biển chứ không phải là toàn bộ, mà chỉ là một bộ phận nhỏ bé mà thôi. Ở trong nước biển này không ngờ có sự quy tụ của toàn thể nhân loại, có sự lưu luyến của nhân loại, có sự tuyệt vọng của nhân loại, còn có những vết thương lịch sử. Nước biển từng bị mặt trời bốc hơi, hơi nước lên đến không trung thì biến thành mây, rồi mây trở nên nặng trĩu, biến thành nước mưa rơi xuống, tưới đẫm đại địa, sông ngòi suối khe ao hồ lại vận chuyển nước này chảy ra biển nơi đầu nguồn của nước.


Sinh mạng chính là những đứa con của biển, ai bảo là không phải chứ. Biển chính là trái tim của tự nhiên, giống như công năng của trái tim của con người chúng ta vậy. Đan xen lẫn nhau, liên quan tới nghìn vạn loại hình thức. Nước là dòng chảy của thức nhân quả, là hoàn mĩ nhất.


Trong lúc tôi ngắm biển, hoàn toàn hòa tan vào trong nước biển hoàn mĩ, cái tự ngã ban đầu trôi lững lờ rồi biến mất. Vào thời khắc dung hợp làm một, hoàn toàn là ánh sáng trí huệ, là đốn siêu, là hài hòa, là đồng cảm và thương xót thế nhân. Trong ánh sáng trí huệ vĩnh hằng, căn bản chính là vạn vật dung hợp làm một, đó là tính chất vui vẻ trang nghiêm.


Viết đến đây, tôi nói một cách rất nghiêm túc rằng, sinh tử luân hồi chính là hiện tượng của biển, niết bàn tịch diệt cũng là hiện tượng của biển, cái huyễn là hiện tượng của biển, cái thật là hiện tượng của biển, khổ nạn là hiện tượng của biển, giải thoát cũng là hiện tượng của biển, căn bản không hề khác biệt. Tôi đã lĩnh ngộ ra rằng: Khi thâm nhập ở trong thiền quán, quá khứ, hiện tại, tương lai mà tôi đã thấy sự hoàn mĩ hơn nhiều so với trong tưởng tượng. Trong cảnh giới này dường như chỉ có từ bi, khoan dung, cảm thông, đồng tình và yêu thương.


Trong ngộ cảnh của pháp Thủy bộ, chính là hành động cầm hoa mỉm cười của Phật, chính là tâm ấn trầm tĩnh không nói một câu, cũng vô cùng tao nhã, không thể nói ra và khó mà suy nghĩ được, có thể nói là sự tổng hợp của từ bi và sự nhìn xa trông rộng. Trong ngộ cảnh của pháp Đại Viên Mãn Thủy bộ này, một sát-na cũng dài như một triệu năm, tâm ấn cầm hoa của Phật cũng tự nhiên giống như thủy quán, các vũ đài mọi sắc mọi tướng đều chảy vào trong biển lớn.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ điềm tĩnh mỉm cười ấm áp. Tay phải của Ngài cầm chày kim cương, tay trái cầm thiên linh cái [ ND: đầu lâu ], có lẽ là một sự trêu chọc. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ tượng trưng cho rất nhiều bộ mặt, tất cả đều tổng hợp trên khuôn mặt Ngài, còn những giáo thị của Ngài đối với Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư hoàn toàn nhìn rõ sự hư vinh và tạm thời của nhân tính. Ngài yêu thương loài người sâu sắc, muốn Thượng Sư kế thừa tinh thần của Ngài, dốc hết tâm sức để độ hóa rộng khắp. Ôi! Dứt khoát là thế, dứt khoát là thế…


Khi tôi đang ngồi xếp bằng, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy tôi ngửa bàn tay trái lên, đặt tự nhiên ở trước bụng dưới, ngón cái tay phải dùng lực ấn vào huyệt Nội quan ở cẳng tay trái (huyệt Nội quan nằm ở giữa hai gân khoảng hai ngón tay ngang phía trên cổ tay). Đầu tiên ấn xuống một lúc, sau đó lại lấy bàn tay phải áp vào ngực trái mát-xa từ trên xuống dưới hai trăm lần.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hướng thẳng vào tâm thất của tôi để đả khí.

Tôi nhập thiền định.


Tôi phát hiện thấy chính mình nhập thẳng vào trong nước biển, xung quanh là một thế giới kì diệu. Tôi trông thấy một vị Bồ Tát, thì ra là Long Thọ Bồ Tát, và nơi đó chính là Long Cung. Tại Long Cung, tôi được đọc những cuốn kinh sách Phật giáo quý giá được cất giấu ở đây, những kinh sách Phật giáo này đều chưa từng xuất hiện ở nhân gian, chỉ được cất giấu kĩ tại Long Cung, thế nhân không thể thấy.


Tôi dựa vào pháp Đại Viên Mãn Thủy bộ tiến nhập vào nước biển sâu, tiến vào Long Cung, thế rồi đắc được tất cả bí mật thâm sâu từ kinh sách Phật giáo ở Long Cung. Những sách quý chứa những bí mật thâm sâu này chỉ có Long Thọ Bồ Tát biết, tôi biết, và những hành giả Mật tông vận dụng được pháp Đại Viên Mãn Thủy bộ là biết. Tôi cảm thán! Những kinh sách Phật giáo ở thế gian không ngờ chỉ bằng một phần nghìn của kinh sách Phật giáo ở Long Cung mà thôi. Kinh sách Phật giáo ở Long Cung bao gồm những bài thuyết pháp của mười vạn chư Phật, không phải chỉ là mỗi pháp của Thích Tôn, thảo nào kho tàng sách Phật ở Long Cung gấp nghìn lần ở nhân gian.


Pháp Thủy bộ Đại Viên Mãn ban đầu là đem nước ở trong thân thể chính mình, sự tuần hoàn của tim tương ứng với sự tuần hoàn của nước biển, sau đó từ sự tuần hoàn của nước biển tương ứng với sự tuần hoàn của Tì Lô pháp tánh hải. Nước được quán tưởng ở đây nhất quán không khác biệt, hỗn độn và sạch sẽ là như nhau không khác biệt. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ trong khi truyền đại mật pháp cho tôi, giúp tôi đả thông quan khiếu. Những gì tôi đạt được ở trong Kim Mộ Tháp ở Tây Tạng có thể xem là độc nhất vô nhị. Trong pháp Thủy bộ này có rất nhiều khẩu quyết, cần phải truyền thụ trực tiếp, những pháp này căn bản là trên biểu hiện bề ngoài không thấy được, rất nhiều Thượng Sư Mật tông đều không biết. Thành tựu của Hồng Quán Thánh Miện Thượng Sư trực tiếp kế thừa từ Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, một chút một điểm đều không vô căn cứ, khiến cho khắp thiên hạ đều nghe biết được pháp bí mật này mà có được đại hỉ lạc.


16. Đại Viên Mãn "Hỏa bộ"


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ giải thích khi Ngài ứng hóa để đi học pháp, Ngài đến một ngôi chùa để cầu pháp, ngôi chùa ấy gọi là Khách Giác Vương Chân Lợi, trụ trì của chùa là Phật Mẫu Lệ Kết Uổng Ma Thả. Liên Sư đi cầu pháp nhưng cửa không mở, bên cạnh cửa có một nữ thị giả tên là Cốt Mã Lợi ngồi trên một tảng đá ở ngoài cửa.


Liên Sư thỉnh Cốt Mã Lợi đi vào trong thông báo với Phật Mẫu Lệ Kết Uổng Ma Thả. Nhưng thị nữ cơ bản là không quan tâm, Liên Sư nhất quyết muốn đi vào, kết quả là khiến cho thị nữ tức giận, thị nữ cầm một cây đao chém sát thương vào bụng Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Nhưng bụng của Liên Sư vừa bị thương thì từ trong bụng xuất hiện hình tượng của Ngũ Phương Phật.

Cốt Mã Lợi thất kinh, biết rằng đây là người có tu, lập tức nhận lỗi, đồng thời hỏi đạo: "Một người thành Phật còn có lửa sân hận không?"


Liên Sư nói: "Người thành Phật tuyệt đối không còn lửa sân hận, tôi đến đây chỉ là muốn cầu pháp của Phật Mẫu mà thôi."


Thế là thị giả dẫn Liên Hoa Sinh Đại Sĩ vào trong gặp Lệ Kết Uổng Ma Thả Phật Mẫu. Khi ấy, Phật Mẫu đang ngồi trên tòa hoa sen nhật nguyệt luân, thân hiện tướng bánh xe đủ nghìn nan hoa, quang minh biện chiếu, tràng phan cờ lọng, các loại bảo vật trang nghiêm. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ tiến lên trước lễ bái Phật Mẫu, đồng thời xin được học tất cả pháp yếu nội ngoại mật.


Lệ Kết Uổng Ma Thả Phật Mẫu ban cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ quán đảnh Tất cả Phật hiện tiền kim cương Lama, rồi sau đó quán đảnh Mã Vương Phật Hàng Ma Phẫn Nộ Tôn. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ kể với tôi, Mã Vương Phật Hàng Ma Phẫn Nộ Tôn này chính là Đại Viên Mãn "Hỏa bộ".


Mã Vương Phật giáo thị như sau, người nhiều phẫn nộ giống như ngọn lửa hừng hực, những ngọn lửa phẫn nộ này tập trung lại thì đốt cháy cả rừng công đức, có nghĩa là tiêu hủy sạch sẽ toàn bộ thiện căn của rừng công đức, cuối cùng thiêu hủy cả hạt giống trí huệ.


Người tu pháp Hỏa bộ cần yên lặng quán tưởng hỏa tính của bản thân. Khi lửa chưa khởi lên thì tứ chi và xương cốt mát mẻ dễ chịu, nhưng một khi ngọn lửa phẫn nộ được châm lên thì giống như người điên loạn, một người tức giận cũng giống như người điên chẳng có gì khác biệt, bởi vì toàn thân phát hỏa, nóng nảy bất định, những ngọn lửa xấu này là chủng tử của A tu la.


Tu Đại Viên Mãn Hỏa bộ vốn là dùng nội hỏa của bản thân để làm tác dụng quán tâm, đem toàn bộ nộ hỏa của bản thân tụ tập vào trong đan điền, khiến nội hỏa ngưng lại ở bên trong, hướng ra ngoài có thể làm tác dụng hàng ma, là Mã Vương Phật Hàng Ma Phẫn Nộ Tôn, hướng vào bên trong thì thành lửa trí huệ, dựa vào tu luyện quán tưởng lửa trí huệ đan điền chính là sự tu luyện Đại Viên Mãn Thủy bộ.


Tu luyện phương diện này hoàn toàn không phải là sân hận, mà là sự ứng dụng Hộ pháp và trí huệ. Sự tiến nhập của hỏa quang tam muội là thiện quán Hỏa bộ, ngoài việc có thể hàng phục ma oan ra còn có tác dụng thần quang trí hỏa. Ngọn lửa mát mẻ này cháy ở trong bản thân ta khác với lửa sân hận, chảy nối liền chân tánh Như Lai ấn giấu trong thập phương, đốt sạch hết phiền não, ở lưng nhen lên ngọn lửa đại giác, đây chính là đại tu luyện của pháp Đại Viên Mãn Hỏa bộ.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy rằng, thân thể con người có nhiệt độ, nhiệt độ chính là hỏa, tất cả dục niệm cũng là do tà hỏa mà khởi lên, nếu luyện tà hỏa thành chánh hỏa, nghĩa là dục hỏa hóa thành trí huệ hỏa thì như thế là viên mãn pháp Hỏa bộ.


Theo như tôi biết, Bất Động Minh Vương - một trong Ngũ Đại Minh Vương của Mật giáo, theo Đông Mật ghi chép thì Ngũ Đại Minh Vương tức là: Ở giữa là Đại Thánh Bất Động Minh Vương, phía đông là Hàng Tam Thế Minh Vương, phía nam là Quân Đồ Lợi Dạ Xoa Minh Vương, phía tây là Đại Uy Đức Minh Vương, phía bắc là Kim Cương Dạ Xoa Minh Vương. Bất Động Minh Vương có lời thề rằng: "Người nào thấy thân Ta liền phát bồ đề tâm, người nào nghe tên Ta liền đoạn ác tu thiện, người nào nghe Ta nói liền đắc được đại trí huệ, người hiểu tâm Ta liền tức thân thành Phật." Còn tôi cho rằng, ánh sáng sau lưng Bất Động Minh Vương sáng chói như thế lực của Ca Lâu La, có vô lượng quang thân, có ánh sáng trên đầu. Cá nhân tôi từng nghĩ thế này, Bất Động Minh Vương tượng trưng cho đại thành tựu của pháp Đại Viên Mãn Hỏa bộ, đặc biệt là tôi từng tu tập "Để lí tam muội da Bất Động Tôn Uy Nộ Đại Minh Vương niệm tụng bí mật pháp", nên lại càng có được chứng nghiệm như vậy.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ biến hiện ra hiện tướng Hỏa bộ pháp phẫn nộ kim cương, cũng là quá khủng khiếp rồi, quanh thân Ngài lửa cháy bừng bừng, không trung có một con chim lớn tóm lấy một con rắn xanh, đầu đội mũ năm đầu lâu, tay phải cầm chày kim cương, tay trái cầm bọ cạp độc phổ ba, thân trên có rắn quấn, thân dưới treo sọ người, cưỡi trên voi lớn, hai chân dẫm lên nam nữ thiên ma, hiện lên tướng cực kì phẫn nộ.


Khi tôi tu pháp Đại Viên Mãn Hỏa bộ, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dùng ngón cái tay trái tay phải ấn lên trên huyệt Thái dương của tôi để truyền khí vào trong hai phút.


Sau đó, ngón cái tay trái tay phải lại ép lên hai huyệt Phượng trì, và cũng truyền khí vào trong hai phút (huyệt Phượng trì nằm ở giữa vùng hõm ở sau gáy).


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy tôi rằng, dùng cẳng tay trái đặt trước ngực, lòng bàn tay úp xuống, sau đó, tay phải ấn chặt vào huyệt Khúc trì của tay trái (huyệt Khúc trì nằm ở cơ khớp xương), ấn vào huyệt Khúc trì cũng kéo dài hai phút.


Lập tức quán tưởng lửa cháy bừng bừng quanh thân, hóa thành một đốm lửa màu đỏ, từ đỉnh đi vào, đến cổ, đến ngực, đến bụng, đến bắp đùi, đến cẳng chân, từ lòng bàn chân chảy ra ngoài, cứ quán tưởng tuần hoàn như vậy.


Tôi làm pháp tu quán như thế, rồi tiến nhập vào một tam ma địa kì diệu. Tôi hóa thân thành một con rồng lớn màu đen, bay trên không như sấm chớp, thân rồng có hỏa quang tam muội bao quanh, móng vuốt duỗi ra như dao sắc, trên lưng mọc ra bảy cây trâm kim cương sắc nhọn, đầu rồng cũng mọc ra một cái sừng ngọc, toàn thân có vảy giáp màu đen. Con rồng đen này ngoài việc trông rất khác thường ra thì nó còn có hai cái đầu, một cái đầu mang vẻ mặt hân hoan, một cái đầu thì cháy bừng bừng phẫn nộ. Tôi vừa nhập vào tam ma địa này thì lập tức biến thành hắc long kim cương thần tiên kì quái như vậy.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Hỉ Nộ Nhị Kim Cương là Cụ Lợi Ca La."

Tôi hỏi: "Nguyên cớ gì?"


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Trước kia, Cụ Lợi Ca La Minh Vương và một vị Đại Ma Vương đấu pháp, Đại Ma Vương có một thanh bảo kiếm, nhưng Cụ Lợi Ca La Minh Vương cũng biến thành một con rồng đen, toàn thân quấn chặt lấy bảo kiếm của Đại Ma Vương, dùng nộ khẩu nhai gọn bảo kiếm, nhai vỡ nát bảo kiếm. Đó là đại pháp lực của Cụ Lợi Ca La Minh Vương. Bây giờ Ngài dùng pháp Hỏa bộ cũng biến hiện thành rồng đen của Cụ Lợi Ca La Minh Vương, có thể thấy ma kiếp trùng trùng của Ngài trong tương lai sẽ phải dựa vào đại pháp lực để phá trừ."


Nhờ có Liên Hoa Sinh Đại Sĩ ấn chứng, tôi đã biết đời này của tôi có ma kiếp trùng trùng, tôi là Hỉ Nộ Nhị Kim Cương, vừa tu pháp Hỏa bộ Đại Viên Mãn thì đã hóa hiện thành con rồng đen nhai vỡ bảo kiếm, chẳng trách ma quỷ mà tôi phải hàng phục nhiều như vậy. Mặc dù tôi có sức mạnh uy thần, có thể phá trừ hàng phục thiên ma quỷ thần, nhưng thiên ma quỷ thần khắp nơi cũng trăm phương nghìn kế muốn gia tăng mưu hại tôi, chỉ mong lúc sinh thời, tôi cũng được như Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hàng phục được những thiên ma hắc giáo ở vùng đất Tây Tạng.

Pháp Đại Viên Mãnn Hỏa bộ chính là pháp hàng phục.


Trên nguyên tắc là dùng ngoại hỏa để hàng phục lửa của ma, dùng nội hỏa để làm lửa trí huệ. Đây cũng là phép tu trì  phước - huệ hợp nhất.


Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư có tướng hỉ lạc từ bi, cũng có tướng quả cảm dũng mãnh, đó là pháp Đại Viên Mãn Hỏa bộ.


17. Đại Viên Mãn "Phong bộ"


Cá nhân tôi có ấn tượng rất sâu sắc đối với Tây Tạng, những cao nguyên hoang dã vô biên bát ngát, những rặng núi, đỉnh núi hoang vu, trùng điệp kéo dài liên miên đến tận chân trời, có núi cao, có vực sâu, và chỉ có ở nơi vực sâu thì mới có rong rêu và một vài loài thực vật. Ở những hồ nước gió không thổi được tới, mặt hồ lấp lánh ánh sáng và có vết tích của chim nước và các loại bèo rong. Các ngôi chùa ở Tây Tạng cũng trùng trùng điệp điệp, rộng lớn giống như viện bảo tàng, như một con thú khổng lồ nằm phục dưới chân núi cao. Mọi lúc mọi nơi đều có thể thấy cờ phướn bay bay và những mái vòm màu vàng kim của các chùa chiền.


Vào những ngày trời trong, bầu trời là một sắc tím mênh mông bát ngát, giống như một cái ô tự nhiên vô biên vô tận che kín toàn bộ cao nguyên Tây Tạng này. Bầu trời vô cùng đẹp đẽ.


Vào những ngày Tây Tạng có gió, con người thường cảm thấy khá phiền toái, da dẻ và khuôn mặt luôn luôn bị gió cát tấn công, ai nấy toát lên vẻ già nua với rất nhiều nếp nhăn nhúm. Những cơn gió cát mãnh liệt của Tây Tạng giống như những chiếc roi da quất lên da thịt của con người. Điều này khiến tôi nghĩ đến thị trấn Tây Tự ở huyện Bành Hồ ở Đài Loan, thị trấn Tây Tự này là quê hương của ông nội tôi Lư Xương. Mỗi khi tới mùa đông là gió cát ở Tây Tự bắt đầu ra uy, con người đi lại trong gió là do gió đẩy người đi, nếu đi ngược gió thì không thể tiến lên được bước nào, đặc biệt là gió cát thổi vào chân, chân sẽ đau buốt. Mùa gió ở Tây Tạng và mùa gió ở Bành Hồ không ngờ lại rất giống nhau.


Nghe nói, đỉnh núi Potala ở Lhasa khi trời trong thì đẹp như tiên cảnh, còn khi sương phủ mịt mù thì, khi gió bão thì cát và đất có thể có thể xé rách da thịt và khuôn mặt con người.


Một mình tôi ở trong Kim Mộ Tháp ở Tây Tạng học tập pháp Đại Viên Mãn, khi học đến Đại Viên Mãn "Phong bộ" thì tôi liên tưởng đến gió ở Tây Tạng và gió ở Bành Hồ. Ấn tượng sâu sắc nhất về Tây Tự không ngờ cứ trở đi trở lại trong tâm trí tôi, Miếu Thánh Đế ở Tây Tự, biển ở Tây Tự, cá ở Tây Tự, Tây Tự cũng có những ngày tôi đi câu cá, còn có cả những ruộng khoai tươi tốt ở sườn núi, nhưng ấn tượng sâu sắc nhất vẫn là gió ở Tây Tự Bành Hồ.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy tôi Phong bộ như sau:


Rất lâu trong quá khứ, có một vị là Vô Lượng Thanh Phật giáng thế, thứ Ngài truyền dạy chính là Đại Viên Mãn Phong bộ. Trong thế giới mà nhân loại chúng ta sinh tồn và trong căn tính sinh tồn đều có sự tác động của gió. Theo những gì mà Vô Lượng Thanh Phật truyền thụ thì vũ trụ và con người đều là do phong lực vô minh vọng duyên chuyển biến và tác động mà có. Vũ trụ chịu sự lưu động của gió mà biến đổi, còn thân thể con người cũng là sự lưu động biến đổi của gió, đây là khởi điểm của Đại Viên Mãn Phong bộ.


Thậm chí Vô Lượng Thanh Phật còn nói thế này, con người đang sống cũng tựa như sự tồn tại của một khối khí, một hơi thở chính là thứ căn bản nhất của sự sống con người. Nếu con người mất đi hơi thở này thì sẽ chết. Tất cả hành động đi đứng ngồi nằm của con người có cái nào không phải là nhờ vào hơi thở này. Nếu chúng ta muốn nhấc một vật nặng thì trước tiên đều phải hít vào một hơi khí, dùng khí được giữ lại trong người này để nhấc vật nặng, nhấc vật nặng xong thì cũng thở hắt ra một hơi, đây đều là nhận lấy sự cổ động của gió.


Nhờ quan sát sự giao động của gió mà biết được rằng, thân tâm cho đến những bộ phận vi tế nhất ở bên trong đều chịu sự ảnh hưởng của gió, còn vũ trụ bên ngoài cũng chịu ảnh hưởng của gió, có thể nói rằng bản chất của nó là không khác, hoàn toàn là tính chất chung của gió.


Tôi cảm thấy Đại Viên Mãn Phong bộ rất giống với tâm yếu Kagyu mà Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 mật truyền, tâm yếu Kagyu là do Thượng sư Karmapa truyền cho tôi, tôi là một trong số ít đệ tử nhận được mật truyền này. Ở đây đã giải thích được về pháp quán tưởng hơi thở vào ra từ mũi, khí đi vào là màu trắng, khí đi ra là màu đen, tập trung tinh thần vào hơi thở ra vào, trong Phong bộ đạt được nội minh, khi đạt đến đắc chứng, thế giới nội minh và thế giới ngoại chiếu trở thành thế giới quang minh màu trắng, có thể nói là một miền trỗng rỗng yên tịnh, một hồi lâu ngưng tụ Phong bộ trong tam ma địa sẽ phát sinh trí huệ và đoạn trừ mê hoặc, tự nhiên có thể đạt được vô lậu.


Phong bộ của Đại Viên Mãn thật ra chính là pháp luyện khí, luyện khí công của người bình thường, dưỡng khí của Đạo gia, luyện khí của yoga, khí và ý của pháp Đại Thủ Ấn hoặc nhiều hoặc ít đều có liên quan đến Đại Viên Mãn Phong bộ. Trên phương diện này, trong cuốn sách "Vô Thượng Mật và Đại Thủ Ấn", tôi đã từng viết rất rõ ràng tỉ mỉ tường tận rồi, đặc biệt là trong cuốn sách "Đại Thủ Ấn chỉ quy", tôi đã viết về khí cực kì chi tiết, toàn vẹn đầy đủ, tất cả những điều này đều được các Thượng Sư Mật tông xem là Vô Thượng Mật, những bộ phận rất sâu được mật truyền nhìn chung là không dễ dàng thấy được.


