Cuộc Đời Giải Thoát Mandarava

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ GIẢI THOÁT CỦA 

ĐỨC CÔNG CHÚA MANDARAVA

Bậc Phối Ngẫu Xứ Ấn của Đức Liên Hoa Sinh

Được dịch ra Anh ngữ bởi Lama Chonam và Sangye Khandro

Lời giới thiệu bởi Janet Gyatso

Được dịch ra Việt ngữ bởi Dharma Dipo, 2016

Sự Hồi Hướng Của Dịch Giả

 Được hồi hướng tới ngài Dudjom Sangyum, Rigdzin Wangmo, 

Một Dakini trí tuệ nguyên sơ vĩ đại sống trong thế giới ngày nay.

Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

 

Là những hành giả tâm linh, chúng tôi nhận được sự khích lệ và cảm hứng nhờ việc đọc tiểu sử của vị thầy phi thường vĩ đại. Nguồn cảm hứng chúng tôi nhận được từ cuộc sống gương mẫu của các ngài cho phép chúng tôi tiến nhanh hơn trên con đường giải thoát. Vì hiện tướng của tất cả mọi sự chúng ta có thể biết và thể nghiệm đều phụ thuộc vào nguyên nhân và hoàn cảnh, nên các cá nhân bình phàm thường bắt tay vào con đường thực hành theo một quá trình tịnh tiến từng bước. Tuy nhiên Đức Công Chúa Mandarava thì đã vốn sẵn được giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử đau khổ và đạt được sự toàn giác trọn vẹn, ngài không phải là một cá nhân bình phàm. Ngài chủ định hóa hiện vào các cõi giới hiện hữu bình phàm nhằm truyền cảm hứng cho chúng sinh và dẫn dắt họ nhờ quá trình tịnh tiến từng bước này, ngài dạy họ cách thực hành thông qua tấm gương của chính mình. Những trang sách này hiện nay là một bản dịch tiếng Anh lần đầu tiên được ra đời từ bản văn kho tàng quý báu của Đức Padmasambhava được gọi là Cuộc Đời và Sự Giải Thoát của Đức Công Chúa Mandarava. Những mô tả về cuộc đời đáng chú ý của Đức Mandarava thắp sáng những thể nghiệm của một vị Dakini trí tuệ vĩ đại đã truyền cảm hứng cho tất cả những người cô gặp và xoay chuyển tâm họ về trạng thái bất thoái chuyển hướng tới sự giải thoát.

 

Đức Công Chúa Mandarava xứ Zahor thường được mô tả ở bên cạnh Đức Đạo Sư Liên Hoa Sinh (Guru Padmasambhava), đối diện với một vị phối ngẫu chính khác của Đạo Sư là Đức Kharchen Yeshe Tsogyal. Công chúa Mandarava là phương tiện trong sự thành tựu bất tử của Đạo Sư, và như vậy, cô thường được mô tả cầm một bình trường thọ và mũi tên. Nhờ mối liên hệ của Đạo Sư với Đức Mandarava, mà Đức Liên Hoa Sinh đã có thể kéo dài thời gian hoạt động giác ngộ của Ngài trong thế giới này và như vậy du hành tới xứ tuyết Tây Tạng, nơi mà theo Je Mipham Rinpoche, Ngài đã ở lại khoảng 54 năm.

 

Trong 38 chương mặc khải này, độc giả đi đến sự nhận biết về một Nirmanakaya (Hóa Thân - biểu hiện giác ngộ) Dakini (Nữ Thần - Không Hành Nữ), bậc đã lựa chọn rất nhiều lần đi vào thế gian như là đấng tôn quý. Mục đích của sự mô tả này không phải để chúng ta thấy rằng chỉ những người có địa vị cao hay giàu sang mới đủ may mắn để có cơ hội như vậy, mà nó chỉ ra rằng rằng Đức Mandarava đã có thể và sẵn sàng từ bỏ, dù là những điều khó khăn nhất để từ bỏ, cụ thể là những ràng buộc, gắn kết vào cái được gọi là những thú vui trần tục của kiếp người. Trong mỗi kiếp sống của mình, cô luôn không mệt mỏi từ bỏ danh vọng và thú vui để hoạt động vì lợi ích cho người khác thông qua tấm gương và phương tiện thiện xảo. Sự từ bỏ những thú vui tạm thời, cái cướp đi thời gian quý báu và cơ hội cho sự phát triển tâm linh của cô phản ánh những cuộc tranh đấu mà các hành giả Pháp thời hiện đại này phải đối mặt. Dù là một nữ hành giả lừng lẫy, nhưng một cách tối hậu, Đức Mandarava không đi theo sự phân biệt giới tính và các hành năng giác ngộ của cô là bất tận. Giáo Pháp mà Đức Mandarava cùng tất cả các bậc thầy vĩ đại như cô thuyết giảng là con đường siêu vượt lên mọi sự phân biệt tương đối được tạo dựng bởi những cá nhân bình phàm dựa trên những thói quen thông thường của tâm nhị nguyên.

 

Tầm quan trọng lớn được đặt vào độ thuần tịnh và tính xác thực của dòng truyền thừa trong truyền thống Kim Cương Thừa. Các nữ hành giả vĩ đại trong những dòng truyền thừa này xứng đáng với sự công nhận của chúng ta. Điều này có thể được thực hiện bằng cách phiên dịch nhiều hơn tiểu sử của các nữ hành giả vĩ đại cùng các văn bản cổ quan trọng cũng như các luận giảng được viết bởi những người nữ sang Anh ngữ. Dự án biên dịch bản văn đặc biệt này ban đầu được lấy cảm hứng từ sự tận tâm từ một vài đệ tử của ngài Jetsunma Ahkon Lhamo. Jetsunma là người đứng đầu tâm linh của Kunzang Palyul Choling ở Poolesville, Maryland và bà là một người phụ nữ Mỹ được công nhận là một hóa thân của một Dakini nổi tiếng từ Tây Tạng do H.H Penor Rinpoche – bậc đứng đầu dòng Nyingma của Phật Giáo Tây Tạng hiện nay công nhận. Trăn trở để bản tiểu sử của Đức Mandarava có thể được chuyển sang Anh ngữ, ngài Thubten Rinchen Palzang đã tìm bản văn Tây Tạng ở Thư Viện Quốc Hội. Đặc biệt cảm ơn tới Susan Meinheit, người luôn yêu mến và coi sóc bộ sưu tập Tây Tạng rộng lớn ở Thư Viện và đã giúp xác định vị trí cho bản văn gốc. Bản dịch này của tôi về văn bản này sẽ không thể thực hiện được mà không có sự tài trợ hào phóng của Thubten Jampal Wangchuk, Noel Jones, Sarah Stevens, W.W và Eleanor Rowe, cũng như hàng chục người khác từ Tăng đoàn KPC. Vì bản văn này được viết bằng chữ Ume Tây Tạng (Dbu Med) và lại có rất nhiều từ viết tắt cũng như các lỗi chính tả, nên bản dịch sẽ không thể thực hiện được mà không có sự trợ giúp của Lama Choying Namgyal, được biết đến nhiều hơn với tên gọi là Lama Chonam, bậc đã không mệt mỏi làm việc cùng tôi, để mắt tới từng dòng văn bản. Kiến thức của Lama Chonam về Giáo Pháp, lịch sử Phật Giáo cùng ngôn ngữ Tây Tạng là không thể thiếu trong việc hoàn thành nhiệm vụ khó khăn này. Bản thảo thô ban đầu được xem xét bởi W.W. và Eleanor Rowe, những vị đã dành rất nhiều thời gian để chỉnh sửa tỉ mỉ cho bản dịch đầu. Thubten Norbu Konchog đã phối hợp dự án biên dịch và giám sát nhiều chi tiết nhỏ. Nhiều năm đã qua kể từ những nỗ lực ban đầu của chúng tôi, Lama Chonam và tôi đã một lần nữa xem xét lại sự chính xác cho toàn bộ bản văn. Nhưng bất chấp những nỗ lực tốt nhất của chúng tôi, bản văn vẫn còn có thể có những sai sót trong quá trình biên dịch. Đối với bất kỳ lỗi nào như vậy chúng tôi xin gửi lời xin lỗi chân thành và xin các vị hoan hỷ đóng góp, giúp đỡ cho việc chỉnh sửa hoặc thay đổi mà các học giả có thể phát hiện ra nhằm làm bản văn được tốt hơn. Tôi xin ghi nhận và bày tỏ lòng biết ơn của tôi tới Arthur Azdair, người đã không thể thiếu trong những giai đoạn cuối cùng trong việc chuẩn bị bản thảo để giám sát, chỉnh sửa và khéo léo nhập vào tất cả những sửa đổi cùng chỉnh sửa của chúng tôi. Cuối cùng, tôi cảm thấy phải đề cập đến rằng những quan điểm và so sánh được trình bày trong phần giới thiệu sau đó không hoàn toàn phản ánh những quan điểm và lý do của tôi để biên dịch kho tàng mặc khải quý giá này. Cơ sở cho sự khác biệt về quan điểm xoay quanh việc giải thích các nguyên tắc nữ tính và cách nó gắn liền với con đường Phật Giáo Kim Cương Thừa.

 

Quan điểm cho rằng Phật Giáo Kim Cương Thừa chỉ dành cho thiên hướng người nam là sai lầm. Tuy nhiên, nhiều người nữ đang cố gắng để đeo đuổi con đường có thể tự nhiên trở nên nản lòng khi họ gặp phải những ảnh hưởng văn hóa Tây Tạng mạnh mẽ. Tuy nhiên Pháp càng bám rễ ở phương Tây, thì nó lại sẽ càng trở nên dễ dàng liên hệ trực tiếp hơn đến Pháp, điều này hoàn toàn thuần khiết và tự do khỏi những biên kiến phân biệt, thay vì tập trung vào những thói quen từ những cá nhân bình phàm đến từ các nền văn hóa ngoại lai. Đó là lời cầu nguyện của tôi rằng cuốn sách này có thể mang lại lợi ích trong việc khuyến khích nhiều hành giả nữ xuất sắc trên thế giới trau dồi những phẩm tánh cao quý của họ, và thông qua lực thực hành của họ, tiếp tục để chính họ trở thành những bậc thầy đủ phẩm tánh. Cầu mong tác phẩm này mang lại lợi ích vô lượng cho tất cả chúng sinh hữu tình, những người đều bình đẳng và có thể chứng ngộ, nhận ra Phật tánh quý giá của họ. 

 

Sangye Khandro

Tashi Choling

Ashland, Oregon  1998

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát của Đức Công Chúa Mandarava 

Con Gái Vua Xứ Zahor, Người Chị Linh Thánh

 

Theo Những Huấn Thị Khẩu Truyền của Đạo Sư Liên Hoa Sinh

 Được Gọi Là

 Một Tràng Hoa Báu

 Hay

 Nguồn Gốc Nữ Hoàng Các Dakini, Bậc Trì Giữ Mật Chú

 

Biên Niên Sử của Dungmen, Nữ Thần Sự Sống

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát Của Dakni Paltrengma:

Nữ Hoàng Của 100 Ngàn Dakini

   

    NAMO SHRI MAHA DEVI DAKINI!    

1. Con Gái Vua Xứ Zahor Đức Công Chúa Mandarava

 

Bà Mẹ Nguyên Sơ Thuần Tịnh Khởi Thủy,

Trí tuệ bẩm sinh toàn triệt của khối cầu hư không,

Phát xuất từ thiên giới vô thượng trong năm gia đình Phật,

Bậc chánh yếu giữa tất cả chư Dakini,

Bà Mẹ của chư Bồ Tát ba thời không chút ngoại lệ,

Bậc trì giữ Giác tánh thuần khiết linh thánh của vũ điệu phô diễn kỳ diệu,

Trên con đường tối thượng của đời sống trường thọ,

Ngài là nữ thần của tất cả các bộ Phật Kim Cương1

Con xin đảnh lễ trước ngài, hỡi Mandarava!

 

Bà Mẹ Yogini vinh quang của chư Phật, từ bên trong những đại dương các cõi giới thuần tịnh cao quý, vở kịch, trò chơi của những hóa thân từ ngài xuất hiện trong 100 triệu hiện thể. Vô hạn vượt ngoài sự đong đếm này là sự kỳ diệu từ những dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của ngài trong suốt nhiều đại kiếp. Tùy theo căn cơ chúng sinh, ngài thị hiện vũ điệu hành năng kỳ diệu với các hiện tướng thế gian. Với trí tuệ tự nhiên bất nhiễm, ngài hiển lộ bản chất tinh yếu sâu xa rộng mở của con đường trưởng thành và giải thoát. Ngài cũng được biết đến như là bà mẹ của tất cả những bậc chinh phục, những bậc trì giữ đức hạnh trong bốn trạng thái hiện hữu. Tất cả những bậc thừa kế chư Phật không chút ngoại lệ đều đảnh lễ dưới gót sen của ngài và đạt được chứng ngộ chân thực. Như nền tảng phổ quát cho hiện tướng của tất cả chư Dakini trí tuệ, như chính hư không, ngài là bậc nữ hoàng phối ngẫu của không gian chân lý. Tất cả chư Dakini đã xuất hiện trong thế gian này trong suốt khắp ba thời chỉ là những đám mây trước sự rạng rỡ của chính ngài. Đức Akshobhya - Vira (Bất Động Anh Hùng), những dấu hiệu kim cương chính và phụ của ngài hiển bày sự rộng mở về bản tánh của trống rỗng. Tựa một cơn mưa lớn trút xuống, ngài xuất hiện vì lợi ích chúng sinh từ cõi vô thượng của hóa thân như sự hóa hiện tự nhiên trong 5 bộ cùng mạng lưới huyền nhiệm bất khả tư nghị từ các hóa hiện được sắp xếp một cách hoàn hảo. Như một Dakini, những năng lực giác ngộ của ngài là sự biểu hiện trong một số lượng vô hạn những hành năng kỳ diệu. Lừng danh là Mandarava, hồng danh ngài phủ khắp ba cõi hiện hữu.[1] Không lay động khỏi bản tánh tự nhiên, cầu mong ngài an trụ trong tâm điểm bông hoa sen nơi trái tim con, bất khả phân và vững chãi, cho tới khi tâm yếu của sự giác ngộ được thực chứng. Tràn đầy niềm tôn kính, con xin cúi đầu trước ngài, trước sự bất thình lình gặp mặt bản tánh chân thực của chính con! 