Pháp Đại Viên Mãn này của tôi có thể nói là pháp duyên vô thượng trong trời đất, rất nhanh chóng có thể viên mãn tư lương phúc đức - trí huệ, rất nhanh chóng viên đốn mười loại ba la mật, siêu vượt ba đại a tăng kì kiếp của không gian và thời gian, đời này có thể tức thân thành Phật. Tôi, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư hết lòng hết dạ khuyên mọi người rằng điều này có thể nghiệm thành hành tướng, nhất định có thể kiến tánh thành Phật. Những pháp này của tôi đều là chánh pháp, là đại mật pháp vô thượng, nếu bỏ lỡ lương duyên như vậy thì trong đời này, e rằng sẽ chẳng thế có được lần nữa, rất quan trọng đó! Rất quan trọng.


Khi tôi tu luyện Đại Viên Mãn Phong bộ, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã điểm huyệt giúp đỡ tôi rất nhiều, từ huyệt Thái dương đến huyệt Thính hội, đến huyệt Ế phong, đến huyệt Phượng trì, đến huyệt Kiên cốt, đến huyệt Khúc trì, đến huyệt Hợp cốc, đến huyệt Hoàn khiêu, đến huyệt Huyết hải, đến huyệt Âm lăng, đến huyệt Tam âm. Dọc toàn thân tôi từ đầu đến chân đều thông khí.


Mỗi khi điểm vào một huyệt đều có thủ ấn thân thế, có nghĩa là để cho chân khí thật sự đi qua, hơn nữa nhờ có Liên Sư dùng đại lực hỗ trợ thông khí qua được các nút thắt, dòng nội khí dự phòng trào lên mãnh liệt tạo thành hiện tượng chân khí thượng xung cuồn cuộn, hòa quyện mạnh mẽ. Ở phương diện này cần chú ý khi chân khí nhất loạt thông xuống đến huyệt Dũng tuyền ở gan bàn chân thì phải đồng thời thở khí, để có thể phòng ngừa khí dội lên trên, tránh phát sinh chuyện ngoài ý muốn.


Trong khi khí vận chuyển, tôi nhập định vào một tam ma địa, tam ma địa này rất kì lạ, tôi biến hiện thành một người già, tóc bạc trắng, toàn thân có màu đỏ thẫm, trên đầu đội mũ kim cương, mặc áo giáp chiến đấu, tay phải cầm cờ, cờ này có viết một chữ "phong".


Sau sự việc này tôi mới biết đó là Phong Thiên, Phong Thiên này trong tiếng Phạn Ấn Độ gọi là Bà Căn, vốn là tám phương trời và một trong mười hai cõi trời. Trong đạo Bà la môn Ấn Độ thì Phong Thiên là thần cách của gió biến hóa ra, chủ quản gió của thế giới, khi thần này phẫn nộ thì bão táp, cuồng phong, gió xoáy, khi thần này tĩnh tại thì thân thể khinh an, vũ trụ điều hòa.


Trong Mật giáo, Phong Thiên ở trong mandala Thai Tạng Giới, nằm ở phía tây bắc bên ngoài kim cương viện, ở trong mandala kim cương giới thì chiếm vị trí phía tây ngoại viện. Về hình tượng của Ngài thì trong nghi quỹ Hộ Ma Kim Cương Đỉnh Du Già có viết: "Phong Thiên ở phía tây bắc cưỡi mây, mặc giáp trụ, tay phải cầm cây giáo dài một chấu, trên cây giáo có cờ màu đỏ, có hai thiên nữ hầu hạ."


Khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hướng dẫn tôi pháp Đại Viên Mãn Phong bộ, Ngài đặc biệt giảng giải cực kì rõ ràng rằng Vô Thượng Mật và Đại Thủ Ấn tâm pháp cũng là pháp Đại Viên Mãn Phong bộ. Bốn phái Mật giáo Hồng, Hoàng, Bạch, Hoa giáo ban đầu về mặt tu pháp thì đại để là giống nhau, ở Tây Tạng bốn phái này cũng hòa hợp lẫn nhau, hơn nữa không hề có hiện tượng đả kích lẫn nhau. Nhưng Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói với tôi, tương lai của bốn phái Tạng mật về mặt truyền thừa đã trở nên cực kì hỗn loạn rồi, sau này sẽ xuất hiện rất nhiều hiện tượng công kích, đó cũng là một định số, định số này trong tương lai cũng sẽ từng bước từng bước thành hiện thực.


18. Đại Viên Mãn "Không bộ"


Kinh Kim Cang có giải thích hay nhất về "Không bộ". Trong đó có một bài kệ như sau:

"Nếu do sắc thấy ta,

Do âm thanh cầu ta,

Người ấy hành tà đạo


Không thể thấy Như Lai."

Trong bản Kinh Kim Cang tiếng Phạn còn có bốn câu:

"Nên quán pháp giới tánh

Tức Pháp thân chư Phật,

Pháp tánh phi thức cảnh


Tự chứng thấy Như Lai."


Pháp Không bộ này vốn là quán không, là tất cả mọi pháp đều không, có nghĩa là tất cả toàn bộ từng li từng tí đều hoàn trả về tánh Không chân như không một chút thất thoát rò rỉ nào. Tâm yếu lớn khi tu pháp này ngược lại lại là vô niệm vô quán vô trụ, chỉ là an trụ trong chính định của tất cả tướng không, tiêu diệt tất cả mọi pháp.


Khi lục căn sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đã hoàn toàn mất đi, lục căn đã là không, còn cảnh giới này là phản vọng quy chân, là vượt ra khỏi sinh tử. Trong Tâm Kinh đã giải thích rõ "quán chiếu thấy ngũ uẩn đều không", vì như vậy mà ánh sáng đến đại diện cho Tam Bảo, quang minh và tự tánh giao hòa lẫn nhau không tách biệt, thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, đây cũng chính là "Không quán của nhất tâm tam quán".


Còn tánh Không biểu thị như thế nào, căn bản là "không sinh, không diệt, không bẩn, không sạch, không tăng, không giảm". Cá nhân tôi nhận thức được rằng, sau khi khiến cho nhận thức của con người chuyển thức thành trí, thức thứ nhất đến thức thứ tám này hoàn toàn thanh tịnh rồi thì đã tiến gần đến sự thành Phật, sự hoàn toàn thanh tịnh của thức thứ tám này chính là "an trụ minh không tam ma địa", đây là thành tựu vô thượng của pháp Không bộ.

"Triệt tức" của pháp Đại Viên Mãn chính là tánh Không.


"Thoát cát" của pháp Đại Viên Mãn chính là trí huệ.


Từ chỗ trụ ở Không, ứng vào mọi pháp, rời bỏ mọi tướng, lĩnh ngộ được đạo lý của chân không, tu pháp nhưng không pháp nào có thể đắc, nghĩa là trước tiên nhiếp tâm nội chứng, biến thành "ở trong tướng mà rời xa tướng", "ở trong Không mà rời xa Không", không nhiễm mắc vào vạn cảnh, sâu sắc đạt được sự vi diệu của chân không vô tướng, nhưng đích thực là "chân tánh thường tự tại".


Pháp Đại Viên Mãn Không bộ này, nếu người tu trì trụ trong "minh không tam ma địa", đến lúc hoàn toàn ngộ ra thì có thể xem như là "cùng rời xa không - hữu", hoàn toàn đạt đến cứu cánh.


Cũng có người nói tánh Không không có thật, kì thực pháp Không bộ là Phật pháp tối thượng thừa, là tự tánh tức Phật.


Chỉ cần trong sự tu pháp quên hết pháp, hơn nữa cũng quên luôn cả bản thân, hoàn toàn khế hợp cùng với Pháp thân, thì đây chính là sự thành tựu Không bộ, tu trì tự tánh là quan trọng hàng đầu, vô thượng chánh đẳng chánh giác chính là pháp Không bộ của Đại Viên Mãn.


Ngày xưa, khi Thích Tôn tại thế, Phật khen ngợi Tu Bồ Đề tôn giả là "giải Không nghĩa đệ nhất". Thứ mà Tu Bồ Đề tu trì chính là pháp Không bộ của Đại Viên Mãn. Tâm yếu của Tu Bồ Đề chính là "tứ đại đều là giả, ngũ uẩn cũng chẳng có, tất cả đều không tịch, cần biết khởi điểm của thân người cũng là không, bởi vì thân người là không nên pháp cũng là không, do nhân không mà chứng đắc được pháp không, đó chính là thế giới không tướng của hoa trong gương trăng trong nước, chỉ là giấc mộng huyễn trăm năm của nhân gian mà thôi, do vậy càng biết rằng vạn tượng liên kết với nhau trong thập phương thế giới đều quy về là một giấc mộng Nam Kha, vẻn vẹn chỉ có hiện tượng ngắn ngủi tạm thời mà thôi, còn chân tánh của nó vẫn là không tịch."

"Chứng Không nghĩa" của Tu Bồ Đề là:

Nhân không.

Pháp không.


Tánh Không vốn sáng tỏ, nhập vào trong Như Lai Tạng, viên chiếu Pháp giới. Không chấp vào thân người, cũng không chấp vào tướng, ngay cả đến tướng không cũng không chấp vào, hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của hiện tượng sinh diệt vô căn cứ, hoàn toàn không chướng ngại, Giác tánh vốn có chính là Giác tánh của Phật.


Phương diện tu trì này đầu tiên là quán chiếu sự biến đổi sinh diệt của lục đạo chúng sinh, hoàn toàn là liên tục không ngừng dứt, và sau khi chúng ta quan sát chúng sinh tướng ở trên đời và biết rằng đời người như một vở kịch, đời người như giấc mộng, cũng biết tất cả chỉ là hiện tượng tạm thời ngắn ngủi mà thôi, do đó liền có thể lĩnh ngộ được tánh Không, thường xuyên tu quán tập định như vậy thì thân tâm chẳng mấy chốc sẽ tiêu trừ được nghiệp của hàng trăm nghìn kiếp, trong sát-na có thể giác ngộ nhập vào Như Lai tạng tâm, và liền có được tự tánh như như. Đây chính là "đời người hư vọng không thực, mượn pháp tu trì chân tánh, bí mật vô hình vô tướng, hoàn toàn minh bạch chí lí".


Có nhiều đệ tử nói với tôi rằng những lời Thượng Sư nói họ đều biết, nhưng Sắc thật chẳng dễ mà quán thành Không. Trên thực tế vẻ đẹp của sắc thân kì thực mới là thứ không sạch sẽ nhất, bên trong nhục thân thật sự chẳng có thứ gì sạch sẽ cả, như xương, như máu tanh, như phân, nước tiểu, như lông tóc, như da thịt, chẳng có cái nào sạch sẽ, sau khi chết thì cũng tanh hôi như thế. Có đệ tử mang sắc tâm nặng cần phải xem mỹ sắc như một đống xương trắng, nếu thấy mỹ sắc thì cũng giống như nhìn thấy xương trắng vậy, thế thì sắc tâm sẽ không khởi lên nữa, và như thế sẽ trở thành sắc không bất nhị, đây tức là "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc".


Sắc Không bất nhị, không niệm cũng không, đó là "vô sinh pháp nhẫn".


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ bí mật dạy cho tôi tu pháp Đại Viên Mãn Không bộ, mặc dù tất cả là không, nhưng vẫn cần mượn thiền định để bắt đầu, thu gom toàn bộ tất cả hữu tâm định vào trong một cảnh giới minh không, tạo nên công đức, trong sự suy nghĩ tĩnh lặng đạt đến cảnh giới nhất tâm, đến được không cảnh tịch chỉ.

Ở đây có: "Trong Phật pháp, nên ngồi kiết già ở nơi yên tịnh, thân thẳng ngay ngắn, hai tay kết định ấn, nhắm mắt, đầu lưỡi chạm vào vòm họng, điều khiển tâm an trụ, không để phân tán."

"Hơi thở có bốn thứ, một là gió, hai là khí, ba là ngưng, bốn là thở."


"Đếm hơi thở để giữ ý, ý cùng theo hơi thở không tản mát, chỉ quán song vận, hoàn không nhập tĩnh."


Trong khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy tôi pháp này, Ngài chưa truyền chân khí qua huyệt đạo của tôi, chỉ dạy tôi một câu chân ngôn: "Om sapuawa suta sawatama sapuawa piasutohang humhum pay."


Trong ngộ cảnh pháp Đại Viên Mãn Không bộ, tôi từng nhập vào tam ma địa của Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh, thì ra Nhất Tự Luân Vương Phật Đỉnh là bản tánh của Đại Nhật Như Lai và Thích Ca Mâu Ni Phật, trong Nhất Tự Kim Luân còn phân ra thành Đại Nhật Kim Luân và Thích Ca Kim Luân.


Trong "Thành Phật nghi quỹ kinh" có viết: "Nhất Tự Kim Luân biến thân thành thân Kim Cương Luân Vương Biện Chiếu Như Lai, quần áo và trang sức của Ngài như mặt trăng thuần khiết, có mọi tướng tốt, toàn thân trang nghiêm, đầu đội kim cương bảo quán, trang sức bằng những vòng bánh xe, có đầy đủ bảo vật trang nghiêm, giữ đại ấn trí quyền, hoặc đại ấn ngũ trí quyền.

Nhất Tự Kim Luân có chú:

"Brum Hum."

"Buaru Om."

"Om Bhrum."


Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư nhập vào Như Lai tam ma địa của Nhất Tự Kim Luân, đã được nếm thử hết Pháp vị của tánh Không, Đại Phật Đỉnh có nước cam lộ, nước cam lộ này chính là tánh Không, bản tánh của Đại Nhật Như Lai, bản tánh của Thích Ca Như Lai, chính là nước cam lộ tánh Không.


Pháp Không bộ này không hề có pháp, tất cả các pháp đều là mượn, muốn đạt được thiền định thậm thâm vô thượng mật này nhất định cần phải có Kim Cương Thượng Sư chân chính bí mật chỉ dạy, bằng không người bình thường không có cách nào đi được đến cảnh giới vô thượng như vậy, vẫn là phải có Thượng Sư đích thân truyền thụ. Đây là đại bí mật không có cách nào nói ra được.


19. Giảng lợi ích của Đại Viên Mãn (1)


Có đệ tử hỏi tôi:

"Pháp của Thầy sao mà viết mãi không hết vậy?"

"Đúng vậy." - Tôi đáp. 

"Pháp của tôi có nghìn nghìn vạn vạn, đến nay những gì tôi đã viết chẳng qua chỉ là một phần nghìn vạn mà thôi, tôi có viết cả đời cũng không viết hết."


"Sao mà có tới nghìn vạn pháp bí mật chứ?"


Phật pháp vốn là vô cùng vô hạn, vô lượng như hư không, tám vạn bốn nghìn thứ bệnh thì có tám vạn bốn nghìn pháp để đối trị, pháp sinh ra từ trong hư không, đương nhiên là vô cùng vô tận. Bây giờ tôi cứ liên tục viết ra, cho dù cả đời này, hay mười đời, hay trăm đời, thì cũng không viết hết. Do vậy, mỗi ngày tôi đều chăm chỉ viết sách, hy vọng có thể dựa vào một phần nghìn vạn pháp này để làm lợi ích cho Trời - Người.

"Làm sao mà Thầy biết được nhiều mật pháp như vậy?"


"Một người đã đắc chứng thì trí huệ cũng vô lượng như hư không, cũng là vô cùng vô hạn, tất cả pháp đều tự nhiên lưu lộ, ví dụ tôi trụ trong Hư Không Tạng tam ma địa thì sẽ biết được pháp của Hư Không Tạng, trụ trong A Di Đà Phật tam ma địa thì sẽ biết được pháp của A Di Đà Phật, trụ trong Hỉ Lạc Kim Cương tam ma địa thì sẽ biết được pháp của Hỉ Lạc Kim Cương, trụ trong Liên Hoa Sinh Đại Sĩ tam ma địa thì sẽ biết được đủ loại mật pháp của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ."

"Thầy từng trụ trong tam ma địa nào?"

"Tam ma địa của tất cả Phật Bồ Tát của thập phương tam thế hầu như tôi đều đã từng trụ (định) vào rồi, do vậy tôi hiểu rõ tất cả mọi pháp, vô lượng như hư không, tôi ghi trong lòng nghìn nghìn vạn vạn mật pháp, những pháp này cả đời cũng không viết hết. Gần đây tôi cũng muốn viết về pháp của Đạo gia, nếu mà viết về pháp của Đạo gia thì cũng chẳng có điểm dừng, tôi cũng ghi trong lòng cả nghìn vạn pháp của Đạo gia, nhưng cũng còn chưa động bút nữa!"


"Chà! Thầy thật là bất khả tư nghì."


"Bất luận là nói thế nào, thời gian của tôi vĩnh viễn không đủ, dù mỗi ngày tôi đều chẳng có lúc nào rảnh rỗi. Tôi ở Mĩ đã gần ba năm, chẳng ra ngoài đường, chẳng xem bộ phim nào, chẳng xem ti vi, một chút tiêu khiển cũng không có, cuộc sống của tôi là thiền định và viết sách, chính là thiền định và viết sách đã khắc họa cuộc sống ba năm nay của tôi. Những khổ cực như vậy chính là vì lợi ích cho Trời - Người, nếu như tôi không viết ra, tôi chết đi rồi thì chúng sinh phải làm sao đây?"

"Pháp Đại Viên Mãn có lợi ích gì?"


"Đại Viên Mãn - pháp số một của Mật tông Tây Tạng, được nói đến trong nhưng kinh điển bí mật được cất giữ là pháp có công đức số một, đáng tiếc là từ sau khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền pháp, Ngài đã cất giấu pháp Đại Viên Mãn này trong đất - nước - lửa - gió - không khí, hy vọng gặp người hữu duyên lấy được chúng ra. Đến nay, ở Tây Tạng, nghe nói pháp Đại Viên Mãn đã thất truyền rồi, không có nhiều người biết pháp này, biết pháp này nhưng chưa gặp được người có đại căn khí thượng thánh thì cũng không được tùy tiện truyền, do vậy, pháp Đại Viên Mãn đã thất truyền rồi. Thật ra, nếu có người biết về pháp Đại Viên Mãn, hơn nữa còn bí mật tu pháp Đại Viên Mãn, có được đắc chứng, thì lợi ích cũng lớn vô cùng. Ở trong đất nước của vị đại thánh nhân này tuyệt đối không có kẻ nào dám đến xâm phạm, cũng có nghĩa là không có họa binh đao. Ở tại quốc gia này, vì có người bí mật tu pháp Đại Viên Mãn và đắc chứng, những thay đổi kì quái của tinh tú cũng sẽ bị loại trừ sạch sẽ, ví dụ như họa nước, họa lửa đều sẽ không xuất hiện, bão cũng sẽ chuyển hướng, những bệnh dịch lưu hành đều sẽ tiêu diệt, những hiện tượng chết bất đắc kì tử của con người cũng sẽ giảm thiểu, không gặp những tai họa sương giá mưa đá, trong nước không có yêu tinh quỷ mị, yêu tinh quỉ mị đều chạy thật xa, đất nước này sẽ trở nên mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an."

"Nói như vậy thì, nếu tu trì pháp Đại Viên Mãn đắc chứng ngộ, có thể cứu nước cứu dân."


"Đúng vậy, điều này cũng đã được ghi chép lại trong một số kinh điển, ví dụ như "Thủ hộ quốc giới chủ đà la ni kinh", "Tô Bà Hô Đồng Tử kinh", "Thất Phật thần chú kinh", "Bảo tạng đà la ni kinh", v.v… Người tu pháp Đại Viên Mãn mà đạt được thành tựu có thể nói là đại thánh nhân, đại thánh nhân có Trời Rồng hộ trì, tất cả thiện thần sống ở quốc thổ và vùng trời mà đại thánh nhân cư trú tự nhiên những tai họa bệnh tật hay binh đao cũng đều tiêu tan biến mất, do vậy nếu có người tu trì pháp Đại Viên Mãn đắc chứng, đất nước ấy tự nhiên sẽ tránh xa được đủ loại tai họa và trở ngại."

"Có phải ai ai cũng có thể tu pháp Đại Viên Mãn không?"


"Pháp Đại Viên Mãn phải là người có căn khí thượng thánh mới có thể tu chứng, không phải là pháp mà ai ai cũng có thể tu được, hơn nữa ở đây có rất nhiều các điểm mấu chốt còn đang ẩn kín, nhất định cần có Thượng Sư đích thân hướng dẫn mới có thể tu đắc. Do vậy khi tôi viết ra pháp này, tôi chỉ viết ra những phần cốt yếu, thông thường những khẩu quyết chi tiết thì không có cách nào viết đầy đủ từng cái một được. Điều này cần xin mọi người lượng thứ, bởi vì ở đây có rất nhiều thứ mà không có cách nào dùng bút để viết ra được, do vậy đại pháp cần phải đích thân truyền, không thể học chỉ bằng đọc sách."

"Xin hỏi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền pháp Đại Viên Mãn cho Thầy rồi còn truyền thụ cho ai nữa không?"


"Liên Hoa Sinh Đại Sĩ quán đảnh và truyền thụ cho tôi pháp Đại Viên Mãn ròng rã suốt một năm. Ở đây tôi chỉ biết Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền pháp cho một mình tôi, còn có truyền cho người nào khác không thì tôi không biết, có thể có, cũng có thể không có."

Nếu như cô đọng pháp Đại Viên Mãn số một vào trong vài câu nói thì tôi sẽ nói như sau:

Đây là Phật thừa đệ nhất thiên hạ, tối thượng vô thượng.

Nhập vào pháp môn này và đắc chứng, chắc chắn đời này thành Phật.

"Triệt tức" là định, tức là Tánh Không.


"Thoát cát" là huệ, tức là Trí Huệ.


Nếu dùng cách so sánh mà nói thì Tánh Không là gốc, là Đại Nhật, còn Trí huệ là ánh sáng của Đại Nhật. Pháp Đại Viên Mãn này là tổng hợp của tất cả Phật pháp, hoàn toàn là đạo lý định huệ song vận. Ở đây không phải là báo thân xuất tam giới, cũng không phải là thành tựu thân trung ấm, mà là đời này có thể thành Phật.


Theo như tôi biết, có một vị Hoạt Phật cũng mật tu pháp Đại Viên Mãn, vị ấy chính là Chương Gia Du Hí Kim Cương người đã viết "Bài ca tri kiến", là Chương Gia Quốc sư, sư phụ của Hoàng đế Ung Chính. Ông ấy từ chỗ của Cách Tải Hoạt Phật ở chùa Cát Đà học được pháp Đại Viên Mãn, từ đó mật tu pháp Đại Viên Mãn. "Bài ca tri kiến" của ông chính là được viết ra khi ông thấu đáo triệt để, người "trong nghề" như chúng tôi chỉ cần đọc là biết, đó là tâm yếu của pháp Đại Viên Mãn. Cách Tải Hoạt Phật truyền pháp cho Chương Gia Quốc sư, việc này được ghi chép trong "Cát Đà Tự Chí". Chùa Cát Đà ở huyện Bạch Ngọc vùng Kham Tây Tạng. Đáng tiếc là Chương Gia Quốc sư không tìm được một người có đại căn khí, do vậy, pháp Đại Viên Mãn của Chương Gia Quốc sư đã không có truyền nhân.


Trong một năm, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã bí mật truyền thụ pháp Đại Viên Mãn cho Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư. Giờ đây, tôi cũng phải tìm người để bí mật truyền thụ, đệ tử có chí muốn học pháp phải là bậc thượng thánh mới được, cần muốn tức thân thành Phật, muốn cứu nước cứu dân, không học "A để ma ha san để du già" thì pháp này cũng sẽ thất truyền ở khắp mọi nơi.


Giờ đây, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư có pháp Đại Viên Mãn, thật sự là sự thù thắng đệ nhất thiên hạ của Linh Tiên Chân Phật Tông.


20. Giảng lợi ích của Đại Viên Mãn (2)


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ kể về quá khứ của chính Ngài, nói rằng quá trình bản thân Ngài học pháp, ở một nơi có tên gọi là Thưởng Lãng Nhược Nhĩ, có một tòa tháp tên là Calaca. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ ở trong bảo tháp này tu luyện năm năm, ở trong bảo tháp này mà phát bồ đề tâm.