                                                          

3 Năm gia đình Phật là một hệ thống Phật Giáo Mật Thừa của sự giác ngộ trong đó bản chất giác ngộ tinh khiết trong năm thành phần tâm lý của chúng sinh – ngũ uẩn hay các uẩn của sắc (hình tướng), thọ (cảm nhận), tưởng (ý thức), hành (ý niệm hóa), thức (nhận thức) - được xem là năm vị Phật nam ; những vị này ở trong sự hợp nhất với các đối tác nữ của họ, những vị thể hiện năm trí tuệ nguyên sơ, điều là bản chất giác ngộ thuần tịnh của năm độc (giận dữ, kiêu mạn, ham muốn, ghanh tị và vô minh). Các "Phật" bộ được biểu trưng bởi Đức Đại Nhật Tỳ Lô Giá Na Vairocana trong sự hợp nhất với vị phối ngẫu của mình là Đức Dhateshvari, người là hiện thân cho trí tuệ nguyên sơ của sự rộng mở tuyệt đối; "Kim Cương" bộ được biểu trưng bởi Đức Bất Động Akshobya trong sự hợp nhất với Đức Phật Nhãn Buddhalochana, người là hiện thân cho trí tuệ như gương nguyên sơ; "Bảo” (ratna) bộ được biểu trưng bởi Đức Bảo Sinh Ratnasambhava trong sự hợp nhất với Đức Mamaki, người là hiện thân cho trí tuệ nguyên sơ bình đẳng, "Liên Hoa” (padma) bộ được biểu trưng bởi Đức Phật Vô Lượng Quang Amitabha trong sự hợp nhất với Đức Pandaravasini, người là hiện thân cho trí tuệ phân biệt, biết được sự đa dạng của vạn pháp, và "Nghiệp" (karma) bộ được biểu trưng bởi Đức Bất Không Thành Tựu Amoghasiddhi trong sự hợp nhất với Đức Samayatara, người là hiện thân cho trí tuệ thành tựu mọi hoạt động. (năm vị Phật cũng có những cõi tịnh độ riêng của mình; lưu ý 62.) Công chúa Mandarava là được coi là một hóa thân của Đức Pandaravasini, đối tác nữ của Đức Phật Amitabha.

 

Nhờ ánh sáng rực cháy từ mặt trời đại bi, những vết ố nặng nề của vô minh và tăm tối từ cái nhìn méo mó được xóa tan trong một tic tắc, và nền tảng cùng con đường của Pháp được thực sự chứng ngộ. Bằng cách hoàn thành sự thực hành con đường, kết quả của chân lý tuyệt đối được viên mãn. Cầu mong sự giác ngộ xảy ra tự nhiên trong trạng thái bà mẹ thuần tịnh nguyên sơ khởi thủy.

 

E Ma Ho! Trong khối cầu pháp giới Sắc Cứu Cánh Akanishta, Thiên Giới Dàn Trận Dày Đặc, các hiện tướng khách quan là cung điện của trí tuệ phúc lạc trống rỗng, bất khả phân với các quốc độ của 5 gia đình Phật cùng 5 phối ngẫu của các ngài. Không chút che chướng, thành tựu hoàn hảo trong mọi phương hướng và thời gian, chư Phật và chư Bồ Tát là những hóa hiện tự nhiên từ các hiện thân giác ngộ của Pháp thân, Báo thân và Hóa thân.[2]

 

Sự hiển bày, phô diễn nơi chốn và nền tảng của các cõi giới thiêng liêng này vượt ngoài ý niệm thông thường. Trên đầu một hạt vi trần (nguyên tử) ngự vô số các hóa thân của những bậc thầy cùng tập hội, hiển lộ Giáo Pháp tùy theo căn cơ nhu cầu cá nhân ở các trú xứ trong hệ thống thế giới này. Sự hiển bày những địa điểm thiêng liêng là sự kinh ngạc không thể nghĩ bàn. Các cõi giới hư không, trái đất cùng những hoạt động bí mật, với những chốt điểm và trú xứ năng lực thiêng liêng liên quan của riêng chúng là sự biểu hiện như Tsantoha và những chốn khác. Những điều tương ứng với thân, khẩu, tâm, phẩm tánh cao quý và các hành năng giác ngộ này, mỗi một thứ trong số này cũng bao gồm cả bốn thứ kia.

 

Trong số những vùng đất và trú xứ thiêng liêng không thể tính đếm này, có một vương quốc được gọi là Tây Tạng, trong đó có giống người man rợ mặt đỏ sinh sống. Ở trung tâm Tây Tạng, trên vách đá đỏ của Samye Peloling là ngôi đền được gọi là Cung Điện Hiện Diện Bất Biến Tự Nhiên của Ba Truyền Thống, bất nhị với Cõi Giới Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ của Liên Hoa Quang. Trong căn phòng bên trong điện thờ, được gọi là Pha Lê Lam Ngọc, đích thân Đạo Sư đang an tọa cùng nhà vua, các đệ tử cùng các thần dân của mình.

 

Trong sự hiện diện của Shakyadevi xứ Nepal, Nyangzatso, Tashi Kyidren, Kalasiddhi, Chogroza, bản thân tôi - Yeshe Tsogyal xứ Kharchen cùng vài ngàn đệ tử may mắn, Đức Guru Rinpoche đã hiển lộ mandala Tám Đấng Heruka, bản chất cô đọng tinh yếu của chư Phật, và Ngài đã ban truyền những huấn thị cùng trao truyền chín mùi và giải thoát. Vào thời điểm này, 9 người có sự khế hợp nghiệp duyên, đủ điều kiện thọ nhận, cũng như 5 nữ đệ tử, dâng lên nhiều biểu tượng của lòng sùng mộ và tôn kính. Đặc biệt chúng tôi đã dâng lên những đồ trang sức quý báu có giá trị nhất, bao gồm một viên ngọc bích (sapphire) có kích cỡ bằng một nắm tay một em bé 8 tuổi. Nhà vua cùng các thần dân của ngài dâng lên hàng lô của cải thuộc về tộc Long Vương Nanda. Cùng với mandala cúng dường này, một khẩn cầu đã được thực hiện:

 

"  E Ma Ho! Thật kỳ diệu làm sao! 

Từ Akanishta, thiên quốc của Phật Amitabha Vô Lượng Quang, 

Đến cõi Potala của Đức Thánh Trí Quán Tự Tại Arya Avalokiteshvara, 

Tới xứ Oddiyana, không còn sinh ra trong một tử cung thai tạng, 

Ngài được hóa sinh kỳ diệu từ một bông hoa sen trong Hồ Dhanakosha, 

Và, xuất hiện như con trai hóa thân của nhà vua, 

Ngài lừng danh như Đấng Kim Cương Sinh Trong Hồ Nước. 

Như bậc toàn quyền trên các hành năng giác ngộ kỳ diệu của tất cả chư Phật, 

Ngài được bao quanh bởi 100 ngàn vị Dakini từ xứ Oddiyana. 

Như một kho tàng của những dòng trao truyền Kim Cương Thừa Mật Chú Bí Mật chín mùi và giải thoát, 

Ngài là Đấng Thủ Hộ duy nhất cho những ai đi theo xứng đáng.

 

"  O Hỡi Đấng Chúa Tể Guru Padmasambhava, 

Bậc đứng đầu tất cả các vị Trì Minh Vương, 

Bậc Minh Sư tâm linh vĩ đại, xin hãy hướng Giác tánh giác ngộ của Ngài về chúng con. 

Hoạt động giác ngộ của Ngài trải trộng trên 20 lục địa, bao gồm Ấn Độ và Tây Tạng. 

Những điều huyền nhiệm Ngài đã thực hiện nhằm thuần hóa tâm thức chúng sinh thật ngạc nhiên, vượt ngoài mọi suy tưởng! 

Trong xứ Zahor Ngài đã hội ngộ nữ thần trường thọ Mandarava, 

Đấng có năng lực mang lại lợi ích cho chúng sinh, 

Bậc siêu phàm hơn bất kỳ ai khác - người nữ vinh quang với danh tiếng lừng lẫy lan tỏa khắp ba cõi hiện hữu. 

O Hỡi Đạo Sư, con cầu xin Ngài, xin hãy biểu lộ thiện tâm vĩ đại của Ngài! 

Vì lợi ích của những người đã vân tập tại đây và vì những thế hệ tương lai, 

Xin hãy chia sẻ cho chúng con câu chuyện về cuộc đời và sự giải thoát của Đức Mandarava!"

 

Đạo Sư Liên Hoa mỉm cười với niềm hoan hỷ lớn lao, và với khẩu ngữ kim cương tựa âm điệu du dương của Vua Trời Phạm Thiên Brahma, Ngài nói, 

 

""  Kye Ho! Hãy lóng nghe, các con, 9 người sở hữu nghiệp với tất cả căn cơ tâm linh tuyệt hảo! Các đệ tử may mắn, các con đã thực hiện một lời thỉnh cầu tuyệt hảo! Lúc này hãy lắng nghe chăm chú với sự tôn nghiêm và chú tâm, và hãy giữ những lời này trong tâm!

 

"  E Ma Ho! Thật kinh ngạc! Cõi Phật tịnh độ thuần khiết nguyên thủy là trú xứ thiêng liêng của sự hiện diện tự nhiên, tự sinh, trí tuệ nguyên sơ. Trong Thiên Quốc Akanishta ngự Pháp Thân Đấng Phổ Hiền Samantabhadra, hiện thân cho pháp môn vô thượng, và Đấng Samantabhadri, bà mẹ của khối cầu chân lý. Như chốn sinh ra tất cả chư Phật trong ba thời cùng các bậc thừa kế của các Ngài, bản tánh của các Ngài là trí tuệ trống rỗng, xuất hiện như một hóa hiện không ngừng dứt trong năm gia đình Phật.

 

"  Hơn nữa, Cõi Phật vô thượng Cực Lạc Sukhavati (Tây Phương Cực Lạc), nơi hiển bày những phẩm tánh giác ngộ cao quý vượt ngoài sự hiểu biết thông thường, ngự Đấng Như Lai Vô Lượng Quang Amitabha A Di Đà, bậc vua của tất các Đấng Chinh Phục. Trong thân tướng Báo thân của Ngài là Đức Phật Vô Lượng Thọ Amitayus, Ngài là cha của 1.000 chư Phật hóa thân trong đại kiếp này. Phối ngẫu trí tuệ của Ngài là Nữ Thần Pandaravasini, bậc hiển lộ những phô diễn không thể nghĩ bàn của thân, khẩu, tâm, phẩm tánh cao quý và hành năng giác ngộ kỳ diệu nhằm thuần hóa chúng sinh khắp tất cả các cõi thế gian.

 

"  Mặc dù những cách thức hóa hiện được biểu hiện khác nhau tùy theo căn cơ nhu cầu cá nhân chúng sinh, nhưng các Ngài sẽ tiếp tục biểu hiện ngay cả sau khi đại kiếp này kết thúc. Cách mà Dakini trí tuệ nguyên sơ lưu xuất trong thế giới này của chúng ta là cách lưu xuất ra vô số những biểu hiện đã và sẽ đến trong suốt khắp ba thời như vậy. Một trong số các Ngài là Dakini Liên Hoa Bộ Natyendri, vị Dakini trường thọ và là bậc phối ngẫu Giác tánh thuần tịnh, bậc đã nhận lấy hình tướng một người nữ được biết đến trong thế giới con người là Mandarava.

 

"  Vượt trội trong danh tiếng, đi vào thế giới này như một công chúa, nhưng cũng nổi trội như một bậc chứng ngộ trong cõi trời, nơi cô truyền bá những giáo lý mật chú. Trong cõi Dakini, cô đã phổ truyền một bản tiểu sử về Kim Súy Điểu Trí Tuệ. Trong xứ Oddiyana, nơi 10 ngàn chương tiểu sử của cô được ban truyền, cô trở nên lừng lẫy là Dungmen Tsedzin, Nữ Chủ Nhân Vỏ Ốc Xà Cừ Của Sự Sống. 900 chương phát tỏa đi trong xứ Zahor. Ở Ấn Độ, cô được gọi là Shrimala, Tràng Hạt Huy Hoàng và 100 chương tiểu sử của cô đã được lan tỏa ở xứ này. Trong các xứ thuộc 8 bộ lạc, cô được biết đến như là Buddhi Tsomo, và 510 chương tiểu sử của cô đã được phổ truyền. Trong cõi máu lạnh của loài Rồng, cô được biết đến như là Maitri Shridevi, Thiên Nữ Tình Yêu Thương Vinh Quang và 1.000 chương tiểu sử của cô đã được phổ truyền ở đó. Tương tự như vậy, 100 chương tiểu sử của cô đã được ban truyền trong các lục địa khác, chẳng hạn như Maru Singhala, Tsoti Bigche, Lanka, Oddiyana, Bheta Soge, Shambhala, Kashmirakarabha và 8 nền mộ địa vĩ đại. Cho đến lúc này, danh hiệu và các tiểu sử từ quá khứ của cô đã không được tiết lộ ở đây trong xứ Tây Tạng theo cấp độ kỳ diệu của cái hiểu tuyệt đối. Vì hậu thế sau này, Ta sẽ tiết lộ câu chuyện về cuộc đời và sự giải thoát của cô một cách ngắn gọn.

 

"  Bất cứ ai thấy, nghe, nghĩ nhớ tới hay gặp được bản tiểu sử này sẽ được đặt trên con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn. Bản văn này sẽ bao gồm: Tiểu sử của cô trong 7 thiên quốc, cách thức cô chủ đích hóa hiện bản thân mình vì lợi ích chúng sinh, cách cô đi vào thai tạng người mẹ với sức mạnh của trạng thái 5 cấp thấu thị, cách cô trở nên bị tan vỡ ảo mộng với vòng luân hồi sinh tử, cách cô thực hành lục độ ba la mật và được huân tập trên các giai đoạn của con đường, cách cô phát triển những phẩm tánh thông qua sự thực hành của mình về Mật chú, thành tựu của cô về trạng thái một bậc trì giữ giác tánh thuần tịnh bất tử, thành tựu giác ngộ của cô, hành trình nhập niết bàn của cô, và cách thức cô chủ ý tái sinh vì lợi ích cho những người khác. Trong tất cả, sẽ có 13 phần."

 Samaya 

Điều này hoàn tất chương đầu tiên của

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát Của Đức Công Chúa Mandarava, Xứ Zahor, Được gọi là Một Tràng Hoa Báu.

2. Con Gái Vua Indradeva 

 

Từ xa xưa trước đây khoảng 10.042 đại kiếp, trong suốt đại kiếp Bhaskara Sahasrakara, Sự Chiếu Sáng Của 1.000 Ánh Sáng, trong một xứ sở được gọi là Kotamati, trong cung điện Salapatra, có đức vua Gyeche Tsugpupel. Ông thuộc đẳng cấp tu sĩ  và là một tín đồ của thần Vishnu. Phối ngẫu của ông là  Rinchen Nangche Dronme. Hai người đã hạ sinh một người con trai tên là Bhaskarashri, nghĩa là Người Rọi Sáng Huy Hoàng. Bắt đầu với sự cai trị của Bhaskarashri, mỗi vị vua trong một ngàn thế hệ hậu duệ lần lượt nối dõi đều sở hữu những dấu hiệu chính và phụ của sự hoàn hảo, viên mãn.

 

Vị vua cuối cùng trong dòng dõi này là Indradeva, ngài đã lấy một vị phối ngẫu cho mình là con gái một thương gia giàu có tên là Taye Dzesema, nghĩa là Xinh Đẹp Vô Hạn. Một thời gian họ ở lại trong cung điện và nhà vua bỗng nhận ra rằng, ở gần đó, trong một hồ nước màu lam ngọc sâu 100 dặm và trong chu vi 7.000 dặm, là cung điện của Long Vương Malashi.

 

Bao quanh hồ nước này là một khu rừng đáng yêu với một ao nước cực kỳ trong sáng mê mẩn mỗi khi ngắm nhìn. Ao nước chứa đựng nhiều châu ngọc như ý quý giá. Được bao quanh bởi nhiều hồ nước nhỏ, hồ nước được trang hoàng đẹp đẽ với bạt ngàn hoa sen nở. Các loài sếu và chim hót đa dạng tuyệt vời tụ tập ở đó, và cam lồ mật hoa sủi ra từ nhiều con suối. Ở giữa khung cảnh này ngự một ngọn núi pha lê hình vuông được gọi là Nametotra. Những đám mây ngũ sắc phát sáng vân tập ở đỉnh núi, và các ngọn núi nhìn như những ngọn núi ở các cõi tịnh độ thành tựu tự nhiên.

 

Với mong ước được đến thăm chốn linh thiêng này, nhà vua ngỏ lời với hoàng hậu xinh đẹp của mình: "Nghe này, Dikari xinh đẹp, nữ chủ nhân các phẩm tánh cao quý bí mật thuần tịnh, Công Nương Taye Dzesema, hãy lắng nghe! Về phía Đông Bắc của cung điện này, giữa những xứ sở khác nhau, có một thung lũng với một chiếc hồ vĩ đại có chiều sâu 100 dặm và chu vi 7.000 dặm. Đây là nhà của Long Vương Malashi. Chiếc hồ được bao quanh bởi những ao nước và hồ nhỏ, những cánh đồng hoa, những dòng suối sủi bọt cam lồ mật hoa. Một ngọn núi pha lê hình vuông được gọi là Nametotra ngự ở đó. Đỉnh núi được điểm tô với ánh sáng cầu vồng ngũ sắc, chiếu sáng lên tận cõi trời Phạm Thiên. Có tới hàng trăm khung cảnh kỳ diệu mãn nhãn ở đó! Chúng ta hãy cùng đến chốn thiêng liêng này cùng một đoàn tùy tùng các đại thần và quân lính. Hãy gióng một hồi trống lớn để tụ tập ba quân và bắt đầu mọi chuẩn bị cần thiết cho cuộc hành trình của chúng ta, hỡi người đồng hành trong trái tim ta!"

 

Vì vậy, hoàng hậu vinh dự gióng lên hồi trống tập hợp. Các quan lại và hội chúng của họ ngay lập tức tụ họp trên tầng hai cung điện. Quan đại thần thông tuệ Tratrashri tôn kính thỉnh cầu nữ hoàng danh dự giải thích lý do triệu tập ba quân. Trong một giọng điệu trầm hùng, ông nói, 

 

"E ma! Thật đáng kinh ngạc! Hỡi phối ngẫu của đức vua, người con gái trẻ trung của vị thương gia vĩ đại, khuôn mặt ngài xinh tươi mê đắm. Hỡi người chị của trời và người, chỉ cần đơn thuần nhìn chăm chú lên ngài thì không thể làm dịu đi lòng khát ngưỡng của chúng thần. Chiếc trống lớn của các vị thần được tạo ra một cách kỳ diệu bởi Vua Trời Phạm Thiên Brahma. Nó cất lên âm thanh vang dội với những giai điệu tuyệt vời của bình an, giàu mạnh, quyền năng và thịnh nộ.[3] Trong hồi trống dồn dập vĩ đại này, chúng thần, những người được phú bẩm với đời sống phi thường của chư thần đã tụ hội ở đây một cách tự nhiên. Hãy cho chúng thần biết lý do vì sao mình đã được triệu tập. Hạ thần kính xin bậc thủ hộ nơi yết hầu của ngài cất lên âm thanh vỏ ốc xà cừ qua kim khẩu của ngài!"

 

Hoàng hậu đáp: 

 

"Kye! Nghe đây! Đại thần thông tuệ Tratrashri cùng hội chúng công thần của ngài, hãy lắng nghe! Với giọng nói du dương của mình, bậc cai trị vùng đất Kotamati này, Đức Vua Indradeva đã hạ lệnh cho chúng ta đến viếng thăm một xứ sở nằm ở phía đông bắc, nơi Long Vương Malashi ngự trong cung điện của ngài ở chiếc hồ lớn của Namaru. Xứ sở này rực rỡ, tựa vương quốc của các vị thần! Ngọn núi pha lê của nó là Nametotra, được tràn ngập với ánh sáng rực rỡ không chút ngăn che của ánh sáng ngũ sắc. Nơi có những dòng sông lấp lánh cao lương mỹ vị linh thiêng cùng những khu vườn nở rộ hoa sen. Nếu các ngài, các đại thần, trung thần cùng đoàn tùy tùng 8 cấp của các vị muốn viếng thăm chốn phi thường nằm ngoài sức hình dung này, thì hãy gióng lên những hồi trống lớn để triệu tập các vị ở đây ngay lập tức! Tất cả chúng ta phải tuân theo mệnh lệnh từ đức vua toàn quyền của chúng ta!"

 

Sau khi dứt lời, hoàng hậu, các quan lại cùng hội chúng đều kính cẩn lễ lạy. Họ thu thập những món đồ tốt nhất của mình, bao gồm những chiếc khăn lụa, thổ cẩm, cùng những viên ngọc quý, và dâng chúng lên như một mạn đà la cúng dường tới đức vua. Sau đó, họ thỉnh cầu:

 

"  Namo! Kính lễ! O Hỡi Đại Vương, bậc tôn chủ của chư thần, bậc bảo hộ duy nhất của loài người, công đức cao vợi tự thân và những người khác, xin hãy để tâm! Sau khi được nghe những âm thanh của tiếng trống lớn vĩ đại, chúng thần đã chuẩn bị không chút chậm trễ! Chúng thần đã hiểu được tất cả ý nghĩa mệnh lệnh của ngài, hoàng hậu tôn quý của chúng thần đã truyền đạt lại. Xin hãy cho chúng thần biết cách tốt nhất nào để chuẩn bị cho cuộc hành trình tuyệt diệu nhất này."

 

Lắng nghe thỉnh cầu của họ, đức vua đáp: 

 

"  Từ thời Đức Gyeche Tsugpupel cho đến tận bây giờ, một ngàn thế hệ hoàng tộc, tất cả các vị vua vĩ đại trong dòng dõi của các vị vua Brahmin (bà la môn) này đều đã dâng những cúng dường cho các vị rồng Trong thực tế, có rất nhiều đề mục từ những cuộc hành trình của các ngài để dâng lên những cúng dường cho các vị Long Vương vĩ đại. Lúc này, khi chuẩn bị cho cuộc hành trình và thu thập những cúng dường của mình, chúng ta hãy tận tâm tập hợp những biểu tượng xuất sắc nhất: ngựa tối cao, voi lớn, ngọc như ý được gọi là Palasha, các loại ngọc bảo, dược liệu, nhạc cụ, vũ công, ca sĩ, tay trống, bình báu, mùa màng không cần thu hoạch, ngũ cốc, lụa là, lọng, màn trướng, dải lụa chiến thắng và nhiều đồ trang sức khác. Hãy mang tất cả mọi thứ có thể, không bỏ qua thứ gì! Hãy mặc y phục sang trọng nhất của các vị và trang hoàng mái tóc các vị với các loại trang sức!"

 

Sau lời nói của nhà vua, tất cả mọi chuẩn bị cần thiết được thực hiện. Như chòm sao thứ 8 xuất hiện trong khối cầu không gian, trái đất dường như thiêng liêng với vẻ đẹp đặc biệt. Những vườn hoa ngập tràn với muôn hoa nở rộ, những chú voi được trang hoàng với những viên ngọc như ý cùng những phục sức khác nhau. Nhà vua leo lên thú cưỡi của mình, theo sau là hoàng hậu, các đại thần cùng các thần dân của ông - tất cả bọn họ đều gắn lên ngựa những biểu ngữ cùng các loại nhạc cụ và những chiếc kèn vỏ ốc xà cừ. Được lấp đầy bởi niềm vui, sự hài lòng và thiện ý vô tận, những vị thủ lĩnh vĩ đại cùng hội chúng của mình đi đến chốn thiêng liêng. Khi những người nữ hát lên những bài ca du dương, thì những người nam lao về phía trước, nhảy múa và biểu diễn một cách tinh nghịch, mạnh mẽ. Mặc dù đến từ nhiều vùng miền và xứ sở khác nhau, nhưng họ hòa làm một trong trạng thái hoan hỷ tuyệt đối. Nhà vua dâng lên những cúng dường dồi dào tất cả mọi chất liệu đáng ưa thích được thu thập từ khắp nơi. Sau đó, các vị rồng biểu lộ niềm hoan hỷ của mình bằng cách hiển lộ sự hiện diện của họ trước loài người. Cả loài người và loài rồng đều vui mừng, thưởng thức cơ hội được bên nhau.

 

Buổi tối hôm đó, trong khi nhà vua và hoàng hậu đang chuẩn bị nghỉ ngơi, nhà vua, hoàng hậu cùng quan quân, tất cả đã cùng nghe mọi giai điệu âm nhạc thiêng liêng. Tuy nhiên, vào lúc nửa đêm, họ đã biết được rằng các long thần dã man đang lên kế hoạch để làm hại họ. Nhà vua nhặt lấy viên ngọc như ý được gọi là Palasha của mình, đặt nó trên đỉnh đầu, và nhà vua thực hiện lời cầu nguyện này: 

 

"  E ma! Viên ngọc như ý hoàn thành một cách tự nhiên mọi nhu cầu và ước muốn, ngươi là kết quả của những lời cầu nguyện được thực hiện bởi Đức Vua Tsugpupel. Nếu ngươi thực sự là viên ngọc được gọi là Palasha, thì sau đó hãy tiễu trừ những long thần ngang bướng, dã man, những kẻ đang âm mưu hãm hại. Hãy ban các thành tựu tâm linh thiêng liêng này ngay lập tức!"

 

Do lực lượng của lời khẩn nguyện này và từ sự chói sáng của ngọc như ý, nhiều tia lửa cháy sáng phát ra phía trước, chúng tràn vào vào các vị rồng ngang bướng. Lập tức họ đã hóa thành tro bụi và hòa tan vào sự bất nhị.

 

Trong thời khắc đầu tiên của bình minh, cả nhà vua và hoàng hậu đã có những giấc mộng. Nhà vua nằm mộng thấy 7 dấu hiệu cát tường. Một xâu chuỗi ngọc như ý tan biến vào ông, và một bảo tháp màu trắng sau đó phát sinh từ vương miện của ông. Những khối cầu mang ánh sáng cầu vồng chiếu những tia sáng xuống từ không gian và tan hòa vào tim ông. Hoa sen trắng nở rộ từ hàm răng ông, và trong tim ông, các tia sáng ngũ sắc rực sáng chiếu ra từ một chày kim cương bằng vàng ròng. Một cậu thanh niên trẻ xuất hiện từ chiếc hồ, dâng lên một chiếc khăn lụa. Những bông hoa nở rộ từ lòng bàn tay ông và trổ bông trong khắp mười phương.

 

Khi nhà vua tỉnh dậy, ông kể cho hoàng hậu về giấc mơ của mình. Hoàng hậu trả lời rằng bản thân bà cũng đã nằm mộng thấy ở giữa ngực mình là một vòng xoáy, giống như khối cầu ánh sáng pha lê và rồi nhà vua đã đưa cho cô một chiếc bình pha lê. Các tia sáng màu đỏ tuôn chảy từ vương miện bà khi bà mang một chày kim cương năm chấu trên vai. Bà cầm một chĩa ba katvanga[4], từ đó có nhiều cây chĩa ba bắt đầu tự hóa hiện ra. Sau đó, bà nghe thấy một giọng nói rằng điều này sẽ xảy ra trong nhiều đại kiếp. Sau khi nghe kể về giấc mơ của bà, nhà vua nói rằng cả hai người bọn họ đều đã nhận được những điềm lành cần phải được giải mã bởi một bậc thấu thị linh thánh.

 

Sau điều này, hội chúng các quan lại đại thần tản bộ nhiễu quanh hồ nước, và 7 long nữ naga ngay lập tức xuất hiện trước mặt nhà vua, từng vị mang theo một viên ngọc như ý khác nhau. Tên những viên ngọc họ lần lượt mang theo là Indranila[5], Koshala, Kushtasukha, Parol Golwajom, Narayana Baladhara, Bage Kadog và Mulagyen. Các long nữ dâng lên tất cả thất bảo cho nhà vua. Sau đó, họ tuyên bố: 

 

"  Kye! O Hỡi đức vua mạnh mẽ của loài người, Đức Vua Indradeva! 7 viên ngọc kỳ diệu đáng ngạc nhiên này được gửi đến cho ngài từ anh trai chúng tôi như món cúng dường từ ông. Hãy thưởng thức chúng và cúng dường thường xuyên, kịp thời tới chúng tôi!"

 

Nhà vua đáp: 

 

"  Kye! O Hỡi 7 mỹ nữ của cõi Naga, dòng tộc, đẳng cấp và tên cõi nước của các vị là gì? Những người đồng hành nào các vị đang tìm kiếm và cư dân xứ sở các vị ra sao? Hãy trả lời câu hỏi của ta và kể lại cho ta một cách chân thực: Những cúng dường nào sẽ khiến các vị hoan hỷ, hài lòng nhất?"