Vì nguyên nhân phát bồ đề tâm, trong không trung liền có Kim Cương Tát Đỏa cưỡi voi quý hiện thân, tay phải cầm chày, tay trái cầm chuông, truyền thụ cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ pháp Ma ha du già. Pháp Ma ha du già này vốn là "Phật quán tưởng", cũng chính là một trong những tâm pháp của pháp Đại Viên Mãn, quán tưởng toàn bộ đất - nước - lửa - gió - không khí thành cung điện của Phật, tất cả chúng sinh đều là Phật, thậm chí tất cả noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh, thai sinh đều coi là Phật, tất cả âm thanh đều là Phật ngữ mật ý, tất cả ý niệm đều là Phật tâm. Còn Kim Cương Tát Đỏa truyền cho Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chính là 18 pháp của Ma ha du già.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói với tôi, Liên Sinh Kim Cương Thượng Sư đã phát đại bồ đề tâm, vì thế đã làm cảm động tới Liên Hoa Sinh Đại Sĩ khiến Ngài hạ giáng hiện thân, truyền dạy pháp Đại Viên Mãn. Việc này cũng giống như bản thân Ngài năm xưa đã làm cảm động tới Kim Cương Tát Đỏa khiến Ngài hiện thân truyền pháp.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ phát bồ đề tâm, Kim Cương Tát Đỏa cảm động mà hiện thân.

Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư phát bồ đề tâm, Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cảm động mà hiện thân.


Ở đây đều có nhân duyên với nhau.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ hướng dẫn chuyển thức thành trí như sau:


Một người tu trì, thường thường là vì nghiệp chướng sâu dày mà cản trở mọi sự thâm nhập vào chánh định, những người như vậy cần thường xuyên tưởng niệm: "Từ vô thủy đến nay, liên tục cho đến ngày hôm nay của kiếp này, có thể nói ta đã ở trong biển khổ sinh tử luân hồi chuyển thế rất nhiều kiếp rồi, những nghiệp chướng mà ta đã gây ra cũng rất nhiều rồi, đó là một việc vô cùng đau khổ. Đến ngày hôm nay, vẫn không thể hiểu rõ tất cả tiền nhân hậu quả, vẫn chưa chứng ngộ cảnh giới chân thực của Phật pháp, trong quá trình tu hành hôm nay vẫn xuất hiện rất nhiều hoàn cảnh khó khăn, có người căm thù ta, có người ghen ghét ta, có người hại ta, có người quấy nhiễu ta, nhưng ta hãy xem chúng là những nghiệp chướng kiếp trước, đừng để chúng làm ta hỗn loạn, tất cả đều không cần để ý đến, lại càng xem chúng như sự trợ duyên để thành đạo, khiến bản thân càng dũng cảm thẳng tiến, mọi sự quấy nhiễu đều không nghe không thấy, như thế có thể loại bỏ nghiệp chướng, tiến nhập vào thiền định sâu hơn, tự tánh tỏa sáng, kiến tánh thành Phật."

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Thường xuyên ghi nhớ như vậy thì sẽ tiêu được nghiệp chướng."


Tôi nhớ đến rất nhiều người viết thư cho tôi đều oán trách thế này: "Ông Trời thật quá bất công, thiên hạ này làm gì có công lý, Phật cái gì, Thần cái gì, đều là lừa gạt người ta. Cả đời tôi làm người thanh bạch, đã làm không ít việc thiện, cả đời hành thiện, thế mà không ngờ lại gặp phải ác báo, nhân quả cái gì, luân hồi cái gì, đều là các chiêu trò lừa bịp của các nhà tôn giáo, kẻ xấu làm bao nhiêu việc xấu mà chẳng thấy báo ứng, trái lại còn được hưởng phúc, còn người tốt làm bao nhiêu việc tốt, trái lại lại phải chịu ức hiếp, rõ rành rành là đen mà lại nói thành trắng, rõ rành rành là trắng mà lại nói thành đen, tôi chẳng tin Phật nữa, chẳng tin Thần nữa, ông Trời ơi, người xấu vì sao không chết hết, còn người tốt thì từ đầu tới cuối đều bị người ta đè đầu cưỡi cổ."


Những bức thư kiểu này nhiều vô cùng, tôi đọc xong, trong lòng cảm thấy rất buồn. Có một số người gửi thư đến với nỗi oán hận cao ngút trời, đều trách Phật không tốt, Thần không tốt, chửi trời hận đất, trong số đó có một người già trước đây một lòng tín Phật, bị trụ trì của một ngôi chùa nọ lừa gạt toàn bộ tiền tích góp cả một đời, khi viết thư khiếu nại tôi, ông tự xưng là "ông già hận Phật". Ông ấy cả một đời tôn kính Phật niệm Phật, kết quả là bị trụ trì chùa Phật lừa hết cả của cải tiết kiệm một đời, bảo sao ông ấy không hận, thế nên ông tự xưng là "ông già hận Phật".


Tôi cũng nghĩ đến chính mình, bản thân tôi hơn mười năm trước, Phật Bồ Tát ban cho tên của tông phái là Linh Tiên, nay bản thân không thể dùng tên này vì đã bị người khác chiếm dụng mất rồi. Nếu tôi là một người bình thường thì sao có thể không tức đến mức thổ huyết mà chết chứ, tên của tông phái bị chiếm mất, Phật Bồ Tát làm ăn được cái gì chứ, tôi tu trì đã hơn mười năm rồi, cũng đã xưng tên của tông phái hơn mười năm, cuối cùng ngay đến một cái tên cũng không giữ được, chẳng phải là quá đáng thương sao.


Thế nhưng, bản thân tôi nghĩ, đó là vì nghiệp chướng của tôi nặng quá, nhân quả kiếp trước của bản thân quá dở tệ, người khác căm thù tôi, lừa gạt tôi, hăm dọa tôi, chửi tôi, giết tôi, quấy nhiễu tôi, đó là nghiệp chướng của bản thân đó! Do vậy, để tiêu trừ những nghiệp chướng này, tôi cần nghĩ thông suốt tất cả, buông bỏ tất cả, thế rồi dũng cảm tiến lên trước, trái lại càng hăng hái tích cực tuyên dương Phật pháp.


Không chỉ có thế, tôi càng cần phải độ hóa cho họ, bởi vì chúng sinh đều là Phật, người tốt là Phật, người xấu cũng là Phật, người chửi tôi là Phật, người giết tôi cũng là Phật, nếu có Phật duyên thì tương lai đều tự xem như là Phật, đây là suy nghĩ không phân biệt, người chửi tôi giết tôi sau này cũng đều có thể thành tựu Phật đạo. Đó là cảnh giới của tôi.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ dạy cho tôi như sau:


Người chửi ngài giết Ngài, trong đời tương lai của họ, vì nhân duyên chửi Ngài, giết Ngài, chắc chắn sẽ đầu thai ở quanh Ngài, trở thành người thân thiết nhất của Ngài. Còn Ngài trong đời tương lai chắc chắn sẽ lại xuất hiện để độ chúng sinh. Như vậy, họ vừa có được sự cảm hóa của Ngài, nếu nhất niệm thành thiện, niệm niệm tại Phật, thì tương lai chắc chắn sẽ thành Phật.

Do vậy, người chửi Ngài, giết Ngài chắc chắn trong tương lai sẽ thành Phật là điều không có gì phải nghi ngờ.


Đây là suy nghĩ không phân biệt, là tâm niệm Đại Viên Mãn cao nhất.


Tôi có được sự giáo hóa và khai thị của Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, lòng tức giận liền lắng xuống, thật sự là khoan khoái vô cùng. Vừa nghe tiếng chửi tôi, giết tôi thì tôi đã vô cùng vui vẻ và thoải mái, lí do là vì người chửi tôi, người giết tôi sau này nhất định sẽ thành Phật.


Lợi ích của pháp Đại Viên Mãn không ngờ có thể khiến cho người chửi tôi giết tôi cũng có thể thành Phật, như vậy thì mới có thể xưng là pháp Đại Viên Mãn chứ.


Trong "Tối thắng tổng trì kinh", "Lâu các đà la ni" đều ghi chép lại rằng, viết chú đà la ni vào trong tượng Phật, trong tháp, trên cờ phướn tràng phan, trên vách núi, trên đồng hồ, trên chuông, v.v… nếu có chúng sinh nhìn thấy, nghe thấy, hoặc có gió thổi qua, thì những chúng sinh ấy cũng có thể tiêu trừ được mọi nghiệp chướng, tương lai của họ cũng nhất định sẽ thành Phật, bởi vì công đức của đà la ni là lớn nhất.


Thậm chí ngũ nghịch tội rất nặng là làm thân Phật chảy máu, giết cha mẹ, giết hòa thượng và acharya [ a-xà-lê ], phá tăng nhân thuyết pháp, giết thánh nhân, nghiệp báo nặng như vậy cũng sẽ vì công đức của đà la ni mà được hóa giải tiêu trừ, do vậy công đức của Mật giáo là số một.


Người tu trì pháp Đại Viên Mãn không hề xem ma là ma, cũng không hề xem chúng sinh là chúng sinh, mà là xem ma là Phật, cũng xem chúng sinh là Phật, quan niệm trong thân tâm tất cả là Phật, đất - nước - lửa - gió - không khí đều là cung điện Phật, mọi ma là Phật, mọi ma đều không thể làm hại ta, cho dù chúng có làm hại thì tương lai cũng chắc chắn sẽ thành Phật.


Tôi tu trì pháp Đại Viên Mãn, tự biết rằng người chửi tôi, giết tôi trong tương lai cũng chắc chắn thành Phật, vì đời tương lai của họ chắc chắn sẽ được độ hóa, việc có lợi ích cho Trời - Người này khiến trong lòng tôi sinh ra niềm vui sướng lớn lao, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư là đại bi tôn giả.


21. Giảng lợi ích của Đại Viên Mãn (3)


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từng tu luyện ở một nơi gọi là "Sitocha", đó là một nơi hiếm thấy dấu chân người, không chỉ có nhiều yêu ma quỷ mị mà còn có rắn độc và thú dữ, đám rắn độc và thú dữ đều kéo tới bao vây muốn ăn thịt Liên Hoa Sinh Đại Sĩ. Tuy nhiên Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã tu thành tựu pháp Đại Viên Mãn, thân thể như ánh sáng huyễn hóa, rắn độc cắn vào cũng giống như cắn vào một vật ảo, không thể cắn vào thực thể, còn động vật giơ móng vuốt sắc nhọn ra nhưng cũng không túm được đến thực thể, bởi thế Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã tránh được sự độc hại của rắn độc và mãnh thú.


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói: "Tu pháp Đại Viên Mãn, tất cả mọi điều có hại đều không thể chạm tới thân." Người tu trì pháp vô thượng Đại Viên Mãn biết thế giới này như huyễn, đời người như huyễn, tất cả sinh lão bệnh tử như huyễn. Người tu trì đạt tới khả năng hóa thành ánh sáng có thể loại trừ tất cả độc hại trên thân mình, tỉ dụ có người của giáo phái Ngũ Độc sử dụng độc cũng không thể làm hại được một người tu hành như vậy. Còn đối với tất cả bệnh tật: Bệnh do ma quỷ, bệnh động kinh, bệnh điên, bệnh ngoài da, bệnh phù, bệnh phong thấp, bệnh nhiệt nóng, bệnh đau xương, các loại bệnh ở đầu, bệnh thân, bệnh tay, bệnh chân, bệnh lục phủ ngũ tạng,… trăm nghìn vạn loại bệnh đều không thể đến thân. Bởi vì tu trì pháp Đại Viên Mãn đến cuối cùng thì không gì chạm được tới thân, vì thân đã hóa thành ánh sáng, do vậy có thể cách xa tất cả nghiệp chướng.


Theo như Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chỉ cho tôi, tu trì pháp Đại Viên Mãn có rất nhiều lợi ích:

Tôi biết đến những lợi ích lớn lao của pháp Đại Viên Mãn này thì vô cùng thán phục, thì ra pháp Đại Viên Mãn này còn vượt qua cả Tạng thừa quang minh tối thượng trên cả Cửu thừa, vừa ẩn giấu Phật tánh trí huệ, bao gồm cả các mức độ tâm yếu rộng lớn, trung bình và giản lược, là tri kiến tự nhiên. Tôi sâu sắc biết rằng tâm pháp của những gì mà Tổ sư Đạt Ma của Thiền tông (Đông phương đệ nhất Tổ) và Lục tổ Huệ Năng đã tu tập có điểm tương đồng với pháp Đại Viên Mãn, phàm ai tu học dựa theo pháp Đại Viên Mãn thì đều có đại tu chứng, có đại thần thông.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói:


"Một người tu tập pháp Đại Viên Mãn thường xuyên tưởng nhớ thập phương Như Lai, hết thảy Bồ Tát của thập phương tam thế, tâm trụ trong hư không, hoàn toàn ở trong cái tâm chăm chú ngừng suy nghĩ, tu tập rất nhiều tịnh pháp bí mật, tất cả hữu hình quán thành huyễn, phát đi nguyện vọng quảng đại, đến khi tất cả đều thành tựu rồi thì cũng có thể biến hóa thành huyễn, sau khi biến thành huyễn hóa thì tự mình có thể độ hóa chúng sinh huyễn hóa."

Tôi viết một bài kệ:

"Lợi ích quần sinh Đại Viên Mãn

Hữu tình hữu duyên kính phụng hành

Nhập thế xuất thế đều thắng lợi


Hạnh phúc yên ổn ích lợi tăng."


22. Giảng lợi ích của Đại Viên Mãn (4)


Còn nhớ mỗi lần tôi tu trì, trước tiên tôi luôn luôn quán tưởng vũ trụ là không, thân mình là huyễn, khiến thân mình biến mất, ý thức của mình hoàn toàn không còn, và chính vào lúc này, chân tánh mới hiển lộ.


Khi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chỉ dạy cho tôi, Ngài dùng tay điểm lên các huyệt đóng trên toàn thân tôi, không gì khác ngoài mục đích khiến tôi sớm nhập vào tánh Không, pháp điểm huyệt đóng này thật sự là một sự việc kì diệu lớn lao. Cuối cùng tôi đã hiểu rồi, thì ra sự thành tựu hay không thành tựu của tu pháp, nếu không có Kim Cương Thượng Sư chân chính chỉ dạy thì không thể đạt được. Đặc biệt là khi tu pháp cao nhất, chỉ có Kim Cương Thượng Sư là người hiểu rõ tất cả những điểm mấu chốt và thần diệu.


Tu trì giống như một người leo núi, cứ leo mãi, đến khi sắp tới đỉnh cao nhất rồi, nhưng toàn thân đã mệt mỏi, bỗng nhiên có một người với sức mạnh vô cùng đẩy cho bạn từ sau lưng, thế là bạn leo lên được tới đỉnh cao số một thiên hạ. Người đẩy lưng cho tôi này là vị Phật thứ hai xứ Orgyen -  Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, là vị Tổ Sư số một của Tạng mật, đương nhiên đó là một vị Kim Cương Thượng Sư chân chính rồi.


Một người tu trì pháp Đại Viên Mãn có được đắc chứng, có thành tựu vô cùng bất khả tư nghì, có thể vận dụng đủ loại tu trì để giúp đỡ người khác.


Ví dụ như đệ tử của họ chỉ cần được họ quán đảnh, dù tâm tư không thể quán Không, nhưng luôn luôn nghĩ về Thượng Sư, mỗi lần tu trì đều nghĩ về Thượng Sư, cho đến khi mọi ý niệm thành thục rồi thì sẽ đạt được sự tương chiếu của ánh sáng Đại Viên Mãn, nghiệp chướng được tiêu trừ. Tương lai vị Thầy này lên đến Địa nào thì đệ tử của họ cũng có thể lên được Địa đó, điều này trở thành sự đồng thể đồng linh đồng quang giữa Thầy và Đệ Tử, không hai không khác.


Các đệ tử luôn nhớ về Thầy, thành tựu cao nhất của họ chính là thành tựu của Thầy, Thầy thành tựu cái gì thì đệ tử sẽ thành tựu cái đó, Thầy đắc Đại Viên Mãn thì trò cũng đắc Đại Viên Mãn. Trung Quốc xưa kia có câu thành ngữ là "một người đắc đạo, gà chó lên trời", câu này nói rằng một người tu đạo đắc thành tựu thì gà chó cùng bay lên trời, giống như một người thành Phật thì cửu huyền thất tổ đều được siêu sinh hết.


Đến nay, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư đã đắc thành tựu Đại Viên Mãn, chỉ cần đệ tử luôn luôn nhớ về Thầy, luôn quán chiếu như thế, tu tập như thế, đệ tử cũng có thể có được ánh sáng Đại Viên Mãn, sẽ có được đại thành tựu. Đó là đạo lý một người đắc đạo, tất cả đệ tử đều siêu sinh.


Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư đã đắc thành tựu hóa thân cầu vồng của pháp Đại Viên Mãn, và trong số các đệ tử của Thượng sư cũng có rất nhiều người có được ánh sáng Đại Viên Mãn, tôi đặc biệt chứng minh rõ như sau:


Có một đệ tử không có tiền để mua tượng sứ tạc hình Thượng Sư để thờ cúng, thế là anh ta mua một ít đất nặn, rồi dùng dao khắc ra một hình tượng Thượng Sư rất rất nhỏ (không hẳn là giống), thế rồi anh ta đặt bước tượng Thượng Sư bằng đất nặn cúng tại pháp đàn rất thô sơ của mình, mỗi ngày anh đều quán tưởng tụng chú và xem bức tượng đất nặn như vị Thầy thật sự.


Cứ tu trì như vậy một thời gian dài, mỗi ngày nhắm mắt lại, hình ảnh bức tượng đất nặn ghi dấu ấn trong đầu. Không lâu sau, anh trông thấy bức Thượng Sư đất nặn rõ ràng trên đỉnh đầu có ánh lửa xuất hiện, là ngọn lửa xuất hiện từ đỉnh đầu của Thượng Sư. Anh ta nhìn thấy thế thì vô cùng kinh ngạc. Vào buổi tối hôm đó, anh nhìn thấy Thượng Sư đến, chạm đầu thọ kí cho anh, anh bay cao lên tận hư không, đến Tây phương Cực lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì, trông thấy pháp thân Liên Hoa Đồng Tử màu trắng.


Theo tôi được biết, trong khi tu pháp, nhìn thấy trên đầu bức tượng sứ hình Thượng Sư xuất hiện ngọn lửa, hoặc quanh thân của Thượng Sư có lửa, hoặc là toàn thân rực sáng, đó đều là sự tương ứng với ánh sáng Đại Viên Mãn của Thượng Sư. Rất nhanh chóng, Thượng Sư sẽ sờ đầu thọ kí cho đệ tử, đưa đệ tử bay vào hư không, đi du hành khắp thập phương Phật quốc. Đó là thành tựu số một của việc tu trì pháp Thượng Sư tương ứng Guru Yoga. Chỉ cần có được sự tương ứng như vậy thì thành tựu sau này của Thượng Sư cũng chính là thành tựu tương lai của đệ tử, Thượng Sư có thể đến chỗ nào thì đệ tử cũng có thể đến chỗ đó, hai hợp làm một, không có sự khác biệt.


Lại có một đệ tử khác, anh ta thờ cúng pháp tướng của Thượng Sư tại pháp đàn, nhưng pháp tướng của Thượng Sư không có tòa hoa sen, anh ta tự động lấy một tòa sen gắn vào bên dưới bức pháp tướng của Thượng Sư, rồi đóng vào trong khung thủy tinh, thờ cúng tại pháp đàn. Anh ta cảm thấy làm như vậy thì Thượng Sư sẽ càng trang nghiêm hơn, thế là mỗi ngày anh tu pháp quán tưởng, trải qua thời gian nhiều năm.


Có một lần, anh nhìn thấy tòa hoa sen phía dưới pháp tướng của Thượng Sư biến thành một đám mây khói, là mây bảy sắc cầu vồng, còn Thượng Sư thì giống như ngồi trên mây khói, ngồi trên đám mây bảy sắc cầu vồng. Anh lại nhìn thấy đám mây khói này bao bọc lấy cả Thượng Sư, pháp tướng và tòa hoa sen đều biến thành khói, anh ta vô cùng sửng sốt. Thế rồi đêm đó, Thượng Sư đến nói với anh rằng việc tu pháp của anh đã có tương ứng rồi, sau này anh sẽ là thiên chủ của một đất nước trên thiên thượng giới, có thọ mệnh vạn vạn tuổi tại thiên thượng giới.


Người đệ tử này nhìn thấy tòa hoa sen của Thượng Sư hóa thành mây khói, lại nhìn thấy Thượng Sư hóa thành mây khói, nhưng không nhìn thấy ánh sáng, đây cũng là hiện tượng tương ứng của pháp Thượng Sư tương ứng. Mây khói là đại diện cho thiên thượng giới, tương lai của người đệ tử này có thể làm thiên chủ.


Lại có một đệ tử khác, anh ta không có tiền để mua một bức tượng sứ hình Thượng Sư để thờ, nhưng anh có xin một bức ảnh thiên tâm phát quang (bức ảnh này là do tiến sĩ Hạ Vĩnh Hàn vô tình chụp được). Anh bèn đem bức ảnh Thượng Sư thiên tâm phóng quang thờ ở pháp đàn.


Người đệ tử này tu pháp Thượng Sư tương ứng, đã lâu vẫn chưa tương ứng, như vậy suốt hai năm, chẳng hề có cảm giác gì. Khi tu pháp, anh chuyển ánh sáng từ thiên tâm phát quang của Thượng Sư thành một vòng tròn chiếu đến trán của mình, cứ quán tưởng như vậy và tu như vậy. Cho đến một ngày, khi anh phát hiện thấy ánh sáng trên trán của Thượng Sư chiếu đến trán của mình, bỗng nhiên có hơi thở ấm áp, một chút ấm, một chút nóng, và toàn thân mình dường như cũng tỏa nhiệt nóng lên, hỏa ở đan điền của anh đi lên, hỏa ở thiên tâm của Thượng Sư tỏa hơi ấm đi xuống, hai khối nhiệt này hòa vào nhau hợp làm một.


Người đệ tử này vào đêm hôm đó mơ thấy Thượng Sư bảo anh đã có tương ứng rồi. Đệ tử này cảm ứng thấy rất nhiều, rất nhiều phúc thần thường đến bảo vệ, có quỷ thần đến trước mặt nghe lệnh. Anh dùng tất cả thần chú để gia trì cho nhiều người đều vô cùng viên mãn và hiệu nghiệm, tất cả những gì anh mong cầu đều được như ý. Anh cũng biết rằng sau này sẽ có thể thăng lên cõi trời, có được sự kính ái của thiên nhân.


Ba ví dụ trên đều là những sự tương ứng chân thực.


Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư là vị Kim Cương Thượng Sư đã đắc pháp Đại Viên Mãn, có pháp môn tiện lợi bất khả tư nghì để độ hóa chúng sinh. Chúng sinh chỉ cần tu pháp Thượng Sư tương ứng, trì tâm chú của Thượng Sư, niệm niệm luôn nghĩ về Thượng Sư thì tự sẽ có sức mạnh bất khả tư nghì xuất hiện, mong cầu việc gì đều có thể có được, tùy theo ý muốn, tự có thể siêu phàm nhập thánh.


Đây chính là lợi ích của pháp Đại Viên Mãn, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư do được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chân truyền pháp Đại Viên Mãn, truyền thừa của Thượng Sư do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chân truyền, đó là chuyện xưa nay chưa từng có, cũng là điều bất khả tư nghì số một trong thiên hạ.


Hôm nay, nếu có người tín thọ phụng hành, tu một trong các loại Mật pháp, thế thì đệ tử của Thượng Sư có thể xem như là khắp nơi thành tựu ánh sáng của trí tuệ và phước lành, chuyển đại pháp luân vô thượng số một trong thiên hạ.


23. Giảng lợi ích của Đại Viên Mãn (5)


Rất nhiều đại pháp trong Mật tông đều dạy hành giả Mật tông tại nhân gian tu tập phương pháp bí mật của bồ đề đạo, có một số người tu tập thành thục thì tự nhiên có thể tự tiếp thành Phật, không cần phải đến lúc lâm chung có Phật đến tiếp dẫn vãng sinh. Nhưng người chưa tu tập thành thục thì không thể trực tiếp thành Phật, cần phải học tập mật pháp Trung ấm siêu độ. Mật pháp Trung ấm siêu độ này kì thực chính là "trung ấm vấn độ", tên tiếng Tạng là "bardo thödröl" [ ND: Giải thoát thông qua sự nghe trong cõi trung ấm ]


Đại ý của pháp này là, một vị Kim Cương Thượng Sư đắc chứng sẽ ghé môi vào cạnh tai người chết, chỉ dạy cho linh thức của họ đừng tán loạn, chỉ dạy cho linh thức quán tưởng mật pháp mà được độ. Thứ hai là nếu thi thể người chết không ở gần đó, lấy vật mà người chết thường dùng, trước tiên gọi linh thức của người chết đến, sau đó dạy cho linh thức diệu pháp thượng thừa, khiến cho linh thức của người chết không phân tán, siêu thoát nghiệp lực và chướng ngại, như thế thì có thể được cứu.

Mật pháp cứu độ trung ấm này bao gồm:

Thời cơ để thực hiện cứu độ này có thể vào lúc hành giả Mật tông sắp chết nhưng chưa chết, mau chóng phụng thỉnh Kim Cương Thượng Sư chỉ dẫn, tiến nhập vào cảnh giới thực tướng quang minh. Cũng có thể vào lúc sau khi hành giả Mật tông đã lâm chung, triệu thỉnh làm pháp, hướng dẫn cho linh thức của người đó tiến vào cảnh giới thực tướng quang minh. Thời cơ cuối cùng là hành giả Mật tông đã thâm nhập vào cảnh giới trung ấm, sản sinh ra vọng tâm, Kim Cương Thượng Sư chân chính trước tiên cần đóng chặt lại thai môn của người chết, khiến cho linh thức của người chết không thể đi ra từ thai môn thấp kém, sau đó, Kim Cương Thượng Sư lại làm pháp khiến cho linh thức của người đó mau mau tỉnh lại để có thể được cứu vớt.


Theo như tôi biết, một người chết đi, linh thức của họ ở trong thân thể xương thịt khoảng ba tới bốn ngày mới có thể thoát ra khỏi thân thể, trong khoảng thời gian này thì họ giống như ở trong một cảnh giới hôn trầm hoảng hốt, cảnh giới này so với mơ thì còn sâu hơn, dễ đánh mất bản tánh hơn. Do vậy Mật pháp cứu độ trung ấm (bardo thödröl) cực kì quan trọng. Vào những thời cơ này cần thức tỉnh linh thức của người chết, khiến người chết nhận thức được tâm tính của bản thân cần hướng về bản thể quang minh, hợp với bản tánh chân trí của Pháp giới, và nhận thức được rằng không thể đi theo ánh sáng mê hoặc nhiều màu sắc, tự nhiên có thể đến được bỉ ngạn, đến được kim cương trì địa viên mãn!


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói với tôi, hành giả Mật tông tu chứng được pháp Đại Viên Mãn thì đại thần thông là bất khả tư nghì, người ấy chỉ cần tưởng niệm về hình tượng của người chết thì người chết lập tức có thể thoát khỏi bị đọa vào tam ác đạo, sự tưởng niệm này giống như ánh mặt trời chiếu lên những giọt sương trên cỏ khiến chúng bốc hơi mà bay lên vậy.


Hành giả Mật tông tu Đại Viên Mãn gia trì tâm chú viên mãn lên đất cát rồi sau đó tung đám đất cát này lên trên mộ của người chết thì linh thức của người chết lập tức có thể siêu thăng lên cõi trời, không chỉ có thể lên trời mà thậm chí lập tức có thể đến được Tây phương Cực lạc thế giới tịnh thổ.


Áo cà sa của hành giả Mật tông tu Đại Viên Mãn nếu khoác lên thân người chết thì người chết không nhập vào tam ác đạo, chắc chắn vãng sinh đến thiên thượng giới, nếu khoác lên thân người bệnh thì nghiệp chướng của người bệnh sẽ được giảm nhẹ, cũng rất dễ khỏi bệnh, bệnh có thể trở nên tốt đẹp hơn.


Đôi mắt của hành giả Mật tông tu pháp Đại Viên Mãn nhìn thấy người nào thì những người đó sẽ sinh ra Phật duyên, tương lai của họ cũng nhất định sẽ thành Phật, bởi vì những người bị nhìn thấy này do đã được "Vô Cấu Tịnh Quang" chiếu tới, nhãn quang của hành giả Mật tông Đại Viên Mãn có công đức như vậy.


Sự hít thở của hành giả Mật tông Đại Viên Mãn, khí thở ra là màu trắng, phàm tất cả phàm phu nếu hít vào hơi thở của hành giả Mật tông Đại Viên Mãn thì nghiệp chướng cũng tự nhiên tiêu trừ, có bệnh tự sẽ giảm nhẹ, tương lai chắc chắn sẽ có Phật duyên, và cũng chắc chắn có thể thành Phật. Đó là vì tiêu trừ hết thảy nghiệp chướng, kiếp sau đến được nơi có Phật pháp, nhờ tu trì mà chứng ngộ được tịnh thổ Phật quốc.


Hành giả Mật tông Đại Viên Mãn uống hết nửa chén trà, nửa chén trà còn lại cũng giống như nước cam lộ, nếu có người uống nửa chén trà này thì tất cả nghiệp chướng đều có thể tiêu trừ, trên thân tỏa ra hương thơm, Phật duyên gia tăng, có bệnh hết bệnh, lập tức có được lợi ích lớn, tất cả tai nạn không phát sinh trên thân người này, sau khi chết cũng không vào tam ác đạo, tuyệt đối vãng sinh Phật quốc.

Người thân của hành giả Mật tông Đại Viên Mãn gồm cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em trai gái, v.v… cũng sẽ được diệt trừ hết thảy nghiệp tội, mười ác nghiệp và năm nghịch tội cũng đều tiêu trừ. Người nào đời này có tu trì thì vãng sanh Phật quốc tịnh thổ, người nào chưa tu trì thì kiếp sau đến được đất nước có Phật pháp.


Hành giả Mật tông Đại Viên Mãn là mặt trời, là không khí, là nước, khiến người chết sống lại, khiến người không tin Phật trở thành tin Phật, khiến người không thể vãng sinh thành tựu vãng sinh, khiến người nghiệp chướng nặng tiêu trừ hết mọi nghiệp chướng, hễ làm điều gì thì đều chắc chắn thành tựu.


Trong quá trình tôi tu trì pháp Đại Viên Mãn, bỗng có một hôm, tôi cảm thấy chính mình đang ngồi trên một con chim công, trên thân mọc ra bốn cánh tay, tay phải thứ nhất cầm bông hoa sen nở, tay phải thứ hai cầm quả cụ duyên, tay trái thứ nhất cầm quả cát tường, tay trái thứ hai cầm lông đuôi chim công. Thân tôi biến thành màu trắng, mặc thiên y màu trắng, đầu đội mũ miện, đeo chuỗi ngọc, khuyên tai, vòng tay, con chim công tôi ngồi lên có màu vàng kim, và trên lưng chim công là đài hoa sen tám cánh.

Tôi hỏi Liên Hoa Sinh Đại Sĩ:

"Duyên này là thế nào?"

Đại Sĩ trả lời tôi rằng:


"Đó là Ma Ha Ma Du Lợi, là Đại Khổng Tước Minh Vương."


Tôi biết Khổng Tước Minh Vương là biến hóa thân của Thích Ca Mâu Ni Phật, mật hiệu là Phật Mẫu Kim Cương. Trong "Khổng Tước Minh Vương Kinh" có viết: "Tỳ kheo Cát Tường xuất gia, không lâu sau, ông đi chặt củi, bị một con rắn màu đen cắn vào ngón chân, tỳ kheo Cát Tường vừa trúng độc rắn thì toàn thân tím đen, miệng sủi bọt sắp chết. Khi ấy, Phật bảo A Nan tôn giả dùng chú Đại Khổng Tước Minh Vương để đi giải cứu, và rồi kết quả của việc dùng chú Đại Khổng Tước Minh Vương là rắn độc không dám đến gần, tất cả ác nhân ác chú đều không thể làm hại."


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ nói với tôi, Đại Khổng Tước Minh Vương chuyên môn tức tai, trừ nạn, trừ bệnh, diên mệnh. Bây giờ tu pháp Đại Viên Mãn thì lợi ích lớn lao cũng là tức tai, trừ nạn, trừ bệnh, diên mệnh, đồng thời có thể cứu độ trung ấm, độ vong, do vậy mà Ngài biến hiện thành Đại Khổng Tước Minh Vương nhằm hiển thị công đức lợi ích giáo hóa chúng sinh của vị này.


Thì ra năng lực cứu độ của pháp Đại Viên Mãn thật sự là thật không phải là giả. Hành giả Mật tông tu Đại Viên Mãn không chỉ giải thoát cho bản thân, cho dù gặp phải người cực kì xấu xa cũng sẽ có sức mạnh gia trì bí mật, khiến người đại ác đó cũng được độ. Tôi biết trên đời này, có biết bao người có căn cơ thấp kém, duyên xấu nghiệp xấu với sức ngăn trở rất mạnh, nhưng đối với lớp người có nghiệp chướng thấp kém cực sâu pháp Đại Viên Mãn cũng có thể từ từ hướng dẫn họ, bởi vì Đại Viên Mãn chân thực và rõ ràng, vì pháp này có sức mạnh công đức vô thượng, có được một lần gia trì thì có thể chuyển xấu thành tốt.


Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư là Kim Cương Thượng Sư chân chính, là Thượng Sư của các Thượng Sư. Hôm nay độc giả gặp được Thượng Sư thiện tri thức, nghe học Phật pháp, trở nên gia tăng niềm hứng thú, đó chính là nhân duyên của thiện pháp, chúng sinh tìm cầu diệu pháp thật sự là không có pháp nào cao hơn pháp này.


24. Giảng lợi ích của Đại Viên Mãn (6)


Liên Hoa Sinh Đại Sĩ chỉ thị cho tôi "bí mật ngữ" như sau:


"Om" - nghĩa là vô tướng, đại diện cho tên gọi chung của tất cả. Hóa ra một chữ "Om" này đã tượng trưng cho tất cả vũ trụ rồi, là tên gọi chung của vạn công đức, "Om" cũng chứa đựng tất cả toàn bộ mọi ý nghĩa. Trong Mật tông mà nói thì "Om" cũng có ý nghĩa của sự dung nhập và quy y quy mệnh ở trong đó.


Đạo Bà La Môn ở Ấn Độ dùng chữ "Om" để đại diện cho ba vị đại Cổ thần Vishnu, Shiva, Brahma, và ba vị đại cổ thần này chính là tượng trưng cho vũ trụ.


Người tu Mật pháp hiểu rằng vũ trụ vốn không, vì chữ "Om" đại diện cho sự không tịch của vũ trụ, trước tiên nhờ chữ "Om" có âm thanh mà tiến vào chữ "Om" không có âm thanh, và rồi đạt đến bên trong cảnh giới vũ trụ và ta hoàn toàn hợp nhất. Hành giả Mật tông nhìn lên bầu trời xanh, vũ trụ hóa thành một chữ "Om", và hành giả Mật tông nuốt lấy chữ "Om" này, thế rồi hợp nhất. Nhờ quan sát chữ "Om", sau đó dung nhập vào chữ "Om" mà có thể rời xa nhân gian thế tục, loại bỏ sự chấp vào nhân - ngã, chứng đắc Vô ngã và Không.


Chữ "Om" này trong Hiển giáo viết cách phát âm là "Án", thật sự là một "không tướng" trọn vẹn nhất, trong chữ "Om" này có sẵn tam thân là pháp thân, ứng thân, báo thân.


"Ah" - chữ này là có uy lực nhất, có thể xem là Phật Mẫu của chư Phật đó! Thậm chí chữ "Ah" này là chủng tử tự chung của chư Phật, từ chữ "Ah" này sinh ra chư Phật Bồ Tát. Vì sao lại nói như vậy? Bởi vì chữ "Om" là "Không tướng", còn chữ "Ah" có ý nghĩa là "thái sơ" nghĩa là sự khởi đầu tuyệt đối. "Ah" chính là sự khởi đầu của tất cả, có chữ "Ah" rồi thì mới có sự ra đời của Phật Bồ Tát, bất kể là Kim Cương Giới hay Thai Tạng Giới thì đều bắt đầu từ hiện tượng "không tướng" đến "thái sơ". "Thái sơ" này là bất sinh bất diệt, chữ "Ah" tượng trưng cho sự khởi đầu tuyệt đối của vũ trụ, và tượng trưng cho sự bất sinh bất diệt của sự khởi đầu tuyệt đối ấy.


"Ba la mật đa tâm kinh" nói "bất sinh bất diệt", "bất tăng bất giảm", "vô tướng vô bất tướng", "bất cấu bất tịnh", "vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý", "vô sắc thanh hương vị xúc pháp", "vô sắc thọ tưởng hành thức", chính là chỉ chữ "Ah", vốn là hiện tượng của vũ trụ "thái sơ".


Hành giả Mật tông cần biết, chữ "Om" biểu thị là Không, chữ "Ah" biểu thị là Một, người tu pháp từ Một vũ trụ thái sơ làm thành quán pháp của tâm, cuối cùng mới dung nhập vào trong không tướng Không của vũ trụ, nhờ chữ "Ah" này mới có thể hiển hiện được diện mạo của chư Phật.


"Hum" - ý tứ hàm súc của chữ này chính là "nở hoa", có nghĩa là hiển lộ tự tánh và đạt đến thành tựu Đại Viên Mãn. Chữ "Hum" này có công đức vô lượng vô biên bất khả tư nghì, có một dạng sức mạnh đại uy đức phổ độ tất cả chúng sinh, tượng trưng cho đại trí huệ, thân kim cương bất hoại, đại quyền uy, đại thần thông.


Nói tóm lại, chữ "Hum" này mang ý nghĩa thành tựu viên mãn. Hoa nở, quả kết, độ chúng sinh, là biểu tượng của Phật đảnh.


Tôi giải thích như sau: chữ "Hum" tượng trưng cho tu trì viên mãn, nhờ có thành tựu của tu trì viên mãn mà đạt đến chữ "Ah" của "hiển lộ tự tánh mà thành Phật Bồ Tát", từ sự thành tựu chữ "Ah" mà dung nhập vào trong chữ "Om" của vũ trụ, chữ "Om" này chính là niết bàn tịch tĩnh.


Ba chữ Om Ah Hum có ý nghĩa như vậy.


Cũng có người giải thích như thế này, Kim cương thừa tối thượng cũng chính là Đà la ni tạng, tất cả mật pháp đều được sinh ra từ chữ "Om" tĩnh tịch của vũ trụ, sau khi chảy ra và thay đổi thì trở thành nghìn dòng vạn sông, và chữ "Om" này là bí mật tạng tổng trì.


Ngày nay, pháp Đại Viên Mãn là bí mật tạng tổng trì vô thượng, cũng chính là pháp môn tổng trì, bất kì một pháp nào cũng đều xuất phát từ pháp Đại Viên Mãn mà ra, do vậy pháp Đại Viên Mãn là tam tạng thập nhị bộ, là mẹ của mọi sự thành tựu Phật.


Pháp Đại Viên Mãn có lợi ích lớn lao vô thượng, là nguồn gốc thành tựu của chư Phật.

Tôi đặc biệt giải thích lại như sau:

"Om" - chân như.

"Ah" - Như Lai.


"Hum" - tự tánh. (ngũ trí)


Thì ra Phật và chúng sinh không hai không khác, Phật không tăng lên, chúng sinh cũng không giảm bớt, chỉ là thế nhân lạc đường nhiều kiếp, từ lâu đã quên mất diện mục vốn có, người giác ngộ là Phật, khi vẫn còn mê vọng thì là chúng sinh. Tôi cảm thấy chúng sinh thật đáng thương, luân hồi lục đạo, chịu mọi giày vò, khổ não bao vây, tâm không có khoảnh khắc vui sướng nào, không ngơi không nghỉ, tranh danh đoạt lợi, mê muội mỹ sắc, vĩnh viễn không hài lòng, những chúng sinh như vậy nên tỉnh ngộ đi thôi, nghĩ mà xem, cần phải tỉnh ngộ! Cần phải tỉnh ngộ đó!


25. Giảng lợi ích của Đại Viên Mãn (7)


Trong mấy chương trước tôi đã giải thích rõ, bởi tôi đã tu pháp Đại Viên Mãn, do vậy phàm là người giết tôi, người chửi tôi, trong đời tương lai cũng sẽ cùng có duyên với pháp Đại Viên Mãn, sớm muộn cũng sẽ có được lợi ích của Mật pháp, tương lai của người ấy nhất định thành Phật.


Cần biết rằng lợi ích của pháp Đại Viên Mãn này có kể ra cũng là bất tận, người tu trì đắc chứng có được pháp thân an lạc, nghĩa là căn bản không còn phiền não nữa.


"Người đã tu pháp Đại Viên Mãn này tồn tại ở khắp nơi chốn, tính bao dung của họ là vô hạn, dường như trong mỗi một người, một vật đều có hình bóng của họ tồn tại. Điều này không phải là huyễn tưởng, mà là một mạng lưới Pháp thân, họ hoàn toàn xem con người trong thiên hạ đều là tay hoặc chân của mình, những con người ấy chẳng qua là sự hoán chuyển của bản thân mà thôi."


Tôi nói như vậy, người bình thường không có cách nào hiểu được, tuy nhiên, bậc Kim Cương Thượng Sư đắc chứng đương nhiên hiểu được ý nghĩa chân thực trong đoạn văn trên của tôi. Bản thân ta ở đây bao gồm người ta coi là kẻ thù, hạng người hèn hạ, đệ tử phản bội, người hạ lưu vô sỉ. Sự ra đời của một bậc Thánh giả không chỉ là phải nghiêm khắc, phải thành thực với chính mình, phải đối diện với bản thân, tiêu trừ thù hận, không chỉ là những điều này, mà quan trọng hơn là phải yêu thương kẻ thù, phải cứu người hèn hạ, tha thứ cho đệ tử phản bội, cứu độ người hạ lưu vô sỉ. Vì sao vậy? Bởi vì tương lai của những người này sẽ nhờ bạn mà thành Phật.


Một người tu Mật pháp, ban đầu có thể đơn thuần, có thể trúc trắc, nhưng sau khi trải qua một khoảng thời gian thì sẽ trở nên chặt chẽ hơn, thuần thục hơn. Nhưng muốn đạt đến Đại Viên Mãn thì vẫn còn một khoảng cách rất dài. Sự đại từ đại bi bề ngoài hoàn toàn không đại diện cho sự đại từ đại bi tâm linh, và sự đại từ đại bi chân chính mới là Đại Viên Mãn.


Đại Viên Mãn này không chỉ là người tu pháp phải nhận thức được, hoặc đi sâu vào phân tích, hoặc nắm bắt được những tri giác trong thiền xem có phải là thuần tịnh tự nhiên hay không, hoặc là nắm bắt được những cảnh tượng chớp nhoáng về động thái sinh mệnh ở trong thiền định, mà ý vị thật sự còn vượt ra khỏi sự tưởng tượng, là hoàn toàn mới mẻ, con người và vũ trụ này đều thuộc về "tự ngã", đó là pháp tánh chân chính.

Thì ra:

"Người coi là kẻ thù" là chính mình.

"Hạng người hèn hạ" là chính mình.

"Đệ tử phản bội" là chính mình.


"Người hạ lưu vô sỉ" là chính mình.


Đương nhiên pháp Đại Viên Mãn là uy lực không gì sánh bằng, thì ra, trong tất cả pháp tánh vũ trụ đều bao gồm hình bóng của chính mình, không ngờ pháp Đại Viên Mãn khiến cho hành giả Mật tông dùng đại từ đại bi chân chính để ứng phó tất cả mọi sự tình, chân lý thực ra chính là Đại Viên Mãn.


Chúa Jesus trong đạo Cơ Đốc có một câu nói chưa nói ra, cũng không kịp nói, câu nói này chính là "Yêu kẻ thù của anh. Này hỡi Juda kẻ phản bội ta! Sau này ngươi cũng sẽ trở thành thần."


Cuối cùng tôi đã hiểu bí mật chân lí của vũ trụ. Từ khi mới học Mật pháp đến khi thành tựu, đại sự tu hành của tôi đã chứng minh được tất cả, tâm linh của tôi và tâm của Như Lai đã hoàn toàn khế hợp, sự khế hợp này khiến tôi giật mình, thì ra tu hành đúng đắn không ngờ lại là như vậy, thì ra Chánh Quả Bồ Đề là như vậy, thì ra tâm ấn chư Phật là như vậy. Đó căn bản là một cảnh giới không có phiền não không có hận thù.


Có đệ tử của tôi vô cùng lo âu về chuyện tên của tông phái bị chiếm đoạt mất, tôi cười ha ha và nói: "Cho dù tên gọi Linh Tiên Chân Phật Tông bị người ta chiếm mất thì cũng có gì đâu, cho dù Linh Tiên Chân Phật Tông đi đời hết thì cũng có làm sao đâu! Cho dù đệ tử toàn thế giới phản bội hết thì cũng có làm sao đâu!"

Tôi cười lớn ha ha, đệ tử của tôi đều trố mắt ra hỏi: "Thầy làm sao vậy?"


Tôi nói: "Phật pháp tối thượng thừa là Vô Thượng Chánh Giác, là pháp tánh tương thông, Thầy đã hiểu bí mật vô thượng của Đại Viên Mãn, đã biết tất cả mọi pháp đều là chân như, còn tất cả vũ trụ và con người đều là sự hóa hiện của chân như, tại pháp tánh cao nhất đều là tương thông. Tên tông phái và đệ tử của Thầy chẳng qua chỉ là diễn biến huyễn tướng tạm thời mà thôi, dù mất đi tên của tông phái hay mất đi các đệ tử cũng không sao cả. Người chiếm mất tên tông phái của Thầy và các đệ tử phản bội sau này cũng sẽ có được lợi ích, cho dù là người giết Thầy, người chửi Thầy, thì tương lai của họ cũng có được lợi ích lớn lao, đó mới là Đại Viên Mãn đó! Bởi vậy, tên tông phái bị chiếm mất, đệ tử phản bội Thầy vẫn là điều đáng chúc mừng mới phải!"


Pháp Đại Viên Mãn là cam lộ của cõi trời, căn bản là không có phiền não, luôn được an vui. Nguyện lực và đại từ đại bi của Đại Viên Mãn là khế hợp với nhau.


Người tốt tự bản thân có thể thành Tiên, thành Phật, không cần phải độ hóa. Trái lại, người xấu, có giết có chửi, kiếp sau sẽ lại có duyên ở cùng, quả báo không xa, nhất định sẽ được độ thành Phật. Chỉ có một loại người tương đối "vô duyên", đó là những người không giết không chửi và cũng hoàn toàn không tin không học.


26. Giảng lợi ích của Đại Viên Mãn (8)


Chủ tôn của hai bộ mandala Mật pháp là Tỳ Lô Giá Na Phật, tức là Đại Nhật Như Lai, ý nghĩa của Ngài chính là đại quang minh biện chiếu. Đại Nhật Như Lai chính là Đại Nhật giáo chủ của Mật tông "Đại Nhật Kinh" và "Kim Cương Đỉnh Kinh". Hình tướng của Ngài có "Đại Nhật Trí pháp thân" và "Đại Nhật Lý pháp thân". Cõi tịnh thổ mà ngài sáng lập được gọi là Đại Nhật Cung Trung Tọa.


A Di Đà Phật có ý nghĩa là vô lượng quang minh, bởi tì kheo Pháp Tạng đã đưa ra 48 đại nguyện, sau khi thấy hai trăm mười tỉ cõi Phật thì Ngài đã hấp thụ tinh hoa của các cõi Phật, sáng lập nên một cõi Phật cực lạc. A Di Đà Phật thành Phật trong mười kiếp, chúng sinh được Ngài cứu độ là nhiều nhất, phân thành cửu phẩm liên hoa, dựa vào quang minh vô lượng và thọ mệnh vô lượng chân thực làm chánh giác, cứu độ chúng sinh.