 

Khi nhà vua nói vậy, các long nữ trả lời: 

 

"  Kye kye! Đại vương, thật vui mừng để thấy! Sức mạnh và sự khéo léo của ngài chỉ có thể được sánh với chính Vua Trời Phạm Thiên Brahma, và ngài đẹp lộng lẫy như những con trai của chư thần! Tuổi trẻ cùng sự giàu mạnh của ngài tựa bậc chúa tể tài bảo, Vaishravana. Vẻ huy hoàng từ sự hiện diện của ngài vượt lên mọi so sánh. Chúng tôi thuộc chủng tộc rồng naga, sự giàu mạnh và của cải của chúng tôi lớn lao. Chúng tôi thuộc đẳng cấp hoàng tộc, và các thần dân của chúng tôi là 8 cấp naga. Cha chúng tôi là Đức Vua Shiroratna, Tài Sản Đáng Giá Nhất. Mẹ chúng tôi là Nữ Thần Marichi, Nữ Chủ Nhân Ánh Sáng. Tất cả chúng tôi đều là con gái của nhà vua, và những người đồng hành của chúng tôi là nam tử của Vua Trời Brahma. Các thần dân của chúng tôi bao gồm 1 triệu hành giả Long nữ (Nagini). Những cúng dường khiến chúng tôi hài lòng, hoan hỷ là các loại thuốc, dược liệu, ngũ cốc, trang sức quý giá và những chiếc bình báu."

 

Nghe điều này, nhà vua đã dâng lên cho họ 5 loại gồm thuốc và dược liệu khác nhau, ngũ cốc, vô số châu báu, mùa màng không cần thu hoạch, và những chiếc bình báu. 7 thiếu nữ sau đó trở về trú xứ riêng của mình. Những viên ngọc như ý họ đã dâng lên cho nhà vua lúc này được bọc cẩn thận bằng vải lụa thêu kim tuyến. Sau đó, các viên ngọc được đặt trong một cỗ xe và được chuyển đến vương quốc cùng các biểu ngữ và âm thanh của kèn cùng các nhạc cụ. Vị vua vĩ đại cũng trở lại với hoàng hậu, quan quân của ông cùng đoàn tùy tùng.

 

Về đến nhà, họ đã tổ chức một lễ tiệc kỷ niệm khổng lồ cho những món quà tốt lành kỳ diệu. Tin tức về vận may của họ lan truyền khắp vương quốc. Như một dấu hiệu của sự tôn kính và tán dương, những viên ngọc như ý đã được kính cẩn đặt trên các biểu ngữ chiến thắng của hoàng gia. Nhà vua thường xuyên cúng dường tới những viên ngọc, hoàng hậu thực hiện lễ lạy và đi nhiễu hàng ngày.

 

Một đêm, khi nhà vua và hoàng hậu đang giao hợp thì một ánh sáng màu cam rực rỡ chói lòa hiện ra với họ và sau đó nó tan biến mất. Hoàng hậu nhìn thấy nó hòa tan vào trán nhà vua, trong khi nhà vua thấy nó đi vào cổ họng hoàng hậu. Ba tháng sau, hoàng hậu bắt đầu cảm thấy khó ở và biết mình đã có mang.

 

Một lần, khi nhà vua hỏi thăm sức khỏe hoàng hậu, cả hai đều đã nghe thấy từ bào thai của hoàng hậu phát ra những lời dễ chịu này: 

 

"  E Ma! Vua Cha thiện tâm vĩ đại! Xin lắng nghe những gì con của ngài nói! Phúc lạc, phúc lạc, con cảm thấy thật phúc lạc! Bình chứa này, thân thể mẹ con, một thiên đường phúc lạc, một cung điện của các đấng chiến thắng. Cam lồ bồ đề tâm đỏ và trắng này của người nam và người nữ là sự hỷ lạc của phương tiện và trí tuệ, mặt trời và mặt trăng. Vỏ bọc nhau thai tơ lụa trắng này là phúc lạc ấm áp lớn lao và cảm thọ êm dịu. Suối nguồn 6 cánh của Pháp tạng là nơi sinh ra phúc lạc của tất cả các đấng chiến thắng. Sự chuyển động của luồng sinh lực bên trong thân thể mẹ con là những chuyển động lạc phúc của 26 ngàn luồng sinh lực. Kinh mạch trung ương và 5 mạng lưới chính yếu của các kinh mạch[6] là phúc lạc của các thiên giới trong 5 gia đình và 3 hiện thể giác ngộ. Các giai đoạn phát triển của các nhánh là sự phúc lạc từ sự siêu vượt 5 con đường và 10 giai đoạn. Hoạt động từ những chuyển động thân thể mẹ con là phúc lạc từ bài ca và vũ điệu của các Dakini. Con là bậc phối ngẫu vĩ đại Pandaravasini, xuất hiện một cách phúc lạc vì lợi ích chúng sinh. Tinh hoa của con khởi nguồn từ người cha Akshobya Bất Động, và tánh Không được giải thoát từ hoa sen.

 

"  Đây là đẳng cấp phúc lạc của con gái nhà vua, phúc lạc của dòng dõi nội của kim cương tự khởi, phúc lạc của hoạt động, hoàn thành lợi ích những người khác, phúc lạc của các quan năng như 5 trí tuệ, phúc lạc tự thông tỏ của sự chứng ngộ giải thoát như giác tánh nội tại chính mình, và phúc lạc của việc cúng dường hạnh phúc cho các vị rồng. Tất cả điều này hiện đang được dâng lại cho ngài, hỡi người cha thiện tâm vĩ đại."

 

Cả nhà vua và hoàng hậu đều quá đỗi vui mừng với những lời này. Sau 10 tháng trôi qua, khi hoàng hậu hạ sinh, không gian phía trên bà được lấp kín bởi các vị thiên nam và thiên nữ, họ tắm cho em bé và xướng lên những bài ca cát tường như những cơn mưa hoa đổ xuống từ các tầng trời. Các vị rồng dâng lên những cúng dường cùng các loại nhạc cụ, bài ca và những vũ điệu. Nhà vua và các bộ trưởng bày tỏ niềm vui sướng vô hạn bằng những lễ tiệc chúc mừng. Trong khi hạ sinh, hoàng hậu thể nghiệm phúc lạc, và con gái của bà được sinh ra trong tư thế Rishi (hiền triết)8, bọc trong trang phục tơ lụa.

 

Em bé mới được sinh ra đã nói: "Ah La La Ho! Trong cung điện của khối cầu phúc lạc bất biến, ta là nữ thần trang hoàng cho sự phô diễn của tịnh quang. Ta đã hoàn thiện 10 giai đoạn và 5 con đường9 trong thai tạng mẹ ta! Ta đến từ hư không rộng mở vĩ đại của phúc lạc trống rỗng. O hỡi cha mẹ thiện tâm vĩ đại, con xin thành kính cúi đầu trước cha mẹ và con cầu nguyện có thể đền đáp lại thiện tâm vĩ đại này!"

 

Sau khi dứt lời, cô cung kính lễ lạy cha mẹ mình. Nhà vua và hoàng hậu trong niềm hoan hỷ đã đặt tên cô là Tushtikara Devi - Nữ Thần Ban Phát Hỷ Lạc. Họ cũng đặt tên cô là Pandaravasini - Công Nương Áo Trắng bởi cô đã được quấn trong tơ lụa

                                                                                                                                                                                             

đỉnh đầu; luân xa thọ lạc trọn vẹn trong cổ họng; luân xa pháp ở tim; luân xa biểu hiện trong rốn; luân xa duy trì an lạc trong bộ phận sinh dục.

 

8 Tư thế Rishi liên hệ đến tư thế một nhà hiền triết hoặc một vị hành khất linh thánh thực hiện khi ngồi thiền trong một thời gian dài. Các lòng bàn chân úp xuống, bàn chân giao nhau ở mắt cá chân với đầu gối giữ gần ngực. Khuỷu tay được đặt trên đầu gối và hai cánh tay giao nhau ở ngực trong khi đầu các ngón tay chạm vào vai đối diện.

 

9 Mười giai đoạn và năm con đường là nền tảng và con đường của Đại Thừa. Năm con đường là: Tích Tập; Chuẩn Bị; Cái Thấy; Thiền Định; Vô Học. Mười giai đoạn là: Hoan Hỷ; Ly Cấu; Phát Quang; Diệm Huệ; Nan Thắng; Hiện Tiền; Viễn Hành; Bất Động; Thiện Huệ; Pháp Vân.

 

lúc sinh ra và Kirtibhadra - Công Nương Lừng Lẫy Tuyệt Diệu bởi danh tiếng cô khi sinh ra đã lan rộng khắp. Sau đó họ thỉnh mời bậc hiền triết linh thánh với hy vọng ông sẽ đưa ra cái tên cát tường nhất. Nhà vua thỉnh cầu ông cho biết con gái ông có trở thành hoàng hậu của một vị chakravartin[7] (chuyển luân thánh vương) hay không. 

 

Nhà hiền triết trả lời: "  Cô gái này là một Dakini trí tuệ nguyên sơ thuần tịnh, một nữ chủ nhân thuộc cấp bậc vĩ đại. Cô sẽ giải thoát tất cả mọi cõi giới hiện hữu bình phàm. Là Đức Pandaravasini, cô là mẹ tất cả chư Phật cùng các bậc trưởng tử của các Ngài. Vị thế hoàng hậu của một chuyển luân thánh vương còn ở rất xa phía dưới so với đẳng cấp của cô. Cô là hiện thân bất nhiễm của một đấng giác ngộ vô thượng. Vì là một đối tượng cho sự cúng dường sùng mộ, nên hãy đừng xem cô như một người nắm giữ một vị trí trong vòng luân hồi sinh tử!"

 

Nghe những lời này, nhà vua và tất cả các thần dân đều vô cùng vui mừng. Từ thời điểm đó trở đi, công chúa trưởng thành ngày càng xinh đẹp hơn một cách bất ngờ. Trong vòng một ngày cô đã lớn nhanh như một em bé một tuổi. Vào lúc 11 tuổi, cô đã ngồi dưới chân Đức Phật Bảo Cát Tường Ratnashri và đi vào con đường Phật Pháp. Đức Phật Ratnashri tuyên bố cô là phối ngẫu kim cương bộ, bậc nữ trì minh vương trong 89.000 năm, cô đã hoàn toàn giác ngộ và bất khả phân với Đức Phật Vô Lượng Thọ Amitayus. Ứng hợp với những dấu hiệu kỳ lạ này, cô đã đi vào con đường Phật Pháp. Từ bỏ vòng luân hồi sinh tử trong một nơi được gọi là Nametotra, cô đã phát triển năng lực thấu thị kỳ diệu vượt ngoài tưởng tượng. Cô đã xoay chuyển Pháp Luân vô hạn cho 16 ngàn đệ tử may mắn định mệnh.

 

Trong khi đó, ở Cõi Cực Lạc Sukhavati, tu sĩ thọ phong Dharmakara đã thực sự giác ngộ trọn vẹn. Sau đó, Đức Phật Vô Lượng Quang Amitabha cùng đoàn tùy tùng rộng lớn của Ngài, cũng như vô số các tịnh độ được hiển bày như 5 cõi báo thân đều thọ ký công nhận sự giác ngộ của nữ thần Pandaravasini. Các Ngài công nhận cô là một trong những người mà trong vô số không thể tính đếm các đại kiếp vô tận đã trụ thế bất khả phân với Đấng Thủ Hộ, Đức Phật Amitabha và được tôn lên thành bậc phối ngẫu trí tuệ giác ngộ của Ngài. Cô đã nguyện sẽ hiển lộ bản thân theo những cách thế không thể nghĩ bàn nhằm làm trống rỗng những chiều sâu luân hồi sinh tử. 

Samaya 

Điều này hoàn thành chương 2 của

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát của Đức Công Chúa Mandarava, Xứ Zahor, Được gọi là Một Tràng Hoa Báu. 

*

Kể về câu chuyện ngài hạ sinh như con gái Đức Vua Indradeva 

Và sự thành tựu giác ngộ của ngài.      

3. Kết Hôn với Hoàng Tử Nhật Tạng Suryagarbha 

 

Từ đó nữ thần được gọi là Pandaravasini, cô đã đạt được giác ngộ trọn vẹn trong Cõi Cực Lạc, hiển lộ bản thân mình trong nhiều biểu hiện khác nhau nhằm thuần hóa chúng sinh trong sự hiện hữu liên tục không gián đoạn.

 

Đại kiếp được gọi là Bhaskara Sahasrakara đã được nối tiếp sau đó bởi đại kiếp được gọi là Ratnavistima – Phủ Kín Châu Báu. Trong suốt đại kiếp này, Đức Phật viên mãn Vajragarbha Kim Cương Tạng đã đến thế giới này. Ở xứ Sukhavana, trong cung điện Tamadu, nhà vua là một bậc linh thánh tên là Varunasena cùng nữ hoàng thuộc đẳng cấp hoàng tộc. Tên cô là Anandashri - Hỷ Lạc Vinh Quang, và cô là người đảm trách các trách phận tâm linh của vương quốc. Tên của hoàng tử là Suryagarbha - Nhật Tạng (Tinh Túy Của Mặt Trời).

 

Khi tới lúc để Hoàng Tử Suryagarbha kết hôn, tìm kiếm một hoàng hậu, tin tức này lan đi khắp vương quốc. Mọi người đã quyết định rằng bộ trưởng Ratnashri Bhadra sẽ hành trình tới nhiều vương quốc để tìm kiếm một người phù hợp. Không thành công trong những nỗ lực ban đầu của mình, ông quyết tâm du hành tới xứ của các nhà hiền triết, nơi có nhà vua tên là Shubha và hoàng hậu là Gyenlegma. Họ đã có 7 người con trai và 1 cô con gái. Cung điện nguy nga tráng lệ của họ tên là Samato và sự giàu có cùng của cải của họ thật rộng lớn đến nỗi tất cả chúng dân của họ đều có đại năng lực.

 

Ratnashri Bhadra tò mò muốn tự mình được thực mục sở thị, ông đã trực tiếp đi tới cung điện, vào lúc ông chú ý tới một vườn hoa đáng yêu gần đó. Nhìn gần và kĩ hơn, ông đã thấy một hồ nước tắm bên cạnh khu vườn nơi nhà vua và hoàng hậu đang ở đó cùng con trai và con gái của họ. Người con gái được trang hoàng trong đồ trang sức đã trông thấy ông, đi tới gần ông và cô nói: 

 

"  Kye! Vị quan đức hạnh tuyệt hảo, những phẩm chất vinh quang và sự xuất hiện vui mừng này! Xin nói cho tôi biết từ vương quốc nào ngài đã tới và mục đích của ngài ở đây là gì! Cha mẹ ngài là ai? Tên xứ của ngài là gì, đẳng cấp, gia tộc và thiên hướng của ngài là gì? Tên vị vua của ngài? Có phải tên con trai của vua xứ ngài là Hoàng Tử Suryagarbha? Vương quốc đó rộng thế nào, có bao nhiêu địa phận và chúng dân? Quý ngài danh giá, xin vui lòng cho tôi câu trả lời của ngài.” 