Cõi tịnh thổ mà Ngài sáng lập nằm ở phía tây của Trung Đài Bát Diệp Viện (Thai Tạng Giới), Kim Cương Giới nằm ở phía tây của bánh xe Ngũ giải thoát, cũng chính là tây phương diệu quan sát trí tam muội. Bổn tôn của Liên Hoa Đồng Tử vốn là cảnh giới của Tây phương Cực lạc thế giới Ma Ha Song Liên Trì, do vậy người tu pháp Thượng Sư tương ứng và đã có được cảm ứng lập tức có thể vãng sinh đến Tây phương Cực lạc thế giới thường tịch quang tịnh thổ.


A Súc Như Lai là bất động, ý nghĩa là không phẫn nộ. Về sự thành Phật của Ngài có thể tìm đọc "A Súc Phật Quốc Kinh", Phật quốc tịnh thổ mà Ngài sáng lập là cảnh giới Diệu Hỷ ở phương đông. A Súc Phật được xưng là Thiện Khoái giáo chủ và Diệu Lạc giáo chủ, cõi tịnh thổ nằm ở phía đông.


Cõi tịnh thổ của A Súc Như Lai nằm ở phía đông, do vậy cũng có người cho rằng, Ngài ấy và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở cõi tịnh thổ Lưu Ly thế giới ở phương đông là dị danh đồng thể [ cùng là một nhưng tên khác nhau ]. Trong Mật tông, pháp cúng dường Dược Sư Như Lai và A Súc Phật là giống nhau. Thề nguyện của A Súc Như Lai và thề nguyện của Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai là giống nhau.


Bảo Sinh Như Lai nghĩa là bình đẳng, cõi tịnh thổ của Ngài ở phía nam, là một vị đại giáo chủ của Bảo Bộ, xung quanh Ngài có bốn vị Bồ Tát là Kim Cương Bảo, Kim Cương Quang, Kim Cương Tràng, Kim Cương Tiếu. Ở phía nam Ngài xây dựng Bảo Bộ tịnh thổ Phật quốc, ở cùng trong tam muội với Bảo Tràng Như Lai.


Bất Không Thành Tựu Như Lai vì có thành tựu đại nguyện nên không bao giờ đánh mất ý vị, do vậy mới xưng là Bất Không Thành Tựu Như Lai. Sau khi Ngài thành Phật được xưng là Tất Địa Kim Cương hoặc Thành Tựu Kim Cương, Bất Không Thành Tựu Như Lai sáng lập tịnh thổ Phật quốc ở phía bắc.


Bất Không Thành Tựu Phật có vạn hạnh đại bi nên còn được gọi là Khai Phu Hoa Vương Như Lai, lí do là Ngài có thể khiến chúng sinh đều đắc được quả Bồ Đề.


Trên đây là năm phương tịnh thổ của Ngũ Phật.

Tôi còn nhớ trong bài tụng Đà la ni năm chữ có bốn câu thế này:

"Nguyện lực của chư Phật

Hiện thành bao điều Thánh

Ngay tại chính chỗ ngồi


Đã thành bậc Chánh Giác."


Cần biết rằng pháp Đại Viên Mãn này là cỗ xe thần thông thành Phật đại bất khả tư nghì, không chỉ có thể đến được tỉ tỉ cõi Phật mà còn có thể tạo nên cảnh giới Phật. Đây là pháp thành tựu bản tánh, thành tựu Kim cương tất địa. Ý của tôi muốn nói rằng người đã hoạch chứng được pháp Đại Viên Mãn thì người bình thường không thể tưởng tượng được sao họ có thể sáng lập nên một cõi tịnh thổ Phật quốc trong "viên viên quả hải". [ ND: viên viên quả hải là cụm từ xuất hiện trong "Hiển Mật viên thông", ý nói về biển của vô thượng viên mãn thánh giác quả đức, biển là sự so sánh để chỉ mức độ sâu rộng không biên giới. ]


Hành giả Mật tông chứng đắc pháp Đại Viên Mãn có thể xây dựng nên cõi Phật quốc tịnh thổ của chính mình giống như Ngũ Phật. Việc này thật sự không phải là điều mà một người bình thường có thể hiểu được. Đây nhất định phải là Kim Cương Bí Mật Chủ Kim Cương Thủ Bồ Tát mới có thể hiểu được đạo lý trong đó, cũng chỉ có Bồ Tát có liên hoa nhãn mới hiểu được sự thâm thúy ở đây.


Người chứng ngộ pháp Đại Viên Mãn này không ngờ có thể xây dựng Phật quốc tịnh thổ, trên phương diện này, xin mời những người có trí tuệ bác học suy nghĩ kĩ càng tỉ mỉ, pháp Đại Viên Mãn này đích thực là pháp môn đại như ý, không những bản thân có thể thành Phật mà còn vì tâm ấn bí mật đại bất khả tư nghì khiến cho chúng sinh đều có thể thành Phật. Đại Viên Mãn, đại thần thông, vô thượng pháp như vậy, thế nhân trong nhiều kiếp tu trì làm sao gặp được vị Kim Cương Thượng Sư chân chính để truyền dạy được đại pháp vô thượng như vậy đây!


Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư nhờ có Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền dạy pháp Đại Viên Mãn, trong đó có rất nhiều khẩu quyết bí mật, nhưng không có cách nào lần lượt viết ra trong sách được, điều này mong độc giả đại đức lượng thứ. Nếu có người đã đắc được Thượng Sư tương ứng, Bổn Tôn tương ứng, Kim Cương pháp tương ứng, sau đó đến cầu Đại Viên Mãn pháp tương ứng, thì tôi sẽ truyền dạy cho. Và nếu tương ứng với pháp Đại Viên Mãn rồi thì tức là trở thành Đại Trì Minh Kim Cương acharya, là Đại Thượng sư của Thượng sư, là vô thượng nhất.


27. Nghi quỹ quán tu Bổn tôn A Di Đà Phật


Có rất nhiều đệ tử truyền thừa muốn tôi viết phương pháp quán tu A Di Đà Phật. Tôi biết Di Đà đại pháp này, rất nên phổ truyền phổ tu. Vì vậy tôi đặc biệt ghi ra nghi quỹ quán tu Bổn tôn A Di Đà Phật như sau:

Trước khi tu pháp, đầu tiên cần làm đại lễ bái, đại cúng dường, niệm chú tứ quy y, làm mặc giáp hộ thân.

Niệm tứ vô lượng tâm: "Nguyện hết thảy chúng sinh có đầy đủ niềm vui và nguyên nhân của niềm vui, nguyện hết thảy chúng sinh thoát ly đau khổ và nguyên nhân đau khổ, guyện hết thảy chúng sinh vĩnh viễn sống trong an vui không đau khổ, nguyện mọi chúng sinh chứng oan thân bình đẳng giác."

Sau khi ngồi vào chỗ, trì một biến chú quán không: "Om sư-pa-wa su-ta sa-ơ-wa ta-ơ-ma sư-pa-wa su-tô hằng."


Tĩnh tọa quán Không.


Từ trong hư không xuất hiện thế giới Cực Lạc trong tam thiên đại thiên thế giới, thế giới Cực Lạc là trang nghiêm nhất. Người tu pháp mà có biểu đồ hải hội Tây phương Tam Thánh của A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát thì quán tưởng biểu đồ hải hội của Tây phương Tam Thánh ở trong không trung.


Trong sát-na, tự thân biến thành Quan Thế Âm Bồ Tát, một mặt bốn cánh tay, toàn thân màu trắng trong suốt như thủy tinh, gương mặt vui vẻ, đầu đội mũ Ngũ Phật, mặc thiên y đeo chuỗi ngọc, nhiều trang sức quý báu. Hai tay chắp lại, nâng bảo châu màu xanh, tiếp đó, tay phải cầm tràng hạt thủy tinh, tay trái cầm hoa sen trắng. Thế rồi hoa sen trắng từ từ phóng to lên đến mức lớn vô hạn, rồi A Di Đà Phật ngồi trên đó, A Di Đà Phật ngồi kiết già, lục đạo phụ mẫu oan thân quyến thuộc tất cả hữu tình đều vây quanh nhiều vòng xung quanh tòa hoa sen. (Đây là quán tưởng bản thân biến hóa.)


Lúc này, quán tưởng A Di Đà Phật ở trong hư không đối diện với ta, ngài ngồi trên hoa sen nghìn cánh, khuôn mặt và toàn thân màu đỏ, tay kết định ấn, trên định ấn có bình bát nhỏ, trong bát có chứa đầy cam lộ, thân khoác áo cà sa ba mảnh, phóng tỏa vô lượng ánh sáng, bên phải là Quan Thế Âm Bồ Tát màu trắng, bên trái là Đại Thế Chí Bồ Tát màu xanh, hai vị Bồ Tát hầu hạ thân hơi xoay hướng về A Di Đà Phật, tay kết ấn cúng dường và ấn liên hoa, biểu thị ý nghĩa trợ giúp. Xung quanh có thập phương Lama, chư Phật Bồ Tát, Kim Cang Phật Mẫu Hộ Pháp vây quanh nhiều lớp. (Đây là quán tưởng biến hóa trong hư không.)


Bí quyết tự thân biến hóa ở đây là đầu tiên biến thân mình thành Quan Âm Tứ Thủ, tiếp theo, từ hoa sen trắng của Quan Âm Tứ Thủ lại biến chính mình thành A Di Đà Phật ngồi trên hoa sen trắng. Lúc này kiên định lòng tin của bản thân, quyết tâm thành tựu A Di Đà Phật.

Niệm một biến Bài văn bảy chữ:

"Trong tất cả thập phương thế giới.

Tất cả Thầy Trời - Người ba đời.

Con đem thân ngữ ý thanh tịnh.

Xin lễ khắp nơi chẳng thiếu sót.

Phổ Hiền hạnh nguyện uy thần lực.

Phổ hiện tất cả trước Như Lai.

Một thân tái hiện thân phàm trần.

Con xin lễ khắp Phật trần gian.

Trong một cõi trần bao vị Phật.

Bồ Tát hiện diện ở khắp nơi.

Vô tận Pháp giới đâu cũng thế.

Lòng tin với Phật đều tràn đầy.

Từ trong tất cả biển âm thanh.

Diệu ngôn vô tận đều phổ khắp.

Đến hết mọi kiếp đời tương lai.

Ngợi ca công đức Phật như biển.

Đem muôn hoa đẹp diệu kỳ nhất.

Nhạc vui phấn thơm cùng ô lọng.

Tối thắng trang nghiêm thực như thế.

Con xin cúng dường các Như Lai.

Y phục đẹp đẽ thơm tho nhất.

Hết hương lại thắp nến và đèn.

Tất cả diệu kỳ và cao quý.

Con đều cúng dường các Như Lai.

Tâm con thắng giải và rộng khắp.

Niềm tin vững chắc nơi chư Phật.

Đều nhờ Phổ Hiền hạnh nguyện lực.

Cúng dường rộng khắp các Như Lai.

Con xưa đã tạo bao ác nghiệp.

Đều vì vô thủy tham sân si.

Đều sinh ra từ thân ngữ ý.

Nay con tất cả đều sám hối.

Thập phương tất cả mọi chúng sinh.

Những người có học hay vô học.

Tất cả Như Lai và Bồ Tát.

Tất cả công đức đều tùy hỷ.

Tất cả ngọn đèn khắp thập phương.

Những vị Bồ Tát mới thành tựu.

Nay con hết thảy đều khuyên thỉnh.

Mong truyền Vô Thượng Diệu Pháp luân.

Hết thảy lễ tán cúng dường phúc.

Thỉnh Phật trụ thế chuyển Pháp luân.

Tùy hỷ sám hối mọi thiện căn.


Hồi hướng chúng sinh và Phật đạo."


Niệm xong bài văn bảy chữ, quán tưởng trong tâm mình có chữ "Seh" tiếng Phạn phóng tỏa ánh sáng trắng. Còn A Di Đà Phật trong không trung từ tâm phóng ra ánh sáng chữ "Seh" màu đỏ, từ trên cao chiếu xuống, hai luồng ánh sáng đỏ và trắng hòa lẫn vào nhau. Ánh sáng này chạm tới thì nghiệp chướng của bản thân mình và tất cả chúng sinh đều được tiêu trừ, quyết tâm thành Phật.

Trì chú của A Di Đà Phật: "Ôm A-Mi-Đê-Wa Sê" 108 biến.


Trì tâm chú vãng sinh của A Di Đà Phật: "Ôm Pê-Ma-Ta-Li Hum" 108 biến.

Lúc này lại ngồi tĩnh lặng thiền định, cẩn thận quán tưởng chữ "Seh" màu đỏ trong tâm A Di Đà Phật, từ lỗ mũi bên phải của Phật đi ra, rồi lại đi vào lỗ mũi bên trái của chính mình cho đến khi gặp chữ "Seh" trong tâm của chính mình thì hòa lẫn vào nhau, phóng tỏa đại quang minh. Lại quán tưởng chữ "Seh" ánh sáng trắng từ trong tâm của mình cũng từ lỗ mũi phải của mình đi ra, sau đó đi vào lỗ mũi trái của Phật, rồi đi đến thẳng chữ "Seh" tại tâm của Phật, hai chữ hòa nhập làm một, và thế là bản thân và A Di Đà Phật đã trở thành một thể không hai không khác.


(Quán tưởng chính mình và A Di Đà Phật không hai không khác.)

Nhập định, không khởi lên bất kì suy nghĩ nào, bản thân cũng tức là A Di Đà Phật.


Sau khi xuất định, hồi hướng, đại lễ bái.


Đây là nghi quỹ quán tu Bổn tôn A Di Đà Phật trong Tạng mật. Quán tu như vậy lâu ngày tự sẽ trở nên thành thục, đi đứng ngồi nằm đều không xa rời A Di Đà Phật, đây cũng là đại bí mật thành Phật.

Pháp quán tu A Di Đà Phật của Linh Tiên Chân Phật Tông như sau:

Thờ biểu đồ hải hội tây phương Tam Thánh A Di Đà Phật hoặc tượng kim thân A Di Đà Phật đều được.

Trước tiên làm đại lễ bái. (đứng)

Kết ấn cúng dường, dâng cúng dường. (ngồi)

Niệm chú tứ quy y: "Namo Guru Bei, Namo Buddha Ye, Namo Dharme Ye, Namo Sangha Ye."

Kết thủ ấn chày ba chấu đặt trên đỉnh đầu, niệm "Om Buaru Lan Chuali" bảy biến. Chạm vào đầu, họng, tim, vai trái, vai phải, trở về đỉnh đầu giải ấn.


Niệm tứ vô lượng tâm. (hai tay kết định ấn)


Quán Không. Trong hư không hiện lên A Di Đà Phật thân và mặt màu đỏ, khoác áo cà sa, ngồi kiết già trên tòa hoa sen nghìn cánh, hai tay kết định ấn nâng bình bát có chứa đầy cam lộ, ánh mắt từ bi nhìn chúng sinh. Quán tưởng cam lộ trong bình bát trong tay A Di Đà Phật hóa thành ánh sáng trắng bay lên thành một đường vòng cung rót tới lỗ trên đỉnh đầu của hành giả Mật tông, thấm đẫm toàn thân khiến thân thể hành giả trở thành màu trắng trong suốt như thủy tinh, nghiệp chướng hoàn toàn tiêu trừ. (Hoặc hoa sen trên tay phóng quang chiếu dội tới hành giả cũng được.)

Trì tâm chú căn bản của A Di Đà Phật: "Om A Mi Te Wa Seh" 108 biến.

Tiếp theo quán tưởng A Di Đà Phật hóa thành một điểm ánh sáng đỏ đi vào từ lỗ trên đỉnh đầu của hành giả Mật tông, thuận theo trung mạch mà đi xuống, khi đến tim của hành giả Mật tông thì ngồi trên tòa hoa sen trong tim của hành giả Mật tông. Lúc này, A Di Đà Phật từ từ phóng to lên, to đến khi bằng đúng hành giả, hành giả lập tức biến thành A Di Đà Phật, A Di Đà Phật cũng biến thành hành giả, hai người nhập khít chặt chẽ, không có sự khác biệt nào.


Nhập định, không khởi lên suy nghĩ, nhất tâm bất loạn, nhập vào trong tam ma địa của A Di Đà Phật.

Sau khi xuất định, tụng kệ tán thán:

"Lời nguyện trang nghiêm tịnh an lạc,

Cứu khắp chúng sinh nơi trược thế.

Tây Phương tiếp dẫn chứng vô sinh,


A Di Đà Phật con kính lễ."

Hồi hướng:

"Nguyện người cùng niệm Phật

Cùng sinh cõi cực lạc

Trên báo bốn ơn sâu

Dưới cứu khổ tam đồ.

Thấy Phật thoát sinh tử,


Như Phật độ tất cả."


Đại lễ bái. Rời khỏi đàn thành.


Giả dụ có người trì xong tâm chú, muốn niệm thêm kinh A Di Đà và niệm thêm Phật hiệu thì đều có thể tùy ý, ở đây hoàn toàn không quy định cứng nhắc. Nghi quỹ này đơn giản hơn nghi quỹ của Tạng mật, nhưng công đức cũng to lớn không kém, người tu trì chắc chắn thành Phật.


28. Nghi quỹ phóng sinh của Linh Tiên Chân Phật Tông


(Bản văn này do Liên Nguyện ở Uy Đức Đường tại Malaysia biên tập.)

Người chủ pháp đứng ở giữa, những người tham gia đứng hai bên trái phải và phía sau, người chủ pháp mặt hướng ra biển hoặc hồ.


Niệm "Om Buaru Lan Chuali" làm bia giáp hộ thân. (7 biến, chạm vào trán, họng, tim, vai trái, vai phải, trở về đỉnh đầu giải ấn)


Hát bài tán tụng:

"Dương liễu tịnh tủy vẩy khắp tam thiên,

Tánh Không bát đức lợi trời người,

Pháp giới rộng lớn không ranh giới,

Diệt trừ tội chướng,

Ngọn lửa hóa hồng liên.

Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát.


Nam mô Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. (3 lần)"

Tụng chú:

Om Benza Samaya Za. (triệu thỉnh)

Om Benza Amilita Wanchali Hanam Hanam Hum Pay. (tịnh địa)

Namo Samanta Buddha Nam Om Duru Duru Devi Soha. (an thổ địa)

Namo Surupuaye Tathayetaye Tachutha: Om Suru Suru Polo Suru Soha. (Cam lộ thủy chân ngôn - 7 biến.)

Om Sitanto Mantolo Patoye Soha. (Chú đại bi - 21 biến.)

Om Mani Padme Hum Seh. (Chú Quan Âm - 21 biến.)


Om Ah Hum Guru Bei A Ha Sha Sa Ma Ha Liansheng Siddhi Hum (Thượng sư tâm chú - 108 biến.)

Người chủ pháp đọc thủy văn để khải thỉnh:

"Nước cam lộ từ cành dương liễu của Bồ Tát,

Có thể khiến một giọt phủ khắp thập phương,

Tiêu trừ hết thảy mọi tanh hôi ô uế

Khiến cho đàn tràng này đều được thanh tịnh.


Dâng hoa thơm, mời hoa thơm, nam mô nhất tâm phụng thỉnh khắp hư không mọi pháp giới thập phương tam thế thường trụ Thượng Sư Tam Bảo."

Người chủ pháp đọc bài văn:


"Các Tổ sư truyền đời của Linh Tiên Chân Phật Tông, thập phương tam thế Thượng sư Tam Bảo, Quan Thế Âm Bồ Tát, các vị Đại sĩ, v.v… Duy nguyện từ bi chứng trí hộ niệm. Nay có mọi chúng sinh trên cạn dưới nước bay trên không trung, do người ta giăng lưới đánh bắt mà phải vào cửa tử. Các đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông phát tâm từ bi, học hạnh Bồ Tát, xin chuộc lại thân mệnh của chúng, phóng thả cho chúng bay xa. Thuận theo kinh điển Đại thừa, thay cho sám hối, chuyển thành quy y Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát, xưng mật chú và thuyết 12 nhân duyên. Nhưng vì những giống loài này tội chướng sâu nặng, thần thức hôn mê, không thể hiểu biết, nay nương nhờ pháp thâm sâu mà thỉnh cầu Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát uy đức gia trì, khiến chúng khai ngộ, sớm được giải thoát. Các đệ tử Linh Tiên Chân Phật Tông biết chúng nhiều đời nghiệp nặng, phải đọa vào đạo súc sinh, nay vì chúng mà hướng về Thượng Sư Tam Bảo bày tỏ tội lỗi, chúng cũng hết sức chân thành mà cùng sám hối.

Mọi người cùng niệm:

"Xưa kia đã tạo bao ác nghiệp

Đều bởi vô thủy tham sân si

Sinh ra bởi vì thân ngữ ý

Nay cầu sám hối trước Thượng Sư

Xưa kia đã tạo bao ác nghiệp

Đều bởi vô thủy tham sân si

Sinh ra bởi vì thân ngữ ý

Nay cầu sám hối trước chư Phật.

Xưa kia đã tạo bao ác nghiệp

Đều bởi vô thủy tham sân si

Sinh ra bởi vì thân ngữ ý

Xin được sám hối mọi tội căn.

Tội sinh từ tâm tâm ân hận

Nếu tâm diệt rồi tội cũng vong

Tâm vong tội diệt hết thảy không


Như thế gọi là thực sám hối."

Tụng chú sám hối:

"Om Benza Samaya Suto Ah. (21 biến)

Lipo Lipo Kio Kio Te Tolanite Nialate Pilinite Muahua Chate Chenlin Chante Soha. (7 biến)


Om Sawapipo Nahenan Wachilaye Soha. (7 biến)"

Người chủ pháp truyền thụ quy y:

"Namo Guru Bei. Quy y Thượng sư không đọa ác đạo.

Namo Buddha Ye. Quy y Phật không đọa địa ngục.

Namo Dharma Ye. Quy y pháp không đọa ngạ quỷ.

Namo Sangha Ye. Quy y Thánh hiền không đọa súc sinh.


Phật tử chúng con quy y các vị Tổ sư truyền đời Linh Tiên Chân Phật Tông, từ nay về sau xưng Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát làm Thầy, và không quy y ngoại đạo tà chúng."

Mọi người cùng tụng:

"Nam mô thọ mệnh tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.

Nam mô tâm tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.

Nam mô tài tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.

Nam mô nghiệp tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.

Nam mô sinh tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.

Nam mô nguyện tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.

Nam mô giải tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.

Nam mô như ý tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.

Nam mô trí tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.


Nam mô pháp tự tại, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Liên Sinh Bồ Tát. Om Ah Hum.


Các Phật tử đã quy y Thượng Sư và Tam Bảo rồi, nay ta vì các người mà nói 12 nhân duyên, sinh tướng diệt tướng, nay các người đã biết pháp sinh diệt, ngộ được pháp bất sinh diệt, cần sống rốt ráo, cần sống thanh tịnh, cần sống tự tại, một khi đã rốt ráo rồi thì tất cả đều rốt ráo, một khi đã thanh tịnh thì tất cả đều thanh tịnh, một khi tự tại rồi thì tất cả tự tại, cùng với chư Phật chứng đại niết bàn. Cái gọi là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu sầu khổ não.


Cái gọi là vô minh diệt tức là hành diệt, hành diệt tức là thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử ưu sầu khổ não diệt. Vô minh vô tính vốn là thể bất động của chư Phật.


Các người cố chấp, vọng khởi vô minh, giống như con mắt bị bệnh, nhìn thấy hoa trong hư không mà lập tức biết được, vô minh lập tức bị diệt. Phật tử, ta lại vì các người mà nói bốn thề nguyện lớn, khiến các người nghe thấy mà nương dựa vào Thượng Sư phát nguyện tu hành, các người hãy chăm chú lắng nghe."

Phát nguyện:

"Chúng sinh vô biên thề nguyện độ,

Phiền não vô tận thề nguyện dứt,

Pháp môn vô lượng thề nguyện học,

Phật đạo vô thượng thề nguyện thành.

Tự tánh chúng sinh thề nguyện độ,

Tự tánh phiền não thề nguyện đoạn,

Tự tánh pháp môn thề nguyện học,


Tự tánh Phật đạo thề nguyện thành.

Xưng tán danh hiệu Như Lai:


"Các đệ tử. Ta vì các người mà xưng tán danh hiệu cát tường của Như Lai, có thể khiến cho các người vĩnh viễn rời xa khổ tam đồ bát nạn, thường xuyên làm Phật tử chân tịnh của Như Lai.

Nam mô Đa Bảo Như Lai.

Nam mô Bảo Thắng Như Lai.

Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai.

Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai.

Nam mô Ly Bố Úy Như Lai.

Nam mô Cam Lộ Vương Như Lai.


Nam mô A Di Đà Như Lai.


Hỡi các Phật tử, bảy vị Như Lai này vì thề nguyện lực đã cứu giúp chúng sinh, xưng danh hiệu của các Ngài ba lần thì nghìn đời xa rời đau khổ, chứng đạo vô thượng. Chỉ mong các người sau khi được thả ra, vĩnh viễn không bị ác ma nuốt gọn, không bị lưới bắt, giữ được hết thọ mệnh, sau khi chết đi, nhờ sức mạnh uy đức của Thượng Sư Tam Bảo mà vãng sinh tùy theo ý nguyện, giữ giới tu hành, hiểu biết Phật pháp, làm theo Bồ Tát chuyển hóa chúng sinh, rồi nguyện phóng sinh. Các đệ tử bồ đề hạnh nguyện, niệm niệm tăng minh, thường cứu hộ chúng sinh như mình mong muốn, được sống an lạc, gặp A Di Đà Phật chứng vô sinh nhẫn, phân ra làm những vị Phật ở cõi trần trong vô tận kiếp tương lai quảng độ chúng sinh, hơn nữa còn giúp những người lạ hồi tâm hướng thiện, cùng đắc giải thoát, cùng chứng chân thường."

Hát bài kệ tán thán:

"Thai sinh noãn sinh thấp sinh hóa sinh nhiều kiếp mê muội, nay quy y Thượng Sư Tam Bảo, phát bồ đề, tránh khỏi nạn lồng nhốt lưới bắt, biển rộng trời cao, theo Phật sánh về Tây Thiên.

Nam mô Sinh Phật Giới Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.


Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật."

Om Amitewa Ayo Siddhi Hum. (Nhiễu quanh chỗ để đám sinh linh ba vòng.)


Om Ah Hum Guru Bei Ahasasamaha Liansheng Siddhi Hum. (Khi trì Thượng sư tâm chú thì đem tất cả sinh linh thả xuống biển xuống hồ, con nào bay trên không trung thì thả lên không trung, cho chúng được tự do đi.)

Hồi hướng:

"Công đức phóng sinh rất thù thắng,

Phúc đức vô biên đều hồi hướng

Mong mọi chúng sinh đang mê lầm

Mau đến cõi Phật Vô Lượng Quang."


(Phóng sinh vốn là một trong những hạnh nguyện đại bi, có ý vị từ bi và đồng thể đại bi của chư Phật, là một việc làm đáng để Phật tử noi theo. Nghi quỹ phóng sinh không có gì khác ngoài bốn phần nghi thức chính là khởi thỉnh, sám hối, quy y, niệm Phật, và trong tiếng tụng chú niệm Phật thì thả sinh linh đi. Nghi thức này có thể khiến cho đời tương lai của sinh linh có được nhiều phúc báo lớn lao, người phóng sinh cũng có được phúc nhiều vô lượng, sinh linh được phóng sinh cũng có được phúc nhiều vô lượng. Bản văn nghi quỹ này có thể phổ biến rộng rãi, người người phóng sinh, sinh linh và chúng sinh phúc thọ vô lượng, có công đức rất rất lớn, giống như Bồ Tát vậy.)


29. Cuộc sống trên đất Mỹ của Liên Sinh Thượng Sư


Rất nhiều rất nhiều độc giả gửi thư đến hỏi tôi về cuộc sống nơi đất Mỹ ra sao. Còn tôi, rất hiếm khi tôi trả lời về điều này trong thư, do đó, tôi chỉ mượn những bài viết ngắn này để thuật lại tất cả việc tôi ở Mỹ để đáp tạ sự quan tâm của độc giả.


Trên thực tế, người dân sống tại Mỹ hiện nay dành sự thiên vị rất lớn cho những người "lắm tiền". Với phương tiện hiện đại hóa, tiền bạc vẫn là chìa khóa để mở ra các cánh cửa, nhưng Liên Sinh Thượng Sư đến Mỹ để ẩn cư tu pháp và và viết sách, chú trọng vào chất lượng tâm linh, chứ không phải để hưởng phúc tại vương quốc đô-la.


Có người nói, Thầy ở Mỹ sáng lập Linh Tiên Chân Phật Tông như thế là phát tài rồi. Tôi cười, nói với độc giả này rằng, tôi ẩn cư đóng cửa viết sách, rất nhiều tư tưởng tâm linh được kích thích và phát khởi, ngoại tệ không có nhưng trái lại, "tài năng ngoại" lại được khơi dậy.


Khổ thì có khổ, nhưng cuộc đời viết văn lại vì thế mà tràn đầy nét đẹp, cho đến nay tôi đã viết được 77 cuốn sách. [ Ghi chú của người dịch: Đến tháng 7 năm 2021, Liên Sinh Hoạt Phật đã viết 284 cuốn sách. ] Tôi cho rằng tinh thần nỗ lực viết sách của tôi cũng bền bỉ như sự tinh tấn tu pháp của tôi, là cân bằng và toàn vẹn. Trong thời gian tôi ở Mỹ, viết sách và tu pháp đã chiếm hết gần như toàn bộ cuộc sống của tôi. Đây là cuộc sống nề nếp của tôi tại nơi đất khách Hoa Kì.


Nói rất thật lòng, cuộc sống ở nơi đất khách Hoa Kì của tôi khổ cực hơn cuộc sống ở trong nước. Tôi ăn những đồ ăn đơn giản. Tôi từng kể có đệ tử ở Mỹ cúng dường rau xanh, số rau xanh này là siêu thị bán ế, là hàng đã quá thời hạn tươi ngon, nên bán rẻ lại cho đệ tử ở Mỹ, rồi đệ tử ở Mỹ chuyển thành cúng dường cho Sư Tôn, do vậy mà rau tôi ăn không phải tốn tiền, đều là đồ cúng dường. Tôi rất hài lòng với những đồ ăn này, bởi vì có thể tiết kiệm được thì tiết kiệm thôi! Rau rẻ nhưng vẫn đủ dinh dưỡng, những loại rau này tôi lại rất thích ăn, thỉnh thoảng cũng có cả khoai lang nữa!


Quần áo của tôi thì được mua từ cửa hàng đồ cũ, quần hay áo đều thế, ngay cả Âu phục cũng thế, một bộ Âu phục cũng chỉ có hai đô la Mỹ, xấp xỉ 80 Đài tệ. Cửa hàng đồ cũ là nơi tôi đến để mua quần áo mặc thay đổi. Có đệ tử Đài Loan đến Mỹ, tôi cũng đưa họ đến cửa hàng đồ cũ để mua quần áo, thật sự là rất rẻ. Tôi mặc quần áo mà người khác đã mặc qua, việc này không phải là để tôi lấy lòng thiên hạ, mà là tôi bẩm sinh đã tiết kiệm, cuộc sống của tôi không coi trọng hưởng thụ vật chất, do vậy tất cả đồ tôi mặc đều là hàng "second hand". Đừng xem thường những đồ trong cửa hàng second hand, có nhiều món cũng đẹp cực kì.


Xe mà Liên Sinh Thượng Sư lái nghe nói là xe "quốc dân" rẻ nhất nước Mỹ. Lúc đầu tôi không biết đó là loại xe quốc dân rẻ nhất, mãi cho đến một hôm, có một đệ tử lái xe Bentley đến thăm, cười và nói với tôi: "Thầy lái chiếc xe này thì không thích hợp rồi!" Tôi hỏi: "Vì sao vậy?" Anh ta trả lời: "Đây là xe quốc dân rẻ nhất nước Mỹ đó!" Tôi nghe xong có hơi đỏ mặt, nhưng chỉ một lát thì tôi đã nghĩ một cách thông thoáng. Quan niệm của tôi là, cuộc sống giàu sang hay bần cùng, hoàn cảnh dù khác nhau, nhưng ở trong cấp độ của mình, tôi nhận thấy về đời sống vật chất thì tôi thua người khác, nhưng về mặt tinh thần, tôi là người có tâm linh phong phú, không ai có thể so sánh được.


Seattle nằm ở phía tây bắc của nước Mỹ, thiên về hướng bắc, mùa mưa rơi vào mùa thu và mùa đông, khí hậu khá lạnh, băng giá tuyết rơi là điều thường thấy, thế nhưng bấy lâu nay tôi cũng chưa từng mở máy sưởi, bởi vì máy sưởi tốn điện đáng kinh ngạc. Trong nhà tôi giống như cái tủ lạnh, có đệ tử từ phương xa đến học pháp xuýt xoa cảm thán rằng nhà của Thầy còn lạnh hơn cả khí hậu của Seattle. Thế nhưng tôi vẫn không sợ lạnh, không bật máy sưởi có hai điều tốt, thứ nhất là luyện tập pháp linh nhiệt của bản thân để chống lại cái lạnh, thứ hai vẫn là tiết kiệm điện, tiết kiệm tiền.


Tôi từng nói ba năm nay tôi không gọi điện thoại về nước, không phải vì không có gì để nói, mà là không nỡ vì gọi một cuộc điện thoại ba phút mà mất tới 400 đồng Đài tệ. 400 đồng Đài tệ này tôi có thể mua giấy mua bút, viết được rất nhiều chữ đó! Ba năm nay, tôi chưa đi xem một bộ phim nào, cũng không còn cuộc sống âm nhạc và khiêu vũ. Tôi cảm thấy những ngày sống trên đất Mỹ đơn điệu này, tôi hoàn toàn giống như một tăng nhân khổ hạnh, tràn đầy ý vị khổ tu và thiền định sâu hơn.


Trong quãng thời gian sống cực kì tiết kiệm này, tôi từng đi xem một chiếc máy ghi âm, giá tiền thấp nhất khi đó là 47 đô la Mĩ, khoảng 1800 Đài tệ. Tôi nhìn ngắm, rồi sờ thử nó, không nỡ mua, cuối cùng hạ quyết tâm mua nó. Đó là lần bỏ tiền ra mua đồ sung sướng nhất trong cuộc sống tại Mỹ của tôi, rất đáng để tôi ghi nhớ và kỉ niệm. Rất nhiều độc giả muốn tôi ghi âm lại chú ngữ, nhưng họ không biết rằng cuộc sống trên đất Mỹ của tôi ngay cả một chiếc máy ghi âm cũng không có.


Thời gian sống trên đất Mỹ, có đệ tử đến muốn chụp ảnh cùng Thầy để lưu niệm, nhưng anh ta không biết rằng trong nhà của Liên Sinh Thượng Sư, ngay cả một chiếc máy chụp ảnh cũng không có!

Cuộc sống của tôi mộc mạc giản dị hơn người bình thường.


Thói quen chăm chỉ tằn tiện của tôi đã được bồi dưỡng từ nhỏ, tôi đã quen với cuộc sống của người nghèo. Thời học cấp hai, cấp ba, tôi đã bắt đầu kiếm tiền để bù vào học phí. Mùa hè nghỉ hè tôi đều ra ngoài làm công kiếm tiền, do vậy, tôi biết một đồng, một hào đều không dễ gì có được. Tôi có tính cách chịu thương chịu khó, tôi chính là một người Thầy như vậy đó.


Ba năm di cư đến Mỹ, cuộc sống của tôi là cần cù tiết kiệm. Một vị Thầy như tôi đây cuộc sống giản đơn, rất có quy tắc, ngày ngày tu pháp, ngày ngày viết sách, với nhịp sống chất phác và ý chí kiên nghị, trong cảnh giới tiến sâu vào thiền định, tôi đã thoát khỏi những khuôn mẫu cũ, tạo nên sức sống mới mạnh mẽ.


Trong ba năm ở Mỹ, từ trong cuộc sống gian nan khốn đốn, tôi lại một lần nữa tôi luyện bản thân, cuộc sống vật chất của tôi đầy gian khổ, nhưng trên phương diện tinh thần thì biển rộng trời cao, tự do tung hoành, tôi cảm nhận được rất nhiều điều hấp dẫn mê say, có thể nói là thần khí, nội tâm, ý cảnh đều vô cùng siêu xuất.


Đương nhiên, đệ tử ở các nước trên thế giới vẫn liên tục gửi cúng dường, tôi đều để dành toàn bộ số tiền cúng dường này để dùng vào những lúc cấp thiết, và tôi vẫn sống những ngày tháng giản tiện của tôi. Tôi tương đối hà khắc với bản thân mình, nhưng đối với khoản tiền nên tiêu thì tôi vẫn hào phóng, ví như tiền làm việc thiện, tiền bố thí, tiền cứu tế đói nghèo, tiền công ích, tôi đều không tiếc.


Tôi chưa bao giờ yêu cầu các đệ tử phải cúng dường cho Sư Tôn bao nhiêu tiền, hay người quy y phải đưa cho Sư Tôn bao nhiêu tiền phí quy y, tham gia pháp hội phải nộp chi phí bao nhiêu, hỏi việc Sư Tôn cần phải bao nhiêu tiền, tất cả tôi đều tùy ý, và cũng để mặc mọi người tùy ý. Người giàu thì bố thí nhiều, người nghèo thì bố thí ít, tôi đều trân quý từng đồng, từng hào của mọi người, tiền sẽ được sử dụng khéo léo vào việc thích hợp chứ không phải để cho Thầy hưởng lạc.


Tiền thu được từ mỗi lần pháp hội đều được gom vào quỹ xây dựng Linh Tiên Tịnh Xá, Thầy không lấy một đồng, một hào nào. Cuộc sống tại Mỹ của Liên Sinh Thượng Sư do bởi không hưởng lạc nên đương nhiên không cần phải tiêu tiền, không cần phải tiêu tiền thì cần tiền để làm gì?


Có người cho rằng Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư xây dựng tổng hội Lôi Môn Linh Tiên Tịnh Xá của Linh Tiên Chân Phật Tông, đương nhiên quyền tài sản của ngôi chùa này chắc chắn là Thầy sẽ nắm giữ rồi, như thế thì Thầy chắc chắn là một vị Thầy giàu có rồi. Thế nhưng mọi người nghĩ sai rồi, tôi xây dựng nên Lôi Môn Linh Tiên Tịnh Xá, bản thân tôi không giữ chức trụ trì, chức trụ trì là do Thượng sư Trần Tước Viên đảm nhiệm, đó là ý của tôi. Tôi muốn Thượng sư Trần Tước Viên chịu trách nhiệm toàn bộ sự vụ của tông phái ở nước Mỹ và toàn thế giới. Đương nhiên quyền tài sản của ngôi chùa Lôi Môn Linh Tiên Tịnh Xá đều do Thượng sư Trần Tước Viên sắp xếp, ông ấy là một Thượng sư có thể tin cậy được. Tôi giao tất cả quyền lực cho ông ấy.


Còn Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư vốn dĩ là một người thoải mái tự tại, tôi không thích nhất là sự ràng buộc vật chất, đối với danh lợi cũng chưa bao giờ quan tâm, đối với tiền bạc cũng không quyến luyến, tôi chỉ thích chấp vào "minh tâm kiến tánh, tự chủ sinh tử" mà thôi. Thứ mà tôi cần lo liệu là thân của tôi là thân của Phật, tâm của tôi là tâm của Phật, thân tâm của tôi chính là chùa, mọi người tu được pháp Thượng Sư tương ứng thì chính là đã tạo nên, mở rộng và biểu hiện được lĩnh vực tinh thần của Thầy rồi. Thầy không lo không có chùa, chỉ lo không có đạo mà thôi!


Bản thân Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư không đảm nhiệm chức trụ trì của Lôi Môn Linh Tiên Tịnh Xá, mà Thầy chỉ là tông chủ của Linh Tiên Chân Phật Tông, chức tông chủ này không hề có yếu tố vật chất nào cả, không phải là Thượng Sư giàu có, không phải là Thượng Sư có quyền uy, không phải là Thượng Sư có địa vị, không phải là Thượng Sư quan cao, không phải là Thượng Sư bợ đỡ. Có thể nói, tông chủ của Linh Tiên Chân Phật Tông chỉ là một cái tên trên danh nghĩa mà thôi, tất cả đều không có, đều là không, tôi chính là một vị tông chủ Thượng Sư như vậy đó.


Trên lĩnh vực tinh thần, tuyên dương Phật pháp là một sứ mệnh, nắm bắt được những tâm đắc từ tinh hoa tồn tại trong khu rừng Mật pháp um tùm, nghiêm cẩn viết sách truyền pháp, cuộc sống thanh bạch thuần khiết, cá tính chất phác mộc mạc, trong điềm tĩnh có khí phách hiên ngang, bên trong chất chứa lòng từ bi cao cả để sáng tạo sống động hồn nhiên những chuyện văn chương thiên cổ. Còn vị Thượng Sư là tôi đây luôn cẩn thận tỉ mỉ, mạnh mẽ, dám nghĩ, dám làm.


Cuộc sống của tôi, sách tôi xuất bản, bất kể người ta tán dương cũng được, châm biếm và phỉ báng cũng được, tôi cũng vẫn là một vị Thượng Sư như thế, dùng phương thức tả thực để truyền đạt triết lý sống của bản thân. Tôi không giỏi xử lý những sự vụ thông tục của thế gian, cho nên chỉ có thể biểu hiện sự tinh tế sâu sắc trên phương diện tinh thần.


Ba năm di cư đến Mỹ, tôi không tiêu uổng phí một hào nào. Tiền tôi tiêu gần như bằng không, không mặc quần áo mới, không ăn quà vặt, không giải trí tiêu khiển, không gọi điện thoại, tất cả mọi thứ đều không tiêu xài. Những ngày tháng ở ẩn không có mùi vị của vật chất. Bởi vì cấm tiệt cuộc sống vật chất khiến tôi minh tâm kiến tánh, cuối cùng tôi đã ngộ ra "gương mặt thân quen" bất khả tư nghì. Đó là chứng ngộ của Thượng Sư. Thượng Sư đã "thoát xác" như vậy đó, biến hóa thành con rồng có thể làm mưa làm gió.


Đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông cần hiểu được tâm của Thầy, cần Kính Sư - Trọng Pháp - Thực Tu, ai nấy đều đi từ sám hối tới tiêu nghiệp chướng, từ hiểu được chân lý đến thực tu tương ứng, nhờ tương ứng mà nhập vào tam ma địa, đi trên con đường vĩ đại chân chính của đời người. Đến khi ai ai cũng đắc chứng, người người đều là Thượng sư, đây chính là kì vọng lớn nhất của tôi, kì vọng đệ tử Chân Phật Tông lan tỏa ánh hào quang của Thầy.


30. Biên tập những ứng nghiệm

[Ghi chép của một số đệ tử]


Ngày 10 tháng 6, Thầy tự tay ban tặng, ngày 15 tháng 6, đệ tử đã nhận được. Đệ tử khẳng định chắc chắn là nhờ bài kệ mà thầy đã ban cho nên bệnh của Tạ Lệ Châu nhiều nhất là 30 ngày sẽ bình phục. Trên thực tế thì ngày 10 tháng 7 ở Bệnh viện đa khoa Cựu chiến binh Thạch Bài cô ấy đã được xuất viện rồi. Có người hỏi con khi ấy vì sao lại khẳng định chắc chắn mà trả lời không hề suy nghĩ gì rằng 30 ngày sẽ khỏi bệnh. Con nói: "Đạo hạnh của Thầy Lư cao tới mức người bình thường không thể nào tưởng tượng nổi đâu."

Mấy tháng trước nhận được thư của Thầy, Hán Thành (Liên Ông) sư huynh đưa cho đệ tử Hồng (Liên Nguyên) đọc qua. Chúng con gặp nhau tại một tiệm cà phê, đột nhiên ngửi thấy một mùi thơm chưa từng thấy có trên đời, không biết từ nơi nào bay tới, khiến cho đệ tử chúng con vô cùng vui sướng. Thầy muôn phần từ bi, chỉ vừa nhắc đến tên Thầy thì đã có hương thơm lạ bay đến rồi, ai nấy tinh thần đều phấn khởi.

Một buổi tối sau khi con bắt đầu tu được khoảng hai tháng, trong giấc ngủ con mơ thấy Thầy mặc y phục thường ngày quá bộ đến nhà con, Thầy đến xem phong thủy nhà con, chỉ điểm cho con rất rõ ràng, đệ tử cảm thấy Thầy đúng là chân thực, không phải hư giả, không khác gì một vị Phật.

Năng lực vĩ đại của Thầy khiến con rất đỗi kinh ngạc. Đúng vào tối ngày 15 tháng 8 (âm lịch), con đang ở trên tầng thượng ngắm trăng, con cùng bà xã vừa ngắm trăng vừa trì Thượng Sư tâm chú, ấy thế mà thật sự nhìn thấy Thầy xuất hiện trong quầng ánh sáng của mặt trăng, khuôn mặt vô cùng rõ nét. Bà xã và con đều nhìn thấy rất rõ ràng, hình ảnh ấy xuất hiện khoảng 20 phút, hình ảnh Thầy hiện ra là hình pháp tướng, đội mũ miện và ngồi trên hoa sen.

Thầy quả thật là quá thần kì. Đúng vào ngày nhận được chỉ thị của Thầy, nhà con đã trở về. Anh ấy đã thay đổi trở nên vô cùng vui vẻ hòa nhã, đối xử với con như trước đây, đồng ý với con từ nay sẽ cắt đứt quan hệ với người phụ nữ kia, xây dựng lại gia đình đã tan vỡ. Con lập tức đến Đài Trung thỉnh về một bức tượng sứ hình Thượng Sư, Thầy là ân nhân của cả gia đình con, nhà con cũng đã đồng ý quy y Thầy, tất cả đều quá ư là viên mãn!


31. Lựa chọn của bậc trí giả


Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư đã theo đuổi chân lý bao lâu rồi? Thật ra, từ khi tôi hiểu chuyện đến nay, tôi đã khao khát tìm tòi chân lý. Khi còn theo đạo Cơ Đốc, tôi biết giảng kinh, tôi làm thầy giảng dạy trường học Chúa nhật, đó chính là theo đuổi chân lý. Về sau tôi học Đạo giáo, cũng là với mục đích tìm hiểu chân lý, cho đến khi quy y Phật môn Hiển giáo, quy y Phật môn Mật giáo, quy y rất nhiều các giáo phái rẽ nhánh nhỏ không hề phân biệt, tất cả đều là vì tôi muốn tìm tòi chân lý. Nếu như lần lượt liệt kê ra các vị Sư Phụ của tôi thì e rằng cũng phải tới hơn trăm người. Chỉ cần Sư Phụ là người đắc được một số chứng lượng là tôi sẽ đi bái Thầy học Đạo.


Nói ra thì khiến người ta khó tin, cái tâm tìm cầu chân lý này của tôi vẫn luôn luôn tiến tới không dừng lại. Lúc còn nhỏ tuổi thì tôi thử nghiệm đủ loại pháp, tìm tòi mọi phương diện, ngày ngày tinh tấn không ngừng thì mới có được vinh dự là một Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư của ngày hôm nay.


Nói thật lòng, sự vẻ vang này không phải một hai năm mà có được, không phải tự dưng bất ngờ rơi xuống, mà là tôi đã thật sự bỏ tâm huyết cả một đời mới có được. Con người tôi đây nỗ lực vô cùng, đối với sự kiên trì theo đuổi chân lý, tôi đã giữ được sự tinh tấn bao năm như một ngày, tinh thần tu pháp và tinh thần viết sách của tôi là hai quỹ đạo song song, độc giả muốn hiểu được nghị lực tinh thần của tôi thì có thể từ việc đọc sách của tôi mà thấy được cuộc đời nỗ lực phấn đấu này của tôi.