 

Như thế cô đã hỏi với vẻ đẹp dịu dàng, khuôn mặt tươi cười và giọng nói du dương của mình.

 

Bộ trưởng Ratnashri Bhadra trả lời: "O Con gái đức vua Kye, xin chú tâm! Xứ sở của tôi được gọi là Sukhavana, và nó vô cùng dễ chịu. Tên đức vua của tôi là Varunasena, và tên phối ngẫu của ngài là hoàng hậu Anandashri. Tên con trai của họ đúng là Suryagarbha. Thưa công chúa xinh đẹp, vóc dáng và trí tuệ của hoàng tử cũng giống cô về đẳng cấp tôn kính, thiên hướng, tâm linh, sức mạnh, quyền thế, danh giá và cả những thứ khác nữa. Tôi thuộc đẳng cấp hoàng gia, và tên cha tôi là Devendrashri. Mẹ tôi là Palmo Seldron xinh đẹp nhất, và tên chị gái tôi là Kshemadevi. Tên tôi là Ratnashri Bhadra, và tôi đã đến đây để thay mặt cho con trai đức vua Varunasena là hoàng tử Suryagarbha, người đang chuẩn bị cho lễ đăng quang và kế thừa quyền cai trị vương quốc. Nhưng trước tiên, hoàng tử phải tìm một người nữ phù hợp nhất để kết hôn như hoàng hậu của mình. Tôi đã đến đây để tìm một hoàng hậu như vậy. Xin hãy mang tin tức này tới cha, mẹ và các anh em của cô!"

 

Theo đó, công chúa đã qua gặp mẹ cô và nói: "Kye! O Hỡi mẹ yêu, người đã ban cho con thân thể quý giá này, O hỡi bậc hộ thần tình yêu, mẹ thân yêu, bình chứa sinh ra con – bộ trưởng của Đức Vua Varunasena là Ratnashri Bhadra đang ở đây! Ông đang đi tìm một hoàng hậu thích hợp cho lễ sắc phong của Hoàng Tử Suryagarbha. Xin hãy trình thông điệp này lên nhà vua!” Khi cô nói, vị bộ trưởng đã kinh ngạc trước một người con gái tuyệt diệu đến vậy và nhìn cô thật đặc biệt đáng yêu. Ông tự hỏi làm sao lại cô lại biết về Suryagarbha và trở nên tin tưởng rằng mình sẽ phù hợp và tốt cho hoàng tử. Rồi bộ trưởng đã quyết định rằng cô là ứng viên cho ngôi vị hoàng hậu.

 

Hoàng hậu đã đi đến trước nhà vua kính cẩn nói: "  Kye! Thưa đức vua của đẳng cấp người linh thánh, Pháp Vương Varunasena đã gửi tới bộ trưởng của ông là Ratnashri Bhadra. Hoàng tử được gọi là Suryagarbha là người kế nhiệm ngai vàng, và họ đang tìm kiếm một hoàng hậu phù hợp. Ông ta đã hỏi rằng thông điệp này sẽ được trình lên cho ngài, hỡi Đức Vua Shubha, và rằng ngài có thể thiện tâm ban lời phúc đáp."

 

Nhà vua trả lời như sau: "  Dòng dõi hoàng gia của các bậc hiền thánh ngang bầu trời. Dòng tổ tiên hoàng gia của các vị cũng giống trong vinh quang với mặt trời và mặt trăng. Con gái chúng ta chỉ kết hôn với một vị Chuyển Luân Thánh Vương (Chakravartin). Để gả cô cho một người khác sẽ là một tổn thất lớn lao nhất. Lời phúc đáp nào ta sẽ gửi tới vị bộ trưởng đã đến như một sứ giả của Đại Pháp Vương Varunasena đây? Điều quan trọng là phải rất cẩn thận trong cách diễn đạt ngôn từ của chúng ta."

 

Sau đó, vị bộ trưởng đã được triệu đến gặp nhà vua và ông đã thưa như sau: “Kye! Hỡi đức vua của loài người linh thánh Shubhamanidhara, xin hãy lắng nghe một cách cẩn trọng với điểm trọng yếu từ sự thỉnh cầu của tôi. Tôi đến từ xứ sở được gọi là Sukhavana, và tên đức vua của tôi là Varunasena. Tên con trai ngài là Hoàng tử Suryagarbha, người có tâm trong công việc tâm linh không gì sánh. Khuôn mặt cậu cuốn hút đến nỗi không ai có thể ngắm nhìn đủ. Có thể so sánh vẻ đẹp hình thể của cậu với chính thần Brahma (Phạm Thiên). Khẩu ngữ cậu du dương và sâu sa. Cậu xuất sắc hàng đầu trong lớp trẻ và chuẩn bị kế nhiệm ngai vàng của cha mình. Tôi tới đây để tìm một người con gái phù hợp trở thành hoàng hậu của cậu. Cô phải phù hợp về giai cấp, thiên hướng, di sản tổ tiên và cũng phải xinh đẹp. Thưa đức vua, ngài có một người con gái như vậy, và tôi xin thỉnh cầu ngài cho phép con gái đáng yêu của ngài tới vương quốc của chúng tôi."

 

Nhà vua đáp: "  Kye! O hỡi bộ trưởng của Đức Vua vĩ đại Varuna, con gái Natyendri của ta, Chúa Tể Vũ Điệu, sở hữu những dấu hiệu phi phàm không thể nghĩ bàn. Khuôn mặt nó vô cùng xinh đẹp, và cha mẹ, anh chị em nó, tất cả đều là những người tốt. Vì những phẩm tánh và trí tuệ của nó tuyệt diệu như vậy, nên thật khó khăn để ta gả nó cho bất kỳ ai." 

 

Nghe những lời này của nhà vua, vị bộ trưởng ghi nhớ chúng trong tâm mình và nhanh chóng trở về đất nước mình để gặp Vua Varunasena. Trong sự hiện diện của hoàng hậu và tất cả thần dân, ông đã trình bày như sau: "  Kye! Tốt nhất trên tất cả chư thần, hỡi đức vua và phối ngẫu, thần đã hành trình tới 10 xứ sở và không thể tìm được một hoàng hậu phù hợp sánh đôi cùng đức vua tương lai của chúng ta trong ngày đăng quang. Cuối cùng, thần đã đi đến vương quốc của vua Shubha, nơi có cung điện được gọi là Samato. Khi thần đến, nhà vua, hoàng hậu và con cái của họ đang tắm trong một hồ sen đẹp đẽ. Nhà vua có 7 người con trai và 1 người con gái. Người con gái được trang hoàng với trang sức đã nhìn thần và đến gần hỏi, “Kye! Bộ trưởng tuyệt hảo Shri Bhadra đáng kính! Vì lý do gì mà ngài đến xứ sở này? Tên cha mẹ, đẳng cấp, xứ sở và vị vua của ngài là gì?” Cô thậm chí còn hỏi về hoàng tử Suryagarbha bằng tên gọi. Thần đã cẩn thận trả lời cô, và cô đã đưa thông điệp đó tới hoàng hậu, rồi hoàng hậu đã chuyển nó tới cho nhà vua. Sau đó, chính thần đã đi đến trước nhà vua và lặp lại mục đích sứ mệnh của mình. Khi thần hỏi nhà vua về cô con gái của ngài, những lời ngài phúc đáp ở trong vần thơ như thế của các bậc thánh trí (Arya)."

 

Nhà vua và bộ trưởng quyết định rằng, bất kể trường hợp nào thì hoàng tử cần phải được biết đầy đủ về điều xảy ra này. Nhà Vua đã đến gặp con trai mình và ông nhẹ nhàng nói: "Kye! Bậc thủ hộ Pháp Suryagarbha, người đáp lại thiện tâm của cha mẹ con! Hãy nghe điều tinh túy từ mong muốn chân thành của cha con. Ta đã gửi Bộ trưởng Ratnashri Bhadra đến một số xứ sở trong một cuộc tìm kiếm, và cuối cùng ông ta đã gặp con gái của vua Shubha tên là Natyendri. Cô ấy đẹp sắc sảo và sở hữu nhiều dấu hiệu kỳ diệu. Chắc chắn rằng cô là người nữ phù hợp để có thể trở thành hoàng hậu của con. Xin hãy nói cho cha biết những gì con thật sự cảm nhận là chúng ta nên làm đây!" Thái tử đã trả lời rằng cần thiết để kiểm tra các dấu hiệu tốt lành.

 

Vào ngày rằm trăng tròn, những cúng dường bạt ngàn được thực hiện dâng lên Tam Bảo, sau đó cả nhà vua và con trai dâng lên nhiều lời cầu nguyện và ngủ thiếp đi. Suryagarbha đã có một giấc mơ tuyệt diệu. Anh đã mơ thấy ánh sáng trắng cùng với một màu đỏ mọc lên từ phía đông và tan hòa vào anh. Anh lần lượt tan vào ánh sáng và trở thành một chữ HUM. Từ chữ HUM, một chữ HRIH nổi lên bao trọn ba thiên hà. Vũ trụ và những thứ khác đều trở nên bốc cháy với ánh sáng ngũ sắc, và tất cả được thấy như là bản chất của hai chủng tự. Những tia sáng vô biên phát ra bao trọn ba thiên hà, và bất cứ nơi nào có ánh sáng chiếu rọi, thì nơi đó có các chủng tử tự xuất hiện. Nhà vua đã mơ thấy một bình chứa pha lê rỗng có một miếng vải lụa trắng. Nó xuất hiện ở phía đông, và ông đã đưa nó cho con trai mình. Khi Suryagarbha có nó trong tay, anh quấn lấy thân thể mình bằng miếng vải. Sau đó chính Suryagarbha biến thành chiếc bình pha lê. Nhà vua mơ thấy tin tức của sự xuất hiện này đã lan rộng khắp mười phương.

 

Sáng hôm sau, cả nhà vua và con trai đều cảm thấy rằng những giấc mơ của họ mang lại những điềm lành. Tập hợp nhiều đồ trang sức quý báu, của cải giàu sang, và các đối tượng khác, nhà vua soạn một lá thư, thay mặt cho con trai, gửi tới đức vua Shubhamanidhara. Trong bức thư được viết bằng mực vàng ròng, họ nói: "Kye! Đức Vua của những người linh thánh, Shubhamanidhara Vinh Quang, người con gái đặc biệt quyến rũ Natyendri của ngài nắm giữ tinh hoa đại lạc. Để duy trì ngai vàng vương quốc tôi, xin hãy ban cô ấy và chấp nhận sự dồi dào, phong phú từ những chất liệu quý giá đáng khao khát nhất này! Xin hãy mang niềm hỷ lạc tới người con trai của vị vua may mắn này, và thể hiện thiện tâm tuyệt vời của ngài bằng cách nhận ra sự phù hợp trong việc hợp nhất này!"

 

Bộ trưởng được cử đi để gửi lá thư tay tới vua Shubhamanidhara. Tới vương quốc, trước sự ngạc nhiên, ông đã thấy đức vua Sukhapala, Vua Shubhamani-dhara cùng con trai của ông là Bala Urdhi, Vua Khasarpana cùng bộ trưởng Hadzin và nhiều người khác nữa. Có những vị vua và các đại diện một số trong 13 vương quốc với các nội và ngoại bộ trưởng mang theo vô số loại của cải châu báu. Tất cả bọn họ đến với ý định dành phần thắng trong việc rước công chúa về vương quốc mình. Bộ trưởng Ratnashri Bhadra đã thỉnh cầu một người cử tọa với nhà vua và dâng lên ông những món quà cùng lá thư được viết bằng mực vàng ròng từ Đức Vua Varunasena. Nhà vua đọc thư và trao nó lại cho các bộ trưởng ngoại và nội, hoàng hậu cùng tất cả những người con trai ông.

 

Nhà Vua nói với đoàn tùy tùng thần dân của mình: "Kye! Các vị vua từ mọi phương hướng đã đến đây để cố gắng giành chiến thắng trong việc dắt tay người con gái tuyệt vời của ta.  Nếu ta hứa ban nó cho một ai đó, thì điều đó chắc chắn sẽ xúc phạm tới một người khác. Bất kỳ điều gì ta làm sẽ đều tiềm ẩn khả năng mang lại thiệt hại lớn lao cho vương quốc chúng ta. Sẽ là không khôn ngoan để không ban nó cho ai cả? Với sự thông thái và trí tuệ, các vị hãy cùng luận bàn để đưa ra cách tốt nhất nhằm đối phó với tình hình này."

 

Sau khi nhà vua nói, đã có nhiều cuộc thảo luận diễn ra. Tuy nhiên không một ai có thể đưa ra một giải pháp thỏa đáng. Sau đó, hoàng hậu nói: "Khi con gái chúng ta là Natyendri được sinh ra, thân thể nó đã được bọc trong vải trắng, và nó biểu hiện khả năng nhảy múa. Nó đưa tay mình lên để ban quán đảnh, vì vậy chúng ta đã đặt tên nó là Natyendri, nghĩa là Người Con Gái Uy Mãnh của Vũ Điệu. Nó là một phối ngẫu xinh đẹp tuyệt hảo, không ai có thể sánh bằng so với những người đi trên mặt đất này. Ta trân trọng nó như trái tim mình. Vì thế ý nghĩ cho nó đi xa làm ta rất là buồn. Chúng ta không thể làm gì, vì rất nhiều xứ sở đã tụ họp lại đây để nhận được nó. Nếu sự để tâm lớn lao không có trong quyết định này, thì sẽ có mối nguy cơ chúng ta có thể bị mất nước. Giờ đây, do nghiệp lực, rất khó để giữ nó lại. Chúng ta nên cho phép nó quyết định tương lai của chính mình - nhưng dù bất kỳ ai có được nó thì những người khác cũng sẽ cố gắng giành lại nó. Nó buộc sẽ phải trải qua những đau khổ không thể chịu đựng nổi. Ta cảm thấy như thể trái tim mình đang bị moi ra khỏi lồng ngực vậy! Ôi, chúng ta có thể làm được gì đây?"  Sau khi dứt lời, hoàng hậu rơi nước mắt và buồn bã nhìn về phía đức vua.