Tôi không hề thích làm Thầy thiên hạ. Có một quãng thời gian rất dài, tôi tự biết mình "chân lý chưa đắc, đạo quả chưa viên", bản thân chưa có được chứng ngộ chân thực. Khi ấy có rất nhiều người muốn quy y tôi, tôi đều khéo léo từ chối. Mấy năm gần đây tôi mới thu nhận đệ tử, không ngờ, tôi vừa bắt đầu thu nhận đệ tử thì nay đã có sáu mươi nghìn đệ tử từ khắp nơi trên thế giới đến quy y.


Trước kia tôi không thu nhận đệ tử, gần đây mới thu nhận, là vì sao? Bởi vì tôi đã thật sự có được chứng đắc, đích thực đã đắc chứng tự chủ sinh tử, minh tâm kiến tánh. Tôi tự biết rằng mình đã hiểu thấu chân lý rồi, hơn nữa, tự thân chính là chân lý, tôi đã hiểu, nhưng tôi cũng không thể giấu giếm để tư lợi cho mình, tôi muốn lan truyền "chân lý", truyền Pháp luân chân lý, Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư tôi đây không phải là hư danh, mà thực sự là người đã thấu triệt và đắc chứng.


Hôm nay, rất nhiều Pháp sư, Thượng sư, Tì kheo, Tì kheo ni đến quy y tôi, tôi không hề lên mặt ngạo mạn, bởi vì bản thân tôi cũng bắt đầu học pháp từ lúc rất tầm thường nhỏ bé cho đến khi là Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư ngày hôm nay chính là nhờ có tinh thần thực tu.


Ngày nay, rất nhiều trí giả đến quy y tôi học pháp, tiếp nhận quán đảnh truyền thừa Linh Tiên Chân Phật Tông. Tôi cũng vì thế mà yêu cầu mọi người cần chú trọng thực tu, dựa trên tinh thần tinh tấn nỗ lực, đừng tính toán cần bao nhiêu năm mới khai phá ra chân lý, cứ nỗ lực cho đến khi thực sự có được đắc chứng. Như vậy thì tôi truyền pháp, chuyển Pháp luân mới có thể từ đời này sang đời khác cho đến khi chúng sinh đều thành Phật.


Trong bài viết ngắn này, tôi xin công bố một bức thư "Lựa chọn của trí giả" để chứng tỏ bậc trí giả đã học qua nhiều pháp môn đều đến quy Linh Tiên Chân Phật Tông.


"Lư Sư Tôn kính yêu, pháp tọa soi xét!


Cung kính ngưỡng mộ Thầy đã hơn 10 năm, tắm đẫm trong những bài học tâm linh của Thầy, mỗi ngày đọc một cuốn sách lại phát sinh thêm nhiều niềm vui và lòng biết ơn vô hạn. Tâm linh của đệ tử từ lâu đã chìm đắm trong biển trí huệ vô tận của Thầy, chỉ tiếc là đệ tử ngu dốt, vẫn không sao hiểu thông và thấu triệt Mật pháp chân chính, do vậy mà nay, dưới sự thỉnh cầu quy y Thượng Sư, khẩn cầu Thượng Sư chỉ dẫn cho đệ tử sớm đắc chứng quả.


Đệ tử tên là Hề Đại Phủ, từ nhỏ đã thích Ngũ Thuật, đã bái Khổng Nhật Xương môn. Năm Dân Quốc 60 thì quy y Thiên Đức Thánh giáo, vị thầy khai sáng là thầy Ngô Tính Chính, cũng từng bái kiến thầy Vương Địch Khanh, thầy Mao Bá Kì, thầy Lưu Bội Bân, và thầy Lý Ngọc Giai, cũng từng đoạt học bổng Nhâm Tí của thầy Vương Đức Phổ.


Tục ngữ nói, một tin một ngờ, khi niềm tin bắt đầu thành thật thì đệ tử thường tự hỏi, ta từ đâu đến? Vì sao lại đến? Ai bảo ta đến đây? Mục đích là gì? Chết rồi thì đi về đâu? Nhưng cứ tự hỏi suốt hơn 10 năm mà vẫn không có câu trả lời chắc chắn. Nên lập đức, lập ngôn, lập công để cầu tên tuổi bất diệt, hay là nghiên cứu sâu về sinh tử để trực siêu tam giới?


Đệ tử từng học về số mệnh, tử vi, tử bình và bốc dịch, nhưng luôn cảm thấy quá nhiều tinh sát, không biết phải chọn cái nào. Hơn nữa, sự việc mà mình thật sự muốn biết thì không có cách nào giải thích một cách chắc chắn và đưa ra cách hóa giải cho người khác, những điểm thật sự tinh vi thì trái lại, mình lại không có năng lực. Châm cứu và y dược cho dù giải trừ được sự đau đớn của thân thể nhưng sự khổ não và oan nghiệt của tâm linh thì cũng không biết xoay sở ra sao.


Học địa lý phong thủy thì khó quá, hơn nữa các nhà và học phái phong thủy lại mâu thuẫn lộn xộn. Xem tướng mặt, xem tay thì vẫn luôn là tùy theo ý mình mà nói, đến Khổng Minh còn có sai lầm với Mã Tắc huống hồ các thầy lang giang hồ ở phường chợ. Đọc những cuốn sách của Sư Tôn như "Thế giới con mắt thứ ba" và "Linh cơ thần toán", thật sự khiến cho những người theo Ngũ Thuật tán thán, bái phục, ngưỡng mộ, Ngũ Thuật trong chốc lát đã trở thành thứ tài vặt thấp kém.


Đệ tử thường nghe người cha quá cố của mình nói: "Nam sợ đi sai đường, nữ sợ gả sai chồng." Đệ tử tuổi tác cao lên, mặc dù đã dùng hết tinh lực để theo đuổi chân lý, tri thức, nhưng biển kiến thức mênh mông, tuổi xuân qua đi, đời người như điện, còn những cuốn sách đầy bụi giống như đống giấy vụn chất đầy trên giá sách, tri thức quá nhiều, trái lại chúng giống như một đám hỗn độn, vướng víu mâu thuẫn không rõ ràng, đệ tử phải bắt đầu từ đâu đây? Vẫn quanh quẩn ở ngã tư đường thế này! Trong thời đại tri thức bùng nổ này, thời đại Mật pháp công khai, người không tin thì vẫn dứt khoát nhắm chặt mắt, nhưng kệ họ! Người thành tín thì lại bị đám thành quả trí tuệ lòe loẹt làm cho hồ đồ, trở nên lúng túng không biết phải làm sao, phải bắt đầu từ đâu, từ nhiều mục tiêu trở thành chẳng có mục tiêu.


Hiện đệ tử đang làm việc tại Viện nghiên cứu khoa học Trung Sơn, tham gia vào công việc kiểm soát chất lượng xử lý và ứng dụng máy vi tính, mặc dù công việc rất bận bịu nhưng cuộc sống có thể coi là ổn định. Công việc nghiên cứu chủ yếu là kiểm tra số liệu, viết quy cách kiểm tra và sổ tay kiểm tra chất lượng, tìm một số vấn đề để nghiên cứu viết báo cáo và viết chương trình máy tính. Nói thật lòng, đệ tử hết sức ngưỡng mộ sự tự do tự tại của Thầy, có thể chú tâm vào sự tu trì pháp, tự do làm sao, thanh cao tao nhã làm sao, phóng khoáng làm sao, làm công việc độ hóa thế nhân khắp nơi, lợi ích Trời - Người. Chỉ mong đệ tử có một ngày có thể được tự do phóng khoáng giống như Liên Sinh Kim Cương Thượng Sư, hoặc giống như tôn chủ Tiêu Công của phái Nhất Khí hưng thịnh đi khắp nơi độ hóa.


Đệ tử quy y Thánh giáo Thiên Đức, cũng từng chữa bệnh tâm linh cho người ta, được thầy Vương Địch Khanh dạy cho "Châm cứu vô hình học" và danh ngôn, và thầy Ngô Tính Chính tặng cho tháp Vạn Phật Bách Bảo Lung Linh và hoa sen xanh, đây là nhân duyên gì? Xin Thầy khai thị.

Kính chúc cát tường như ý.


Đệ tử Hề Đài Phủ kính thư."


Hề Đài Phủ này là một bậc trí giả, trí giả cũng tới quy y Linh Tiên Chân Phật Tông. Đúng vậy, ngày nay là thời đại tri thức bùng nổ, chỉ riêng các môn các phái tôn giáo đã khiến cho người ta hoa mắt chóng mặt rồi, con đường nào mới là đúng, đây là việc đáng để chúng sinh nghiên cứu sâu, việc này đòi hỏi nhãn quang chính xác.


Tôi muốn mọi người trước hết hãy quan sát rõ ràng, đừng hùa theo một cách mù quáng, cần nhận ra một vị Kim Cương Thượng Sư chân chính, đừng để cho các Thượng Sư giả lừa bịp. Theo những gì tôi học được, chỉ cần mỗi ngày đều tu, có tâm bền bỉ, nhất định sẽ tiêu nghiệp chướng, tăng phúc huệ, tương lai người người thành Phật, điều này tôi có thể đảm bảo, bởi vì tôi đã thật sự đạt được nó.


32. Thượng Sư tu pháp cứu độ


Trước tiên, tôi xin công bố một bức thư của một đệ tử người Mỹ tên là Liên Tư.


Phiên dịch ra như sau:

"Thưa Thầy Lư,


Đệ tử muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Thầy vì nhờ sự giúp đỡ của Thầy mà đệ tử đã khỏe lại. Gần như ngay khi nói chuyện với Thầy trên điện thoại thì đệ tử đã bắt đầu bình phục rồi.


Tất cả những ma quỷ mà đệ tử nhận thấy gần một năm nay đã tiêu biến, và thay vì cảm thấy yếu ớt và sợ hãi, đệ tử đã tìm được sức mạnh và sự bình an mới.

Mọi thứ dường như đã trở về đúng trật tự, và sự thiền định của đệ tử đã trở nên tốt hơn và vẫn tiếp tục tốt hơn. Đệ tử đã nhìn thấy ánh sáng rực rỡ mạnh mẽ và chư Phật Bồ Tát.

Xin thầy hãy nhận lấy lòng cảm tạ vô hạn và biết ơn sâu sắc của đệ tử.

Kính mến,

Demi."


Đệ tử nữ người Mỹ tên là Liên Tư này chính là người bạn thân của tiến sĩ Hoàng Trạch Hi (Liên Quảng) ở New York. Họ từ New York đến Seattle để nhận quán đảnh quy y.


Đệ tử nữ người Mỹ tên Liên Tư này khi chưa nhận quán đảnh quy y từng nghiên cứu và học tập đạo pháp của phái Nội Đan của Đạo gia. Cô ấy tu tập hàng ngày, tinh tấn vô cùng, cô ấy luyện tới mức toàn thân đỏ rực như lửa, toàn thân trông giống như bếp lò vậy, da dẻ đỏ lên từng vùng từng vùng, mặt mũi cũng đỏ, tỏa ra ánh sáng, giống như một đứa trẻ sơ sinh đỏ hỏn vậy.


Lần đầu tiên gặp Liên Tư, tôi đã rất khen ngợi cô ấy, cho rằng cô ấy tu rất tốt, chỉ là cô ấy không biết đến công phu thả lỏng. Bởi vì người tu pháp nhất định cũng cần phải biết pháp thu công, nếu không nội hỏa toàn thân sẽ trở nên nóng bỏng đến mức đáng kinh ngạc.


Sau đó, Liên Tư tu pháp càng gia tăng tinh tấn, kết được nội đan, và rồi huyễn tướng xuất hiện. Mới đầu cô ấy không hiểu đạo lý "không giữ, không bỏ", nhập vào trong huyễn tướng, bị huyễn tướng quấy nhiễu, sau đó mới thông báo cho tôi. Sau khi tôi biết được thì lập tức tu pháp hàng phục giúp Liên Tư, giải từ tất cả chướng ngại do tâm lý sản sinh ra, giải cứu được sự khốn đốn của cô ấy.


Nói về pháp hàng phục này, nó là một trong những nghi quỹ rất sâu, có thể nói rằng người thông hiểu toàn bộ "lớn, nhỏ, tính, tướng, luật, mật" mới có thể tu mật pháp này, mới là người hiểu cách phân biệt rõ ràng, thông suốt không có gì phải nghi ngờ. Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư có sự khảo sát tỉ mỉ đối với chính tà tinh thô, hơn nữa còn khế hợp với khả năng cứu độ của một người rèn luyện công phu, như vậy mới có biện pháp để hàng phục ma huyễn tướng, mới có biện pháp để thực thi công việc cứu độ.


Tôi đây là một bậc Pandita - bậc trí giả vĩ đại với kiến thức uyên bác, là Đại Trì Minh Kim Cương Acharya, hoàn toàn không phải là tự mình xưng danh hiệu, mà tôi đã thật sự ấn chứng Tam giáo Hiển - Mật - Đạo. Hơn nữa tôi đã bay lên nội viện của Đâu Suất Thiên Cung, được đích thân Di Lặc Bồ Tát sắc phong danh hiệu.


Nhân duyên của tôi cực kì lớn, vì độ chúng sinh mà thị hiện ở nhân gian, giúp chúng sinh biết nhân quả mà khởi lên chính tín, không chỉ độ người mà còn độ thần độ trời độ ác ma, tất cả đều được thuận lợi độ hóa, đó là đại pháp duyên khó gặp, thập phương Như Lai gia trì ca ngợi.


33. Có Thượng Sư nói như vậy


Sau khi tôi (Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư) đã viết rất nhiều sách Mật pháp, tự nhiên đã gây nên cơn chấn động lớn trong Mật tông. Người tu Mật pháp cũng trở nên nhiều hơn, đệ tử quy y tôi mỗi ngày một tăng lên, nay đã đông tới mấy vạn người. Tôi không chỉ khiến những người tin tưởng tôi đến quy y mà cũng khiến cả những người không tin đến quy y tôi. Đương nhiên cũng có rất nhiều vị Kim Cương Thượng Sư tán đồng với tôi.


Tôi đưa ra một bức thư để làm chứng như sau:

"Kính Sư Tôn soi xét:


Kể từ tháng 7 âm lịch năm nay, trước sau đã mấy lần đệ tử nghe có người hỏi đệ tử về chuyện của Lư Thắng Ngạn. Họ đều là những người mà đệ tử không quen biết, chỉ là người lạ đã từng gặp ở các pháp hội ở chùa hoặc các buổi giảng tọa Phật pháp. Một người hỏi đệ tử: "Chị có biết Lư Thắng Ngạn không, anh tôi chuyên đọc sách của ông ấy." Đệ tử trả lời rằng chưa từng nghe qua. Sau đó lại có một người hỏi: "Em trai tôi luôn đọc sách của Lư Thắng Ngạn, chị có biết người này không?" Đệ tử nghĩ trong đầu, người này là thần thánh phương nào mà nổi danh đến vậy.


Có một hôm, nghe một người nói, bạn của anh ta bảo Thầy Lư Thắng Ngạn có thể quán đảnh từ xa. Khi ấy đệ tử cười ha ha, nghĩ trong lòng rằng người này sành điệu gớm, dùng cả một "kiểu phương thức quán đảnh rất hiện đại" như vậy cơ đấy. Nhưng đệ tử chỉ nghĩ trong đầu, không nói ra khỏi miệng, vẫn là do đệ tử giữ giới luật, đối với những người cùng theo Phật môn thì không dám mở miệng phê bình. (Đệ tử đã thọ Bồ Tát giới.)

Người ấy hỏi Phổ Lực Kim Cương Thượng Sư: "Có kiểu quán đảnh từ xa không?" Phổ Lực Kim Cương Thượng Sư nói: "Có."

Người đó lại hỏi: "Nghe nói nguyên thần của Lư Thắng Ngạn có thể bay về Đài Loan, hơn nữa đúng là có người nhìn thấy ông ấy, việc này có thật không?"


Phổ Lực Kim Cương Thượng Sư nói: "Có thể, việc này có thể làm được."


Sau đó, có một hôm, đệ tử đang đứng ở cổng chùa Lâm Tế, có một phụ nữ đi vào, nói rằng em trai của bà ấy học nấu món chay, đệ tử mời bà vào chùa bái Phật, rồi tặng cho em trai của bà ấy hai cuốn sách về món chay và phương pháp chữa bệnh bằng rau quả. Kết quả là người phụ nữ này lại hỏi đệ tử: "Chị có biết Lư Thắng Ngạn không?" Trong lòng đệ tử chấn động, lại Lư Thắng Ngạn, bà ấy kể em trai bà ấy vì đọc sách của Thầy mà mới tin Phật và ăn chay.


Lần này, đệ tử nghĩ đệ tử phải tìm hiểu một chút về Thầy xem Thầy là một người thế nào. Thế là đệ tử hỏi em trai của người phụ nữ kia có thể cho đệ tử mượn pháp bản của Thầy để xem một chút được không. Bà ấy lấy ra rất nhiều sách, đệ tử nói đệ tử không muốn đọc sách, chỉ muốn tham khảo và nghiên cứu pháp bản thôi, thế là bà ấy đi vào và tìm cho đệ tử, đệ tử đọc thì thấy đó là "Thượng Sư tương ứng pháp". Đệ tử giở ra đọc, khi ấy trong lòng đệ tử nhiệt huyết sục sôi. Trời ơi! Pháp và lí nói ra một cách tỉ mỉ rõ ràng như vậy, đây không phải là năng lực và trí tuệ của một người bình thường có thể làm được, mà đây đích thực là một vị Kim Cương Đại Trì Minh Acharya chân chính mà đệ tử mơ ước bấy lâu.


Kể từ khi đọc xong "Thượng Sư tương ứng pháp", đệ tử ngày ngày suy nghĩ, trong lòng hối hận vô cùng, vì sao khi Thầy còn ở Đài Loan, đệ tử đã không có duyên gặp gỡ, nay vị Phật chân chính đã rời xa, đã đến đất nước khác độ người ta rồi. Vẫn may, lúc này có thể xin được quy y dưới pháp môn vẫn chưa muộn, ân đức lớn lao ban cho quy y và từ nay dẫn dắt tu đến chính quả này của Thầy muôn kiếp đệ tử không thể lãng quên.

Đệ tử đã đọc qua những cuốn sách mà thầy viết, có năm cuốn, đã hiểu sâu hơn về Thầy. Tục ngữ nói "khuyên bảo hết nước hết cái", đệ tử gọi Thầy là "khổ bút truyền tải bi tâm".

Với mong muốn mở ra cánh cửa trí tuệ của chúng sinh và dẫn dắt con đường giác ngộ và thành Phật.

Khai mở pháp bí mật vạn kiếp khó gặp, từ tâm thành tựu Phật chủng hằng hà sa kiếp.


Ân huệ của Thầy ngày hôm nay không chỉ phổ biến rộng khắp ở Linh Tiên Chân Phật Tông, đệ tử càng vì chúng sinh tương lai mà dâng lên tâm cúng, thành kính muôn phần, rập đầu bái lạy Thầy.


Đệ tử không phải người giỏi viết văn, vẫn luôn sợ viết thư, hôm nay biên thư nếu có chỗ nào không ổn, mong Thầy rộng lòng tha thứ. Nay đệ tử có việc này cầu Thượng Sư: Một, đệ tử từng cầu Bồ Tát rằng "kiếp này thoát li luân hồi, không còn có kiếp sau nữa", bây giờ tâm nguyện này chuyển sang thỉnh cầu Thầy: "Giúp con đời này, tu được đắc chứng, có đủ năng lực độ sinh." Hai là, có một hôm, tụng kinh xong, đệ tử bất chợt phát tâm nguyện, liền viết ra lời thề nguyện như sau:

Nguyện âm thanh của con vang khắp nơi khắp chốn.

Nguyện ai nghe được âm thanh của con chấm dứt ngu si và đắc trí huệ vô thượng.

Nguyện tai mắt của con sáng rõ tinh tường để nghe được âm thanh kêu khổ của vô lượng vô biên chúng sinh.

Nguyện tất cả chúng sinh mà con trông thấy bằng lòng giải thoát đau khổ mà tâm trở nên mềm mại từ bi.

Nguyện tất cả chúng sinh mà con trông thấy có thể ghi nhớ mọi đau khổ đã phải chịu trong kiếp quá khứ, khôi phục kí ức để mà chăm chỉ tu Phật pháp.

Nguyện giúp Địa Tạng Vương Bồ Tát quét sạch địa ngục, chúng sinh địa ngục thành tựu Chánh giác.

Mong Thầy đồng ý gia trì giúp tâm nguyện của con sớm đạt thành tựu.

Kính chúc cát tường.

Đệ tử Liên Mính cung kính đảnh lễ.

28/10/1984"

Trước tiên, tôi ban pháp hiệu cho đệ tử này là Liên Mính.


Bức thư này nhắc đến Phổ Lực Kim Cương Thượng Sư. Tôi có biết Phổ Lực Kim Cương Thượng Sư, ông ấy có một khuôn mặt vuông vuông chữ điền, diện mạo đoan chính, đeo một cặp mắt kính, ông tốt nghiệp Học viện Viên Minh Lăng Nghiêm Chuyên Tông Thượng Hải, cũng là trụ trì một giảng đường Đại thừa. Phổ Lực Kim Cương Thượng Sư là một Thượng Sư chính khí lẫm liệt, vẫn luôn là một trong những Thượng Sư mà tôi kính ngưỡng.


Phổ Lực Kim Cương Thượng Sư cho rằng quán đảnh từ xa là có thể, cho rằng xuất nguyên thần là có thể, bởi vì Phổ Lực Kim Cương Thượng Sư hiểu về khả năng vô tận của Mật pháp. Cần biết rằng một Thượng Sư chân chính có ba đại thành tựu: Thứ nhất là thành tựu cưỡi hư không du hành, thứ hai là thành tựu nhiếp triệu tạng hành, thứ ba là thành tựu Bổn Tôn đại quang minh. Có được ba loại thành tựu này rồi thì quán đảnh từ xa và xuất nguyên thần đều là việc dễ như trở bàn tay. Còn nếu không biết đến khả năng dao quán [ quán đảnh từ xa ] và xuất thần thì Thượng Sư đó nhất định là không hiểu về Mật pháp, và cũng có khả năng là một Thượng Sư giả. Phổ Lực Kim Cương Thượng Sư tán đồng khiến tôi rất khâm phục.


Đệ tử Liên Mính viết về quá trình cô ấy quy y, từ lúc không tin trở thành tin, viết rằng sau khi cô ấy đọc "Thượng Sư tương ứng pháp" thì nhiệt huyết sục sôi, sau khi đọc sách thì đã biết mọi thứ về Thầy. Trên thực tế, tôi nói thẳng thắn rằng, tôi là một người chân thành vô tư. Cả đời này tôi không có bí mật nào không thể công khai, những điều mà tôi viết là sự thật chân thực. Ngay cả việc bản thân tôi bị công kích tôi cũng không che giấu, sự nghèo khó khốn cùng của bản thân tôi cũng không giấu diếm.


Nguyện lực của Liên Mính là lời nguyện của Quan Thế Âm Bồ Tát, là lời nguyện của Địa Tạng Bồ Tát, tôi cực kì vui mừng ca ngợi, cô ấy là người có nhân duyên từ kiếp trước, sau cùng chắc chắn sẽ thành Phật, nguyện lực của cô ấy sẽ hóa thành cam lộ, cúng dường chúng sinh trong thiên hạ, rộng rãi kết duyên lành.


Sách mà tôi viết, người đọc sách, bất kể nghiệp chướng nặng hay nhẹ, nhân duyên kiếp trước sâu hay nông, người gặp được sách, người đọc sách, người quy y, nhất định thành Phật. Bởi vì tùy duyên nhiếp thụ, tất cả pháp đều là con đường trung đạo sáng tỏ diệu kì thì đều có rất nhiều lợi ích, mọi người hãy phát bồ đề tâm đi!