 

Tất cả bọn họ đều đồng ý rằng chính công chúa nên lựa chọn; vì vậy, nhà vua, hoàng hậu cùng các anh em cô đã đi tới gặp cô. Với sự quan tâm lớn lao họ âu yếm nói với cô: "Kye! Con gái xinh đẹp, trái tim của cha mẹ và đôi mắt của anh em con, xin hãy nghe. Các vị vua, chúng dân cùng các sứ giả của nhiều xứ sở đã tập hợp nhiều của cải và những lá thư được viết bằng vàng ròng, tất cả đều xin đón rước con tới vương quốc của họ. Có rất nhiều người trong số họ đã lấp đầy trong các ngoại khu và nội khu của vương quốc. Chúng ta không thể quyết định là sẽ phải làm những gì. Mặc dù ý nghĩ mất con mang lại cho chúng ta sự đau buồn lớn lao, nhưng đồng thời chúng ta cũng lo lắng cho sự an toàn của đất nước này. Ôi con gái, bất cứ nơi nào con đi, chúng ta cũng sẽ tôn trọng quyền quyết định của con, vì chúng ta biết nó sẽ là điều đúng đắn. Xin con, hỡi người con gái của chư thần, hãy nói cho chúng ta biết những gì con muốn." Nghe điều này, Natyendri bày tỏ với cha mẹ và anh em cô, cô nói:

 

"Kye Ho! Than ôi! Hỡi vua cha, vị vua của chư thần dòng dõi tuyệt hảo, người mẹ thiện tâm đã cho con thân thể sống, và các anh em yêu thương trong cùng một gia đình, tất cả đã nhìn lên con với tình yêu thương và nói chuyện với con từ trái tim của mọi người. Những câu hỏi và lời giải thích phiền hà này, điều mang lại niềm vui và nỗi buồn không ảnh hưởng đến con, vì con không có ý định duy trì các vấn đề thuộc về thế tục hay những trách nhiệm của bất kỳ vương quốc nào. Với tâm tỉnh giác của lòng vị tha như động lực, những hành động của con phải tuôn chảy theo năng lực từ những hành động trước đó.

 

"  Trước kiếp sống này, con đã sống ở Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc Sukhavati như bậc thiên nữ phối ngẫu vô thượng Pandaravasini. Lúc này con đã hóa hiện bản thân mình như là con gái đức vua của những bậc linh thánh. Con không có mục đích nào khác hơn ngoài việc đáp ứng những nhu cầu của chúng sinh. Do những nguyện lực trước đây, Hoàng Tử Suryagarbha, một hóa thân của Bậc Thánh Trí Quán Tự Tại Avalokiteshvara và con đã cùng phát bồ đề tâm. Con sẽ không bao giờ lấy một người chồng bình phàm, thân thể của người phàm chỉ là nguyên nhân dẫn những người khác đi tới tái sinh thấp hơn. Từ bỏ vương quốc này, con sẽ thoát khỏi sự chú ý để đi đến cung điện của vị vua tương lai Suryagarbha. Cha, mẹ và các anh, xin hãy thực hành Pháp thật tốt! Trong chốn sinh tử luân hồi này, có những khổ đau bất tận phải chịu đựng. Lời khuyên tâm huyết của con với cả nhà là hãy đạt được sự giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Con không có sự quyến luyến đối với vòng sinh tử. Nhờ các pháp môn đại bi, con sẽ làm việc không ngừng nghỉ vì chúng sinh. Bằng cách hoàn thành những mệnh lệnh của Đức Phật Vô Lượng Quang Amitabha, con đã đến để dẫn dắt cả nhà đến trạng thái của những bậc Thánh trí!"


Nghe lời cô nói, nhà vua, hoàng hậu, các anh em và các bộ trưởng đều xúc động với lòng sùng mộ và sự tôn kính. Đúng như lời đã nói, công chúa đã trốn thoát khỏi vương quốc cùng với người nữ hầu cận của mình. Trải qua 7 ngày trong cuộc hành trình, người hầu cận đột nhiên ngã bệnh qua đời. Công chúa thực hiện pháp chuyển di tâm thức cho cô, nhờ vậy hướng thần thức cô đi tới cõi tịnh độ.

 

7 ngày đêm đã qua. Một buổi sáng, trong những thời khắc tinh mơ của bình minh, Hoàng Tử Suryagarbha thức giấc và nhìn lên không gian trước mặt mình. Bỗng nhiên, Đức Thánh Trí Quán Tự Tại Arya Avalokiteshvara xuất hiện, chói sáng với một trăm ngàn tia sáng chói lọi và gần như không thể nhìn thẳng vào. Sau đó Đức Avalokiteshvara nói với cậu: "Con trai ta, lúc này con phải thức giấc từ giấc ngủ của mình. Về phía đông từ đây, con gái vị vua các hiền nhân là Natyendri, nhờ năng lực tiên tri, cô đã trốn thoát khỏi vương quốc mình, vùng đất phúc lạc của các vị thần, nơi nhiều vị vua và các hoàng tử vẫn bàn bạc, tranh luận để có được cô trong cuộc hôn nhân. Bây giờ cô đang tới để gặp con và hiện nay cô đang ở trên đường khá xa về phía bắc từ đây. Vì lợi ích duy trì giáo lý và mang lại lợi ích cho chúng sinh, hãy đi tìm cô ấy!"

 

Sau khi nhận được lời tiên tri này, hoàng tử tập hợp tất cả các bộ trưởng của mình, cậu nói với họ rằng phải thực hiện một cuộc hành trình quan trọng đi về phía bắc và hãy chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ rất tốt lành. Theo đó, cậu đã tập hợp họ thành các nhóm. Mỗi thành viên được trang sức với lụa thổ cẩm cùng đồ trang sức quý giá, họ đi về phía bắc đến bờ hồ Pema Tsegpa. Sau 7 ngày trôi qua, khi mặt trời mọc lên trên bầu trời, vị vua tương lai bộc bạch cho họ câu chuyện của mình. Cậu nói rằng con gái vua hiền nhân là Natyendri đã trốn khỏi vương quốc vì các vị vua từ nhiều quốc gia đã tụ tập để hỏi cưới cô. Cậu thông báo với họ rằng cô cũng đã tới và rằng cô sẽ cùng cậu vì mục đích làm lợi lạc cho chúng sinh. Cậu kêu gọi họ ăn mừng với bài hát, vũ điệu và các nhạc cụ để mọi thứ được tốt lành, vui vẻ nhất có thể. Sau đó, sau khi chào đón cô theo cách này, tất cả bọn họ sẽ trở lại vương quốc cùng với cô. Sau khi cậu nói, tất cả bọn họ đều đi đến bờ hồ để đợi. Sau đó, từ hướng đông, tất cả bọn họ đều nghểnh cổ để chứng kiến một khối cuộn xoáy những tia sáng cầu vồng xuất hiện trong không gian. Một trận mưa hoa phủ kín bầu trời với những đám mây cúng dường phù hợp cho các vị trời, rồng và người. Chính là Natyendri, được bao quanh với ánh sáng chói lọi rực rỡ, và rồi sau đó mọi thứ dần trở nên rõ ràng. Hoàng tử cùng tất cả các bộ trưởng đã gửi tới cô một sự chào đón vui mừng lớn lao.

 

Trong khi đó, các vị vua từ các nước khác bắt đầu nghi ngờ rằng công chúa trẻ đang trốn ở đâu đó trong vương quốc của mình. Họ tìm kiếm cô trong mọi hướng. Một số nghĩ rằng cô có thể trốn trong một khe núi hoặc khe nứt; họ thậm chí còn đào xới mặt đất để tìm kiếm cô. Một số nghĩ rằng cô có thể trốn trong một chiếc hòm kho báu, vì vậy họ tìm kiếm các kho báu ở khắp mọi nơi. Họ cũng tìm kiếm cô ở những vùng núi. Bất cứ nơi nào họ tìm đều không thấy cô. Cuối cùng, họ đành trở về vương quốc của mình với hai bàn tay trắng.

 

Hoàng Tử Suryagarbha gửi bộ trưởng Mani Ratna đi trước để nói với nhà vua và hoàng hậu về những gì xảy ra. Toàn bộ cư dân vương quốc sau đó đã tập hợp lại. Họ chơi nhiều nhạc cụ khác nhau và gióng lên những hồi trống. Những người các con trai, con gái hoàng gia dâng hương theo những chỉ dẫn, các cặp đôi mới cũng đi đến cung điện. Toàn bộ vương quốc bắt đầu một tháng lễ hội dài. Những cúng dường rộng lớn được dâng lên cho Tam Bảo - Suối Nguồn Quy Y. Toàn bộ vương quốc tham gia vào các trò chơi, thể thao cùng những hoạt động vui thú khác. Bộ trưởng Ratnashri Bhadra và con trai của nhà hiền triết Guna Indra tham gia vào hội chúng và tổ chức.

 

Đức Vua Varunasena cai trị vương quốc thêm ba năm nữa. Một hôm, ông cho triệu một cuộc họp với người con trai của mình là Suryagarbha, Natyendri cùng hội nhóm các bộ trưởng ngoại, nội và đoàn tùy tùng của họ. Suryagarbha và Natyendri sau đó đã chính thức được đăng quang lên ngôi cai trị vương quốc. Đầu tiên họ đã ban một sự bố thí dồi dào cho người nghèo và những người thiếu thốn trong hình thức những loại thực phẩm và quần áo. Họ áp dụng một nề luật mới khiến Phật Pháp trở thành quốc giáo và phổ biến Giáo Pháp để nó trở thành chức năng quan trọng nhất của nhà nước mới. Họ cúng dường lên nhà vua và hoàng hậu, và tất cả mọi người đều tôn kính họ. Tất cả những người may mắn trong vương quốc của họ đều được đưa đến con đường Phật Pháp, và Natyendri ban những giáo lý về mật chú thừa. Cuối cùng, toàn bộ vương quốc gồm 100 ngàn người đã đạt được giác ngộ như một mạn đà la! 

Samaya 

Điều này hoàn thành chương 3 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát của 

Đức Công Chúa Mandarava xứ Zahor,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể về cách ngài hóa hiện bản thân như  con gái vị vua các hiền nhân, 

rồi kết hôn với Hoàng Tử Suryagarbha,

Hai người đã cùng mang toàn bộ vương quốc tới Giáo Pháp, và từng bước dẫn dắt toàn bộ chúng dân đi đến trạng thái giác ngộ viên mãn.     

     

4. Trong Vương Quốc Kanaka 

 

Từ đó về sau, Đức Dakini Pandaravasini, bậc phối ngẫu của các đấng chinh phục, được quán đảnh bởi chư Phật trong ba thời đã hóa hiện bản thân mình để ban truyền quán đảnh trong 5 hiện thân.[8] Vào thời điểm đó, từ chấm điểm giữa lông mày của cô, một chữ Hrih màu trắng đi xuống thế giới này. Từ cổ họng cô một chữ Hrih màu đỏ tỏa rọi về phía đông hướng về lục địa Potala Phổ Đà. Từ trái tim cô một chữ Hrih màu xanh dương trong veo chiếu rọi lên các cõi thiên. Từ vùng rốn cô, một chữ Hrih màu vàng sáng chói chiếu rọi xuống các cõi nằm dưới cung điện vô thượng của Long Vương. Từ nơi bí mật của cô, một chữ Hrih màu xanh lục chiếu rọi vào cõi bán thiên Atula. Từ mỗi chủng tự này là một tỷ hóa thân được sinh ra nhờ năng lực tập trung của cô.

 

Tất cả điều này đã xảy ra trong suốt Thời Kỳ Chiếu Sáng. Đây là thời điểm của Đức Phật Kanakamuni[9], một trong một ngàn Đức Phật xuất hiện trong đại kiếp ánh sáng này. Trong vùng đất Đông Ấn, ở thành phố Kanika, có một vị vua tên là Kalasiddhi, nữ hoàng đức hạnh của ông đã được biết đến là Pushpa - Lamkara – Được Trang Hoàng Những Bông Hoa. Giáo lý của Đức Phật đã không được phổ truyền ở vương quốc đó, và nhà vua đã có một trực cảm mạnh mẽ rằng đã đến lúc để thuần hóa tâm thức chúng sinh. Ông đã áp dụng đạo luật cấm sát sinh, nhưng khi luật này bị bỏ qua thì ông đã bị bệnh và rời khỏi thế giới này.

 

Hoàng hậu của nhà vua là Pushpalamkara đã chịu đựng rất nhiều từ cú sốc về cái chết của ông, cô đã đến ven bờ hồ Rayaya định kết liễu cuộc đời mình bằng cách nhảy xuống hồ, bỗng nhiên lúc đó một chàng trai trẻ tuổi đẹp trai đột nhiên xuất hiện trước cô. Với sự tự tin vui vẻ anh ta đến gần cô và hỏi lý do vì sao cô ở đây. Pushpalamkara trả lời: "  Tôi bị choáng váng với nỗi đau khổ và buồn thảm lớn lao. Chồng tôi là vua Kalasiddhi vĩ đại, lừng lẫy với sức mạnh trên khắp thế gian.".  Khóc lóc khổ sở, cô kể về nỗi bất hạnh cùng cực của mình trước cái chết đột ngột của nhà vua - người chồng yêu dấu của mình.

 

Chàng trai trẻ sau đó nói với cô. "  Mặc dù có Vua Kalasiddhi đã qua đời, nhưng tôi ở đây lúc này, và tôi đã đến để trở thành chồng của cô. Xin đừng tuyệt vọng! Hãy đến đây, hỡi cô gái, chúng ta hãy cùng quay trở lại vương quốc." Sau khi anh ta nói vậy, Pushpalamkara trải nghiệm một sự thay đổi trong trái tim và trở nên gắn bó với chàng trai trẻ. Họ cùng nhau trở về vương quốc, nơi mà tất cả mọi người đều nghĩ rằng chàng trai cô đã tìm thấy này hoặc là con trai của các vị thần hoặc là một hoàng tử nào đó. Mọi người đều trở nên say mê cậu. Họ dâng lên cậu sự giàu có cùng tài sản và đưa cậu lên ngôi để trở thành vị vua mới của họ. Hoàng hậu một lần nữa cảm thấy mình giống như một cô gái trẻ, phải lòng một cách sâu sắc với cậu, cô trải nghiệm nhiều niềm vui và hạnh phúc.

 

Một đêm, Pushpalamkara thầm nghĩ: "  Ta tự hỏi, chàng thanh niên đẹp trai này từ đâu tới nhỉ? Ta thậm chí không hỏi chàng về nơi chàng đến, cha mẹ chàng là ai, đẳng cấp và dòng dõi gia đình của chàng. Mặc dù chàng đã xuất hiện như cách các vị thần đẹp đẽ, nhưng ta phải tìm hiểu nền tảng của chàng mới được"  Sau đó, cô gặp chàng trai và nói:

 

"  Kye! Hỡi chàng trai trẻ kỳ diệu và quyến rũ, xin hãy hoan hỷ chú tâm tới tôi và xin lắng nghe! Trong trạng thái đau khổ không thể chịu đựng nổi, tôi đã định tự vẫn dưới hồ Rayaya và đột nhiên chàng đã xuất hiện. Quên đi nỗi đau buồn của mình, tôi đã biết tới niềm hạnh phúc quá đỗi với chàng. Tôi cảm thấy rằng công đức của mình hẳn phải lớn, và tôi vui mừng trong định mệnh lớn lao đó. Tuy nhiên, tôi vẫn tò mò về nền tảng của chàng, di sản gia đình, cha mẹ của chàng v.v... Xin chàng có thể kể cho tôi biết điều gì đó về bản thân mình không!"

 

Chàng trai trả lời: "E ma! Thật kỳ diệu làm sao! Cha tôi là Đức Phật nguyên thủy Phổ Hiền Samantabhadra, mẹ tôi là trí tuệ nguyên sơ an lạc trống rỗng Samantabhadri. Tôi là biểu hiện của Đức Mã Đầu Minh Vương Hayagriva vĩ đại quyền năng. Trong tịnh độ Diệu Quan Sát Trí, hỡi cô gái Pushpalamkara, dòng dõi của cô là dòng dõi chư Phật. Nỗi buồn và sự trầm cảm của cô đến từ nơi không hiện hữu và không mang lại lợi ích hay kết quả nào.

 

"  Chúng sinh bị ném vào trong đại dương luân hồi sinh tử bởi những cơn sóng nghiệp từ trước đó. Sống và tồn tại trong vương quốc này thì giống như bị rơi vào một hầm lửa. Cô không nghĩ rằng sự tồn tại như ngục tù của các hoạt động dẫn đến các cõi thấp này thì không có gì khác hơn việc gieo trồng thêm nhiều hạt giống dẫn đến tái sinh trong các cõi địa ngục sao? Các hoạt động thế gian một vị vua đã can dự vào khi còn sống chỉ đơn thuần là nguyên nhân cho sự tích lũy không ngừng dứt những hành động tiêu cực. Bây giờ cô nên phát huy theo hướng từ bỏ vương quốc này và biết rằng thời gian đã đến cho cuộc hành trình của cô trên con đường dẫn đến giác ngộ viên mãn!"

 

Hoàng hậu bắt đầu khóc: "  E ma! Xin chàng, xin hãy để cho chúng ta không bao giờ chia tách! Tôi sẽ làm bất cứ điều gì chàng ra lệnh cho tôi." Sau khi nói điều này, cô đã trải qua đau khổ liên miên trong suốt cả ngày lẫn đêm. Sau một thời gian, chàng trai trẻ lại nói với cô một lần nữa: "  Cô gái, cô và tôi sẽ không rời bỏ chỗ này. Từ giờ, cô phải hoàn thành Giáo Pháp thuần tịnh nhất có thể."  Sau đó, cô đã thực hiện lời thệ nguyện của mình phù hợp với lời nói của chàng trai. Đó cũng là lúc cô gặp Đức Phật Kanakamuni, bậc đã đi ra ngoài khất thực reo duyên bằng cách xin bố thí, và cô đã thọ giới nguyện Bồ tát trong sự hiện diện của Ngài.


Sau đó, hoàng hậu bắt đầu tu tập trên con đường Phật Pháp quý giá. Một buổi tối, một chữ Hrih màu trắng lung linh với ánh sáng xuất hiện trong không trung; từ từ đi xuống, nó tăng lên thành nhiều chữ và một chữ Hrih hòa tan vào chàng trai trẻ, trong khi cô thể nghiệm những chữ khác hòa tan vào tim cô. Sáng hôm sau, chàng trai trẻ ra lệnh: "Đứng dậy, Pushpalamkara, hãy thực hiện những cúng dường. Do nghiệp lực quá khứ nàng sẽ cho ra đời một người con gái." Cô đã nói rằng cô không có gì để hạ sinh cả. Cậu trả lời rằng thể nghiệm buổi tối trước đó có nghĩa là sẽ có một em bé được sinh ra.

 

Trong 10 tháng, âm thanh Hrih tiếp tục vang dội từ bụng cô. Nghe âm thanh này quá nhiều lần lặp đi lặp lại, cô bắt đầu tự hỏi đó là cái gì và cảm thấy rằng mình đã có mang, mặc dù cô không cảm thấy đau đớn. Cô hỏi chàng trai trẻ, và cậu mỉm cười trả lời rằng điều đó chính là điều cậu đã từng nói. Sau 10 tháng, cô hạ sinh. Vào lúc ấy, những tia sáng cầu vồng xuất hiện trong không gian và những bông hoa rơi xuống như mưa. Từ đám mây được hình thành vang lên những âm thanh nhạc cụ. Mọi người đều nói rằng nhà vua và hoàng hậu đã hạ sinh một người bé trai.

 

Vào ngày đầy tháng đầu tiên của đứa trẻ, người ta mới biết rằng thực ra đó là một bé gái. Vào thời điểm hạ sinh của mình, cô bé đã ngồi dậy và đọc rõ ràng: "Hrih!" Cô bé sở hữu tất cả mọi dấu hiệu và điềm báo kỳ diệu, như vậy tất cả mọi người đều công nhận rằng đứa bé là gái. Nhà vua đặt tên cho cô bé là Ozer Nangyen nghĩa là Được Trang Hoàng với Ánh Sáng, nhờ vậy cô bé đã được biết đến về sau này.

 

Cô bé học Giáo Pháp từ lúc 8 tháng tuổi cho đến năm 16 tuổi dưới sự giám sát của cha. Một ngày nọ, khi nhìn thấy cha mình, cô đã nói: "  E ma! Hoạt động kỳ diệu của các đấng chinh phục, người cha uy quyền vĩ đại! Mặc dù mặt đất hóa tán vào bản tánh không căn cứ của sự tinh thuần khởi nguyên, các biểu hiện hóa thân của chư Phật là không ngừng dứt. Con cũng đang được kết nối với các chư tôn, vì bản tánh của con là bản tánh của các bậc thánh trí. Con là một người nữ sở hữu những khát ngưỡng sâu xa và rộng lớn từ trước đó."  Sau khi cô nói, ánh sáng cầu vồng trắng  sáng đã chiếu trực tiếp xuống cung điện, và nhà vua đã leo lên cầu vồng như thể đó là một cái thang. Không gì có thể ngăn ông, và ông hóa tán vào hư không. Công chúa đã thành công trong việc an ủi nỗi đau buồn của mẹ và nhận quyền trị vì vương quốc. Cô đã thiết lập luật lệ cho nó. Chủ quyền trọn vẹn đã được ban hành với nề luật của giáo lý Đức Phật.

 

Một ngày nọ, khi Ozer Nangyen mạo hiểm ra ngoài đi dạo, cô đã đi cùng 500 vị ni cô tụ hội ở một vườn hoa sen. Trong vườn có một bông hoa sen tuyệt đẹp với nhiều cánh hoa, trông tựa một mạn đà la. Ánh sáng trắng rực rỡ chiếu ra từ phần đầu những cánh hoa sen này chói lóa đến nỗi rất khó để nhìn lên. Toàn bộ hội chúng đã buộc phải chứng kiến cảnh tượng đáng chú ý này. Tiến lại gần hơn, họ thấy trong nhụy hoa, vùng trung tâm hoa sen là một chàng trai 16 tuổi. Cậu chói lọi với ánh sáng rực rỡ, mỉm cười và cực kỳ cuốn hút. Cậu sở hữu tất cả những dấu hiệu chính và phụ của sự hoàn hảo viên mãn, ai nhìn vào cậu cũng đều mê mẩn.

 

Sau đó, chàng trai trẻ nói với họ: "  E ma! Hỡi cô gái kỳ diệu của chư thần, Ozer Nangyen với tập hội 500 hóa thân, điều tuyệt diệu nhất là cô đã tới đây hôm nay. Khuôn mặt cô tựa một vỏ ốc xà cừ đẹp đẽ được khắc họa, và hàm răng cô tựa một chuỗi hoa sen trắng muốt. Lưỡi cô tựa một vạt tơ lụa màu hoa anh túc. Đôi môi tươi xinh của cô lôi cuốn tựa những cánh sen thơm ngát. Đôi mắt thon dài và lông mày cô đẹp tinh tế, hoàn hảo trong đường nét. Tay chân cô cân đối một cách hoàn hảo, làn da mềm mịn của cô tựa bộ lông một chú linh dương. Lòng bàn tay và lòng bàn chân cô cũng đẹp đẽ và tao nhã, tựa những cánh sen utpala (hoa sen xanh dương). Ngực cô đầy đặn gợi cảm, hoa sen bí mật của cô dồi dào và tinh chất. Tóc cô xanh đen óng mượt và vầng trán cô tựa mặt trăng rằm trắng sáng. Eo cô thon dài, mang vóc dáng quyến rũ tựa một thiếu nữ 16 tuổi. Cô là một hóa thân phối ngẫu vô thượng của tất cả chư Phật. Ta là một hóa thân của đấng toàn năng bi mẫn Quán Tự Tại, Quán Thế Âm Avalokiteshvara. Ta được hóa sinh một cách kỳ diệu bên trong một bông hoa sen tinh khiết. Như một bổn tôn hóa thần độc nhất vô nhị nắm giữ vương quốc, cô, hỡi cô gái ngay thẳng, đã tới đây để gặp Ta do nghiệp lực của mình. Này Dakini, cô đã mang toàn bộ vương quốc của mình đi vào con đường Chánh Pháp!"

 

Và rồi công chúa Ozer Nangyen cùng tập hội 500 người nữ đều thốt lên với chàng trai như sau: "E ma! Sinh ra từ tâm điểm một bông hoa sen, hỡi chàng trai kỳ diệu tôn quý, chúng tôi hết sức vui mừng được gặp Người. Thấy khuôn mặt của Người thì giống như được xua tan cơn khát của chúng tôi. Nhờ lòng từ bi của Người, xin hãy đi cùng chúng tôi về cung điện!"

 

Họ khảo sát chàng trai cẩn thận theo mọi cách có thể và đã xác định rõ ràng rằng cậu là một hóa thân Phật. Khuôn mặt cậu xuất hiện như một vỏ ốc xà cừ được vẽ bằng một chiếc bút tuyệt hảo; lòng bàn tay và lòng bàn chân cậu tựa những cánh hoa Pali. Mái tóc xanh đen của cậu được quấn quanh đầu như một chiếc khăn lụa. Mũi cậu hoàn toàn cân đối, đôi môi đầy đặn, đôi mắt thuôn dài, và cặp lông mày tựa như được tạo bởi những tia sáng cầu vồng. Cậu mặc đồ trang sức nạm ngọc quý. Nụ cười cậu tỏa sáng rạng ngời, quyến rũ và hạnh phúc. Là một thanh niên khoảng 16 tuổi, cậu ở thời kỳ sung sức nhất, sự lộng lẫy quá đỗi của cậu khiến người ta không thể dừng việc nhìn ngắm cậu. Sở hữu những dấu hiệu chính và phụ của sự viên mãn thể chất. Khẩu ngữ cậu vô cùng du dương, nghe tựa tiếng hát từ bài ca của chim Kalapanga (Ca Lăng Tần Già ở cõi Tịnh Độ). Họ nói: "Cậu là một bậc linh thánh vĩ đại! Cậu là một đối tượng thực sự cho lòng sùng mộ và cúng dường của chúng tôi! Xin hãy đứng dậy và đi với chúng tôi!"

 

Sau đó cậu đứng dậy giữa những tia sáng chói lọi. Bất cứ nơi nào cậu bước chân, ở đó hoa đều tự nhiên mọc. Vì vậy, cậu được biết đến với tên gọi là Padma – Liên Hoa. Cậu cũng được biết đến với tên gọi Onang Pagme - Vô Biên Hiện Quang, Peme Gompar Shegpa - Hoa Sen Hiện Theo Dấu Chân, và Dakadhipati – Bậc Chúa Tể Của Chư Dakini.

 

Cậu đi cùng họ tới vương quốc, nơi cậu trì giữ và bảo hộ giáo lý Phật Pháp. Cậu đã ban những quán đảnh mật chú cho Ozer Nangyen, và cô đã thực hành các giai đoạn phát triển tâm linh cho tới khi công đức cô chín mùi và giải thoát. Hoàng tử Onang Pagme cùng công chúa Ozer Nangyen và đoàn tùy tùng của họ đã mang tất cả những người dân trong vương quốc đi tới trạng thái giải thoát trong phổ quang thân (thân cầu vồng)[10]. Về sau vương quốc được gọi là "Chốn Năng Lực Khởi Hành Vào Phổ Quang Thân." 

Samaya 

Điều này hoàn thành chương 4 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể về kiếp hóa thân đầu tiên của ngài ở thế giới loài người 

trong vương quốc được gọi là Kanika, Ấn Độ, 

Cách ngài đã mang vương quốc tới Giáo Pháp, 

Cùng các giai đoạn ngài thành tựu chứng đắc đến Phật quả.      

5. Trong Vương Quốc Damaru 

 

Từ trung tâm cổ họng Đức Dakini Pandaravasini, một chữ Hrih chói sáng hào quang bắn thẳng vào cung điện cõi giới phía đông cõi Phổ Đà Potala. Trong cõi giới đó, ở trung tâm hồ sữa lớn với 8 phẩm chất tinh khiết lại có 16 lục địa, mỗi lục địa lại có 16 lục địa phụ bao quanh. Hai lục địa phía đông là Dhatrakosha và Mitrarashmi, nơi hai bậc thánh trí là Drowa Dulwa và Khasarpani tuyệt diệu giảng dạy Giáo Pháp về tình yêu vô hạn cho vô số chúng đệ tử. Hai lục địa phía nam là Katrokopa và Rinchen-vyuha. Ở đó là 2 bậc thánh trí Amoghapasha và Ratnajaya giảng dạy Giáo Pháp về lòng bi mẫn cho một tập hội vô hạn các chúng đệ tử. Hai lục địa phía tây là Parardha và Palapatre Gyen. Ở đó, 2 bậc thánh trí Liên Hoa Padma và Liên Hoa Phật Đỉnh Tôn Thắng Padma Ushnishavijaya giảng dạy Giáo Pháp hỷ lạc cho vô hạn các môn đồ.