34. Tổng thống Ronald Reagan tranh cử tổng bộ gửi thư cho Thượng Sư Lư Thắng Ngạn


Tôi từng kể rằng tôi từng nhận được thư mời dự lễ nhậm chức của Tổng thống Hoa Kỳ, nhưng tôi không tham dự vì tôi không phải là một nhân vật chính trị, cũng không phải là đặc phái viên gì cả, lại càng không phải là một nhà lãnh đạo tôn giáo. Trên thực tế Lư Thắng Ngạn chỉ là một người tu hành ẩn dật, một nhân vật nhỏ bé viết ra trên sách một số pháp tu hành bí mật bất truyền mà thôi.


Mỗi lần nước Mỹ bầu cử tổng thống lại có người đến nhà tôi hoặc gửi thư đến nhờ tôi giúp tổng thống Mỹ tranh cử, một là gửi tiền ủng hộ, hai là vận động mọi người ủng hộ. Về tiền bạc, tông chủ Linh Tiên Chân Phật Tông tôi đây bản thân không giàu có, tôi cũng có một ít tiền tiêu vặt, cá nhân tôi thì không keo kiệt, nên một chút tiền nhỏ thì tôi đương nhiên có thể ủng hộ, nhưng tôi không cần tên của tôi phải được nêu ra.


Tiếp nữa, đúng thực là tôi có rất nhiều nam, nữ đệ tử người Mỹ, họ theo tôi học pháp, tôi chỉ dạy họ tu hành thành Phật, không có dạy cái khác. Tôi cũng nói một vài lời khen đối với tổng thống Reagan, nhưng đệ người Mĩ chưa chắc đã nghe theo lời tôi để mà lựa chọn Reagan, họ thậm chí còn phản bác lại tôi rằng: "Reagan vì vận động tranh cử mà chạy khắp nơi, tiêu toàn tiền công quỹ, đi máy bay thì là máy bay quân đội, ông ấy nên ngồi hàng không dân dụng mới phải." Những lời bình luận kiểu như thế này rất nhiều.


Một người bạn Mỹ của tôi cũng là bạn của Trung Hoa Dân Quốc, là lão Bỉ Đức Sâm, trước đây từng dạy nông lâm tại Đại học Đài Loan và Đại học quốc gia Trung Hưng, bộ trưởng Bộ Nông Lâm hiện nay là học trò của ông. Lão Bỉ Đức Sâm đã về hưu, học sinh ở Đài Loan của ông ấy là đông nhất, ông ấy rất quan tâm đến Đài Loan, đặt rất nhiều kì vọng vào việc tổng thống Reagan có trúng cử hay không. Đương nhiên là ông ấy hi vọng Reagan sẽ trúng cử, lão Bỉ Đức Sâm từng giữ chức người phụ trách ở Bộ Nông Nghiệp, là quan chức nước Mỹ thế hệ trước. Chính phủ nước ta có rất nhiều quan to biết đến ông ấy, ông ấy ngày ngày cầu nguyện cho tổng thống Reagan.


Lần này tổng thống Reagan tranh cử vào tổng bộ cũng có gửi một bức thư đến Thượng Sư Lư Thắng Ngạn, lá thư gửi đi từ Nhà Trắng ở Washington DC Hoa Kỳ. Đương nhiên tôi vui lòng giúp đỡ, tôi sẽ dùng hết khả năng nhỏ bé của mình, mặc dù tôi không phải là một nhân vật chính trị, tôi cũng không thích nhất là chính trị, nhưng người ta có thư gửi cho bạn thì bạn cũng nên nói một tiếng.


Reagan đã trúng cử rồi, không biết liệu có lại gửi đến một lá thư mời nhân vật nhỏ bé là tôi đây đến tham gia buổi lễ nhậm chức của ông ấy không. Cho dù lần này cũng lại gửi thư đến thì tôi là một người tu trì ẩn cư, tôi không biết xã giao nơi chính trị, tôi thật không thể xuất hiện ở nơi đó, do vậy tôi vẫn sẽ luôn vắng mặt.


Nguyên văn bức thư như sau:


Bức thư tổng tống Reagan gửi cho Thượng Sư Lư Thắng Ngạn được dịch ra như sau:

"Ông Lư thân mến,

Hôm nay tôi viết thư để yêu cầu sự giúp đỡ của ông.


Bởi ông và tôi phải có hành động nhanh chóng để đảm bảo rằng mọi thứ mà chính phủ Reagan gìn giữ sẽ không bị đánh bại trong cuộc bầu cử năm 1984 này.


Đặc biệt là, tổng thống Reagan đang đối mặt với nguy cơ bị mất đại đa số ghế ngồi trong thượng nghị viện do Đảng Cộng Hòa kiểm soát trong phần còn lại của thế kỉ này.


Và tôi muốn báo với ông một cách đơn giản nhất có thể điều này nghĩa là gì --- Ronald Reagan không thể tiếp tục phục hồi tương lai của đất nước nếu không có sự ủng hộ và dẫn dắt của đại đa số ghế ngồi trong nghị viện.


Nếu chúng tôi mất thượng nghị viện, chúng ta có thể sẽ quay trở về với chính sách lạm phát nhiều con số, sự tăng thuế khổng lồ, sự phòng hộ quốc gia thiếu hụt - tình hình chính trị gây nguy hại đối với đất nước tương tự như thời chính phủ Carter.


Tôi biết ông đồng ý rằng chúng ta không được để điều này xảy ra. Và tôi nhấn mạnh "chúng ta" bởi vì đây phải là một nỗ lực chung.


Theo đó, tôi đã được tổng thống Reagan yêu cầu chủ trì một đội đặc nhiệm tổng thống Cộng Hòa đặc biệt được lập ra để đảm bảo rằng ông ấy sẽ có được đại đa số ghế thượng nghị viện.


Tôi chỉ mong rằng ông có thể thấy được tầm quan trọng của thượng nghị viện đảng Cộng Hòa đối với tương lai của đất nước này giống như ông Reagan hàng ngày vẫn thấy được điều đó từ bàn làm việc của Nhà Trắng.


Và tôi đang đề nghị ông, vì tổng thống của ông và đất nước của ông, mà cân nhắc lập tức gia nhập hội viên của đội đặc nhiệm này.


Chi tiết về hội viên của đội đặc nhiệm được đính kèm ở đây. Và như ông sẽ thấy, trở thành hội viên không phải là tham gia một cách hời hợt. Nó sẽ đòi hỏi sự đầu tư suy nghĩ, thời gian và tiền bạc từ phía ông.


Riêng tôi đã chấp nhận lời đề nghị chủ trì đội đặc nhiệm tổng thống đảng Cộng Hòa năm 1984 bởi vì cuộc cầu cử tới đây sẽ là cơ hội tốt nhất của chúng ta để tiếp tục xây dựng lại đất nước này.


Một lần nữa, tôi nhấn mạnh rằng sự tham gia của ông là rất cần thiết ngay lúc này. Đối với một số người, cuộc bầu cử dường như vẫn còn rất xa, nhưng vài tháng tới sẽ là cơ hội tốt nhất của chúng ta để đảm bảo đa số ghế thượng nghị viện đảng Cộng Hòa cho tổng thống Reagan năm 1984.


Ngay lúc này đảng Cộng Hòa chúng ta đang kiểm soát thượng viện chỉ bằng một biên độ mỏng với năm phiếu.


Chúng ta đã mất 26 năm ròng lựa chọn 55 nghị sĩ đảng Cộng Hòa để giành được sự đa số hẹp, và mất hai năm khổ cực để duy trì nó. Trong khi đảng Dân Chủ chỉ cần sáu ghế trong cuộc bầu cử 1984 này để giành được nó từ tay chúng ta.


Thành thật mà nói, tỷ lệ cược chống lại chúng ta. Và chúng ta sẽ không bao giờ có thể tiếp tục con đường đi tới sự thịnh vượng trừ phi ông và những người khác nói cùng nói "Ok, tôi sẽ gia nhập".


Đó là vì sao tôi đề nghị ông trở thành hội viên của đội đặc nhiệm bằng cách gửi đi $120 trong một lần thanh toán hoặc trả góp $10 trong 12 tháng.


Tương lai của nước Mỹ trong vòng 20 năm tới nằm trong tay người điều khiển thượng nghị viện năm 1984.


Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng tổng thống Reagan và tôi có thể nhờ cậy vào sự gia nhập đội đặc nhiệm của ông. Công việc nghiêm túc cần phải được thực hiện ngay bây giờ để bảo toàn đa số thượng viện của chúng ta.

Thân mến,

Thượng nghị sĩ Richard G. Lugar


Chủ tịch


Tái bút: Bằng chứng xác thực công nhận ông là thành viên của lực lượng đặc nhiệm Tổng thống Reagan là một trong những sự công nhận có một không hai. Xin hãy đọc cuốn thông tin đính kèm để xem chi tiết và tham gia ngay hôm nay. Xin cảm ơn."


Phụ lục 1: Thứ tự sinh khởi và Thứ tự viên mãn


Bản văn này trích từ tuyển tập Khai thị của Lư Thắng Ngạn "Bài ca của Hoạt Phật" tập 1.


Mật giáo có hai trật tự. Một cái là Thứ tự sinh khởi, một cái là Thứ tự viên mãn. Thứ tự sinh khởi là sự tu hành tam ma địa giữa Bổn tôn, Thượng sư, Không hành và bạn. Thứ tự viên mãn thì thuộc về sự tu hành tâm, khí, mạch, minh điểm ở bên trong thân thể, cái này thì trong Mật giáo mới có.


Hôm nay, chúng ta nghe pháp sư Liên Cần kể về quá trình học tập Chân Phật Mật Pháp của ông ấy. Đầu tiên, ông ấy nói sau khi thực tu Chân Phật Mật Pháp đã có cảm nhận rất hay, đây là một việc rất chính xác. Bởi vì sau khi bạn thực tu Chân Phật Mật Pháp, Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp trong hư không đều vì bạn triệu thỉnh mà tới gia trì cho bạn. Và rồi trong quá trình gia trì, bạn sẽ có một sự cảm ứng, chính là hiện tượng tương ứng, thì cái cảm giác rất hay đó sẽ sinh ra.


Trong Mật pháp được phân ra hai trật tự. Một cái chính là Thứ tự sinh khởi, một cái là Thứ tự viên mãn. Trong trạng thái của Thứ tự sinh khởi, bạn sẽ khởi lên cảm giác rất hay, nhìn chung mà nói thì cảm giác này có thể phát sinh trên thân thể, nhưng cũng có thể tiêu biến ngay trên thân thể bạn.


Vì sao vậy? Bởi vì chỉ cần bạn rút lui hoặc mất lòng tin thì cảm giác này sẽ từ từ không còn nữa. Đây là vấn đề của nhân duyên. Bạn luôn luôn giữ vững mối quan hệ với Thượng sư, Bổn tôn, Hộ pháp, luôn luôn vô cùng khăng khít, giới samaya không bị phá vỡ, thì cảm giác này sẽ tồn tại vĩnh viễn. Cái cảm giác này là vĩnh viễn tồn tại. Bổn tôn, Thượng sư, Hộ pháp lúc nào cũng ở bên cạnh bạn. Thế thì vì sao có thể mất đi? Bởi vì giới samaya không còn nữa. Bạn không liên tục triệu thỉnh các vị, tự nhiên các vị sẽ bỏ đi, sẽ lui đi. Thượng sư, Bổn tôn, Không hành đều rời xa.


Thế thì vì sao nghiệp chướng vẫn chưa tiêu trừ? Ví dụ như bạn kinh doanh không thuận lợi, gia đình, bản thân, đủ thứ vận số vì sao lại không tốt? Kiểu hiện tượng này mỗi người đều sẽ gặp phải, có người thì luôn luôn rất thuận lợi, nhưng có người thì lại có những sự biến hóa vô thường, hoàn toàn không hề vì cảm nhận tốt mà tất cả vận mệnh đều thay đổi, đều trở nên tốt đẹp. Bởi vì trong việc này có liên quan đến nhân quả, nghiệp chướng của bạn, có một số nhân duyên ở trong đó.


Bởi vậy, khi hành giả còn đang khổ, cần phải chăm chỉ nghiêm túc hơn để vượt qua được cái khổ này, không thể vì chịu khổ mà thoái lùi đạo tâm. Nhìn chung mà nói, rất nhiều người đều vì phải chịu khổ, cho rằng trước đây không tu hành vẫn tốt, sau khi tu thì lại phải chịu khổ, thế là thối lùi đạo tâm, ở đây chính là nghị lực của bạn chưa đủ, vẫn còn chưa hiểu được mối liên hệ nhân quả, nghiệp chướng và những thứ khác. Tu hành có tiến có lùi, đây cũng là một hiện tượng tự nhiên, vậy phải làm sao để tu hành mà không từ bỏ đây? Ngoài ra còn có một cảm nhận nữa, đó là cảm nhận ở trong Thứ tự viên mãn, so với cảm nhận của Thứ tự sinh khởi thì còn sâu hơn nữa.


Bình thường Hiển giáo tu hành chỉ tu đến Thứ tự sinh khởi, khi xong Thứ tự sinh khởi rồi thì hy vọng Phật Bồ Tát đến tiếp dẫn, Bổn tôn, Không hành, Hộ pháp, Thượng sư và các sư phụ của bạn đến tiếp dẫn vãng sinh. Nhưng Thứ tự viên mãn thì khác, pháp này thuộc về sự tu hành tâm và khí, chỉ có trong Mật giáo mới có.


Tối qua tôi đã nói qua về Thứ tự viên mãn, tu hành con đường này là bạn phải đưa năm loại khí chính, năm loại khí phụ và khí thứ yếu, toàn bộ đều tiến vào trung mạch, cần tập trung những loại khí này ở trong tâm luân, điểm quan trọng nhất chính là khiến cái thân thô vật chất này từ từ tan ra và trở thành ánh sáng, chỉ còn lại ánh sáng và khí của tâm. Điều này chỉ trong sự tu tập Thứ tự viên mãn mới có. Chỉ cần khí đi vào trung mạch, cảm nhận của bạn sẽ hoàn toàn khác, cảm nhận này thuộc về chính bản thân chứ không phải đến từ bên ngoài.


Vừa nãy pháp sư Liên Cần có nói, cảm giác khi tu Chân Phật Mật Pháp của ông ấy rất hay, cái cảm giác ấy là đến từ bên ngoài, chứ không phải là do tu khí mà sinh ra. Cảm giác đến từ bên ngoài chính là đến từ sự gia trì của Bổn tôn, Thượng sư, Không hành trong hư không gia trì, là những cảm nhận mà bạn thấy được. Nhưng giả sử bạn không có Thứ tự sinh khởi, chỉ tu Thứ tự viên mãn thôi có được không? Không được, bạn muốn tu Thứ tự viên mãn thì nhất định cần phải có sự gia trì của Thượng sư, Bổn tôn, Không hành thì mới có thể tu được.


Do vậy, Mật giáo chúng ta tu hành phải tu Thứ tự sinh khởi trước, sau đó mới tu Thứ tự viên mãn, cần phải theo thứ tự. Bởi vì chưa có được sự gia trì của Thượng sư, Bổn tôn, Không hành thì giả sử tu Thứ tự viên mãn, khí không thể đủ để đi vào trung mạch, hơn nữa bản thân khí này cũng không phải là khí trí huệ. Buộc phải có Thượng sư, Bổn tôn, Không hành gia trì cho bạn, chuyển biến thân khẩu ý của bạn thành thanh tịnh thì mới có được khí trí huệ.


Sau khi khí trí huệ này đi vào trung mạch thì bạn mới có thể đạt được sự thông suốt của trung mạch, sau khi khí di chuyển thông suốt trong trung mạch thì khí đến tâm luân, sau đó bắt đầu từ tâm luân phóng quang, từ từ khiến thân thể vật chất thô của bạn tan ra, chỉ còn lại khí và thức, như vậy bạn mới có thể thành Phật.


Khí trí huệ đi vào trung mạch chắc chắn sẽ có những cảm nhận còn hay hơn nữa, cái cảm giác ấy là do chính bản thân bạn sinh ra. Đầu tiên là cảm giác đến từ bên ngoài do Thượng sư, Bổn tôn, Không hành đem đến cho bạn, sau đó biến thành những cảm nhận do chính bản thân bạn sinh ra.


Thành Phật không phải là sau khi được Thượng sư, Bổn tôn, Không hành gia trì cho bạn mà bạn sẽ có thể thành Phật, mà là gia trì cho tâm và khí của bạn, bạn có thể tự mình vận chuyển, dựa vào tâm và khí của chính bạn mà thành Phật. Bí quyết thành công ở đây thì sau này tôi sẽ từ từ nói.


Đối với Thứ tự viên mãn thì thuộc về tính Không, còn Thứ tự sinh khởi thì vẫn còn ở trong trạng thái Có, vẫn ở trong sự đối lập. Thứ tự sinh khởi là sự tu hành samaya giữa Bổn tôn, Thượng sư, Không hành và bạn. Thứ tự viên mãn thuộc về sự tu hành khí, mạch, minh điểm bên trong thân thể của bạn, chuyển hóa vật chất của thân thể thành ánh sáng, thành tâm, thành khí, từ đó thành tựu Phật quả.

Do vậy có hai loại cảm nhận. Một loại cảm nhận, là khi bạn mới tu các nghi quỹ trong Chân Phật Mật Pháp, có Thượng sư, Bổn tôn, Không hành gia trì cho bạn, cảm nhận của bạn sẽ rất hay, đây là loại cảm nhận thứ nhất. Loại cảm nhận thứ hai là khi khí của bạn đi vào trung mạch, hoặc khí tập trung ở tâm luân, sinh ra chuyết hỏa, hòa tan minh điểm và sản sinh ra ánh sáng đại lạc, thứ cảm giác ấy sẽ không bao giờ biến mất, đó là cảm giác của Thứ tự viên mãn.


Hôm nay tôi giảng đến đây thôi. Om mani padme hum.


Phụ lục 2: Vận chuyển đất - nước - lửa - gió như thế nào?


Bản văn này trích từ tuyển tập Khai thị của Lư Thắng Ngạn "Bài ca của Hoạt Phật" tập 2.


Tu hành Mật giáo là biến nước thành thanh tịnh, biến lửa thành ánh sáng, biến đất thành kiên cố, biến gió thành sự lưu chuyển, vận chuyển. Lưu chuyển, vận chuyển chính là làm thông tất cả kinh mạch, từ đó mà sản sinh ra ánh sáng thanh tịnh, như vậy có thể chứng minh tánh Không.

Hôm nay chúng ta nghe pháp sư Liên Hân nói về sự tu hành tâm tính.


Cũng có thể nói rằng lục đạo luân hồi là do bản thân tạo nên, hoàn toàn là do tự bản thân sản sinh ra. Các loại tu hành đều dựa vào tâm của chính mình để tạo nên các hạt giống trong tương lai.


Bà ấy nhắc đến đất nước lửa gió, bà ấy nói đến nước, nước này ở trong thân thể con người, thuộc về một trong tứ đại. Tu hành Mật giáo cũng dựa theo tứ đại này mà tu.


Thế còn ngọn nguồn sau cùng của tứ đại vẫn là nằm ở tâm. Vừa nãy mới nói rằng chỉ cần động lên một suy nghĩ, nước mắt của bạn liền chảy ra, nước bọt của bạn liền nhiễu ra, minh điểm dịch thể tiết ra, tất cả đều có thể chảy ra, đó mới chỉ là một tâm niệm khởi lên mà thôi.


Trong kinh Phật có nhắc đến: trong địa ngục có nơi gọi là địa ngục đại hàn, còn có địa ngục đại nhiệt. Cái gọi là địa ngục đại hàn có liên quan đến nước, địa ngục đại nhiệt có liên quan đến lửa. Đại hàn, đại nhiệt và địa ngục vô gián đều có liên quan đến đất nước lửa gió trong thân thể bạn.


Thật ra, trong tu hành Mật giáo, phần chính hành cũng không có chỗ nào đặc biệt cả, thực chất vẫn là dùng tâm của bạn để kiểm soát đất nước lửa gió của chính bạn.


Ví dụ nói về đất. Nói về hành giả dựa vào đất thì thứ nhất, đầu tiên là anh ta cần kiên cố đạo tâm của bản thân, đó chính là đất. Đất này là gì? Đạo tâm của bạn cực kì kiên cố thì đó chính là đất. Đất là cái gì? Đất chính là tính kiên cố, chủ yếu là tính vững chắc.


Tiếp theo là nước. Hành giả Mật giáo tu nước này, ban đầu là nước vẩn đục, nước bị ô nhiễm, sau cùng sẽ trở thành nước thanh tịnh. Thế rồi sử dụng nước thanh tịnh này để làm pháp dùng nước làm thanh tịnh ý, thanh tịnh khẩu, thanh tịnh tâm. Hành giả Mật giáo trong khi tu hành, đất ở trong thân chính là đạo tâm kiên cố, và tâm thanh tịnh chính là nước.


Tiếp theo là lửa, lửa là cái gì? Lửa chính là ánh sáng. Bạn châm lửa thì sẽ sinh ra ánh sáng. Bản thân lửa này mà nói thì lửa ở trong thân thể bạn sản sinh ra ánh sáng, ánh sáng này dùng để làm gì? Bản thân lửa chính là ánh sáng, vậy thì cũng có nghĩa là ánh sáng của tâm, tất cả mọi sự đi đứng hành động đều từ ánh sáng, ánh sáng này chính là lửa.


Thế còn gió là gì? Trong Mật giáo của chúng ta thường nhắc đến tu gió. Bản thân gió chính là một dạng vận chuyển, vận chuyển bên trong thân thể bạn. Tu khí này đến lúc trở nên nhẹ vô cùng, trở thành một dạng dòng chảy pháp, khí này chính là một dạng pháp lưu, ngọn nguồn của khí chính là tâm. Chúng ta thường nói tâm và khí hợp nhất, tu gió trong Mật giáo chính là tu tâm. Vậy thì khí là cái gì? Khí chính là tâm. Mặc dù bản thân gió chuyển động ở bên trong thân thể bạn, nhưng gió đến để vận chuyển đất, vận chuyển nước và vận chuyển lửa hoàn toàn do tâm điều khiển.


Tu hành Mật giáo là biến nước thành thanh tịnh, biến lửa thành ánh sáng, biến đất thành kiên cố, biến gió thành lưu chuyển, vận chuyển, lưu chuyển vận chuyển chính là làm thông tất cả kinh mạch, từ đây sản sinh ra ánh sáng thanh tịnh, như vậy thì có thể chứng được tánh Không.


Do vậy, khi nãy chúng ta nói về nước, lúc ta buồn thì nước mắt chính là nước, khi bạn thèm ăn thì nước bọt chính là nước, khi bạn thèm "yêu" thì chất bài tiết ra chính là nước. Nước này vốn dĩ là một thứ thanh tịnh giống như bản thân Phật, Như Lai, chỉ là bị kèm thêm cảm giác thèm "yêu" chi phối, nếu như trừ bỏ được sự thèm "yêu" này thì đó chính là Như Lai.


Những thứ giống nhau, cùng là nước, cùng là lửa, cùng là đất, cùng là gió, nhưng tùy vào bạn vận chuyển chúng thế nào mà thôi. Do vậy, bạn có thể vận chuyển đất nước lửa gió thì bạn có thể chứng được tính Không. Bạn không thể vận chuyển được đất nước lửa gió thì bạn chính là phàm phu tục tử.


Cái gọi là thiên đường và địa ngục, chúng ở đâu? Thiên đường chính là khi bạn có thể vận chuyển được đất nước lửa gió, còn nếu bạn không thể vận chuyển được đất nước lửa gió thì chính là địa ngục.


Do vậy, trong địa ngục có địa ngục đại hàn chính là nước, địa ngục đại nhiệt chính là lửa. Thân thể cảm nhận một cách mạnh mẽ đủ loại tổn thương chính là địa ngục của gió. Bạn phải chịu chó sắt cắn, bị trâu sắt cày, hoặc bị nhốt trong tường đồng vách sắt thì đó chính là địa ngục của đất. Những thứ có tính chất tương tự sẽ diễn hóa mà ra.

Bởi thế, Phật tánh của Như Lai có thể hiển hiện thành thiên đường, cũng có thể hiển hiện thành địa ngục, cũng có thể hiển hiện sự thanh tịnh, cũng có thể hiển hiện sự ô trược, đạo lý chính là ở đây.


Om Mani Padme Hum


(Hết)

Nguồn: chanphat.org