 

Hai lục địa ở phía bắc là Vajrapankti và Gyepepel. Ở đó là bậc Thánh Trí Avalokiteshvara và Padma Nateshvara giảng Pháp về sự tự tại cho tập hội vô hạn các đệ tử. Hai lục địa ở phía đông nam là Maitrikanta và Ratnalamkara. Ở đó là 2 bậc thánh trí Nilakanta và Ozer Barwewang ban cho vô số các đệ tử những giáo lý về các mật điển hành động và đức hạnh. Hai lục địa ở phía tây nam là Mularasa và Aryakotra. Ở đó, các bậc thánh trí Namkhe Gyalpo và Dongtrug Lha giảng dạy giáo lý về Thừa cao nhất cho vô số chúng đệ tử. Hai lục địa ở phía tây bắc là Dewe Tsalchen và Padmarashi. Ở đó có 2 vị thánh trí là Ratnarchi và Arya Vikridita giảng dạy giáo lý Tam Thừa cho vô hạn lượng các chúng đệ tử. Hai lục địa ở phía đông bắc là Padma Vikridita và Vajrakula. Ở đó, các vị Thánh Vương Paltseg và Kuntuchang Wangpo giảng dạy giáo lý Thừa Ati[11] cho vô số đệ tử.

 

Trong cung điện trung tâm thuần tịnh của Potala, trú xứ của mạn đà la được gọi là Hoa Sen Uy Mãnh, cư ngụ Đức Quán Tự Tại Avalokiteshvara trong sắc thân Gyalwa Gyatso, với một ngàn tay và một ngàn mắt. Ở đó, Ngài giảng dạy Giáo Pháp về chân lý tối hậu không ngăn che cho một hội chúng rộng lớn gồm các vị Bồ Tát thập địa. Mọi thứ trong cảnh giới này đều lộng lẫy và rực sáng rõ ràng. Có những cánh đồng cỏ đẹp đẽ xanh mượt, những hồ nước tinh khiết, những vườn hoa sen và những dòng sông cam lồ. Có những cây như ý mà cành và lá cây được làm bằng gấm lụa mịn. Những cành lá nặng trĩu quả trái được làm từ những ụ châu ngọc quý giá tuôn xuống như mưa. Các loài chim linh thánh líu lo và hát lên bài ca mật chú du dương. Các vị nam thần và nữ thần xoay tròn trong vũ điệu với âm thanh các giai điệu. Những đám mây cúng dường tạo ra bất kì điều mong ước, khao khát nào. Các cung điện đều được đính những viên ngọc thuộc 5 loại, và tất cả những đoàn tùy tùng đều mang những màu sắc pha lê, chói lọi với ánh sáng. Không có sự phân biệt giữa ngày và đêm; chỉ có ánh sáng tự  sinh của trí tuệ nguyên sơ. Thực phẩm, y phục và các xa xỉ phẩm xuất hiện một cách tự nhiên theo ước muốn. Không có ảo tưởng, lừa dối, vì vậy đau khổ và bệnh tật không tồn tại. Ngay cả cái tên đau khổ cũng không được nghe tới trong cõi giới đại lạc này. Trong cõi giới được bài trí viên mãn của các bậc thánh trí này, những phẩm tánh cao quý đều vượt ngoài tưởng tượng.

 

Ở dưới tịnh độ này, về phía bắc, có một xứ sở được gọi là Damaru. Chất liệu ở xứ này là thịt, máu và xương. Lục địa này bị bao phủ trong bóng tối của giết chóc và sát hại. Không hề tồn tại lòng thương xót hay từ bi ở đây, và cư dân không hề có niềm tin vào những bậc giác ngộ. Đó là một vùng đất đen tối, nơi không có chư Phật thuần hóa chúng sinh. Tất cả các cư dân nữ tìm thấy niềm vui thú trong việc tước đoạt mạng sống những người khác. Khuôn mặt họ hoang dại và hung hung đỏ, cách cư xử của họ quá dã man đến nỗi chỉ cần thấy họ là đã kích động sự sợ hãi và kinh hoàng. Họ thậm chí còn giết cả cha mẹ mình để cúng tế máu thịt.

 

Ở trung tâm lục địa này là Karmarupa [12] - một cung điện vĩ đại với chu vi dài hàng dặm. Ở đó có tên vua phi đức hạnh Shinta, kẻ đã tập hợp các bộ trưởng với nhau hàng ngày và họ đã giết hại hàng chục ngàn cư dân cho nhu cầu của mình. Hắn có một hội chúng với 300 ngàn thần dân, tất cả đều nghiêm cẩn dưới quyền của hắn. Có một hồ nước gọi là Ngampachen, cuộn xoáy và nổi lên với những làn sóng máu. Trong hồ này là cung điện của vua quỷ Dạ Xoa Đen Yaksha. Hồ có chu vi 1001 dặm và sâu 53 dặm. Tất cả người dân của lục địa này tụ tập ở đây mỗi ngày để hiến tế chúng sinh. Họ dâng cúng đầu, trái tim cùng các cơ quan nội tạng của họ cho tên vua quỷ. Đổi lại, sau khi những người này chết, họ phải tái sinh một lần nữa trong đoàn tùy tùng của tên vua này. Trong cõi địa ngục này, các lưỡi dao tử thần xoay không ngừng nghỉ. Những đau khổ phải chịu đựng vô cùng khổ sở. Châu lục này quá khủng khiếp đến nỗi các pháp môn hiền minh thì hoàn toàn không hiệu quả trong việc làm an dịu nó.

 

Đức Dakini vĩ đại hiểu rằng đã đến lúc lục địa này cần phải được thuần phục. Ngài tự biến mình thành một chủng tự Hrih và hóa hiện bản thân như một ánh sáng chói rực trước các bậc thánh trí. Nhờ ân phước của các Ngài, chủng tự đã được biến thành một vị nữ thần. Sau khi nữ thần dâng lên những cúng dường tới các bậc thánh trí ở tất cả 16 châu lục, những ý nguyện của các Ngài đều được ứng nghiệm, và các ngài đều biết rằng thời gian đã thật sự đến để thuần hóa tâm thức cư dân xứ Damaru.

 

Đức Dakini tuyên bố rằng đã đến lúc để tất cả chư Phật hiển lộ những năng lực mạnh mẽ của các Ngài và rằng chính Ngài là một hóa thân nữ của chư Phật. Đức Dakini vĩ đại khẩn xin chư Phật, như những đấng thủ hộ độc nhất của chúng sinh, xin hãy thị hiện những hành năng giác ngộ phẫn nộ của các Ngài. Thỉnh cầu này làm hài lòng tất cả chư Phật, những bậc sau đó hóa hiện chính các Ngài thành Đấng Bổn Tôn phẫn nộ Mã Đầu Minh Vương Hayagriva. Để lưu xuất trong 5 hóa hiện của mình, các Đấng Giác Ngộ đã chuyển thần thức của 5 tên bộ trưởng từ cõi Damaru đi vào không gian, rồi nhập thể vào thân họ, các ngài khiến bọn họ trở thành đoàn tùy tùng, quyến thuộc của Đức Hayagriva. Đức Dakini sau đó giáng thế xuống hồ Ngampachen như một chữ Hrih màu đỏ để tiệt trừ và giải thoát vua quỷ Dạ Xoa Đen Yaksha với hoạt động giác ngộ của mình.

 

Hồ nước sau đó biến thành cam lồ và chuyển sang màu trắng. Long Vương Rinchen O đã đến và xây dựng một cung điện, ông triệu tập chư thần, chư long và loài người của thế giới này thành bạn hữu của mình. Hồ nước không còn chấp nhận những cúng dường thịt máu. Để trả thù, ma quỷ đã tạo ra một cơn thịnh nộ của sấm sét và bão tố với mưa đá xối xả. Mọi người đều nhận thấy rằng hồ nước đã không còn chấp nhận các cúng dường máu phẫn nộ và màu đỏ tự nhiên của nó đã được chuyển sang màu trắng. Các thần dân đều thấy điều này như một dấu hiệu ban đầu của sự suy thoái các triết thuyết ma quỷ.

 

Dường như là chắc chắn rằng tôn giáo của đức hạnh giờ đây sẽ phát triển mạnh mẽ ở lục địa này và rằng việc trục xuất tà thuyết là trong tầm tay. Khi những phong tục phi đức hạnh đã gần như biến mất khỏi vùng đất thì các bộ trưởng nhận được lệnh triệu tập. Nhà vua nói với họ rằng truyền thống dòng dõi hoàng gia của mình khác với truyền thống cũ, truyền thống cũ cổ súy cho các ác hạnh còn ông thì không và ông không thể đưa bản thân mình vào việc này, ông muốn duy trì Giáo Pháp đức hạnh.

 

Tuy nhiên, sau đó chín điềm triệu xấu đã xảy ra ở hồ quỷ Ngampachen. Chính nhà vua đã trải qua những dấu hiệu tiêu cực. Trong những giấc mơ của mình, ông nghe thấy âm thanh tiếng ngựa hí đến từ đầu các bộ trưởng. Ông nghe thấy âm thanh Trống Pháp đập vào trung tâm hồ nước. Trưởng tử vô thượng của ông là Yaksha Anandapala bị ăn bởi một cô gái màu đỏ. Ông mơ thấy mình bị mất tất cả quần áo xiêm y. Ông cũng mơ thấy toàn bộ xứ sở trở nên được lấp đầy với tuyết trắng và các kinh văn trút xuống đỉnh cung điện, rồi ánh sáng trắng đi xuyên qua trái tim ông.

 

Ông cho rằng từng dấu hiệu này là một điềm triệu xấu nên ra lệnh cho các bộ trưởng sát sao thực hiện các luật lệ ác hạnh bên ngoài và bên trong. Nếu bất cứ ai bị bắt được đang thực hành Pháp, họ sẽ bị trừng phạt. Không một ai trong vương quốc được phép nói một từ nào về Pháp. Họ cũng được ra lệnh rằng phải dâng cúng dường đỏ cho hồ quỷ. Tất cả các bộ trưởng thực thi luật lệ theo những mệnh lệnh này và duy trì những chính sách nhà vua đưa ra. Sau đó, họ đều để cảm thấy rằng những giấc ác mộng thì chỉ là một sự đe dọa và rằng tất cả những gì diễn ra là tốt đẹp.

 

Tuy nhiên, họ không biết rằng những giấc mơ là những dấu hiệu tuyệt vời. Những âm thanh tiếng ngựa hí đến từ đầu các bộ trưởng là dấu hiệu về sự tôn kính đối với biểu tượng lực lượng nhà vua, con ngựa. Những âm thanh tiếng trống trong hồ là một dấu hiệu về sự ra đời của một công chúa đáng ngạc nhiên hoặc dấu hiệu của việc tìm thấy một long nữ (nagani). Cô gái màu đỏ là một dấu hiệu cho thấy các học thuyết của Tsen[13] đã được phổ truyền ở đó. Xứ sở chuyển thành màu trắng là một dấu hiệu nguồn lực ngày càng tăng. Việc mất quần áo của vua là một dấu hiệu về một lễ hội vĩ đại. Các kinh văn trút xuống như mưa là một dấu hiệu về lời tiên tri từ các chư tôn vĩ đại. Ánh sáng thâm nhập vào tim nhà vua là dấu hiệu sự thông tuệ tuyệt diệu của vua. Việc giải thích chính xác đã được giải thích cho nhà vua, và ông tin rằng đó là sự thật. Sau đó tất cả các bộ trưởng đều cảm thấy rất không ổn.

 

Đến lúc con trai nhà vua kết hôn và thừa kế ngai vàng. Một ngày, trong cuộc tìm kiếm một nàng dâu phù hợp trong tất cả những người nữ trẻ ở xứ sở cùng các khu vực lân cận, một vòng lửa chưa từng thấy trước đây xuất hiện xung quanh cạnh hồ nước. Mọi người đều nhìn thấy vòng lửa này. Nó trở thành nguyên nhân cho nhiều cuộc thảo luận giữa các bộ trưởng, và họ quyết định đi đến hồ để điều tra. Ở trung tâm hồ nước, họ nhìn thấy một nhụy hoa màu đỏ trong hình dạng một chiếc lá chắn, hé mở nở rộ. Ở trung tâm của nó xuất hiện một cô gái 16 tuổi xinh đẹp, nhảy múa trong chuyển động đu đưa. Tất cả các bộ trưởng đều kinh ngạc, và họ lập tức nhanh chóng trở về trình báo cho nhà vua về điều này.

 

"  Kye! O Thưa đức vua xứ Damaru, như lời tiên tri đã chỉ ra. Hồ nước đã được bao quanh bởi một vòng lửa. Sau đó, trong trung tâm của nó, ngay tại nhụy hoa trung tâm một hoa sen nở rộ, một thiếu nữ trẻ trung được sinh ra. Cô ta trông cực kỳ xinh đẹp, màu trắng, khoảng 16 tuổi, và chắc chắn là một long nữ. Quả thực, cô đã xuất hiện. Dường như cô ta có nguồn gốc từ chủng tộc rồng Hắc Tâm, chủng tộc rất giàu có và sở hữu nhiều loại châu báu quý giá. Chúng tôi cảm thấy rằng nữ thần tuyệt vời này phải là cô dâu mà chúng ta đã chờ đợi từ lâu cho vị vua tương lai của mình!"

 

Sau đó, nhà vua mặc y phục gấm lụa tốt và thực hiện nhiều cúng dường. Ông cùng với hoàng tử và tất cả các bộ trưởng đã đi ra hồ nước trong khi nhà vua lấy làm lạ lùng về các sự kiện lặp đi lặp lại về định mệnh lớn lao của ông. Vào lúc hoàng tử nhìn thấy cô gái, anh đã hoàn toàn bị quyến rũ bởi vẻ đẹp của cô, một niềm đam mê lớn lao nảy sinh trong anh. Người thiếu nữ nói:

 

"  Um! O Hỡi đức vua Shinta xứ Damaru, đã tới lúc con trai ngài kết hôn và chuẩn bị cho lễ đăng quang của mình. Mặc dù ngài đã và đang tiếp tục tìm kiếm một người nữ trẻ trong thế giới loài người, nhưng công đức của ta thì lớn lao hơn nhiều! Chỉ cần bằng cách nhìn chăm chú vào ta, con trai ngài đã trở nên say sưa với niềm hạnh phúc của Phật Mẫu Phổ Hiền Samantabadri. Ta là con gái của chúa quỷ Dạ Xoa Yaksha. Ta cũng là con gái của chúa tể rồng áo xanh đen. Có 18 cấp rồng trong các lục địa ngầm. Và 9 cấp trong số này này giết hại chúng sinh dùng làm thực phẩm của họ. 9 cấp khác sử dụng những viên ngọc như ý để cho thực phẩm và thức uống của họ. Không ai có thể có của cải và nguồn lực vượt qua được các vị rồng. Vào thời điểm này ta hiện được cai quản bởi long vương. Ta đến đây để gặp con trai ngài Yaksha Anandapala. Ta cầu nguyện điều này có thể được thực hiện."

 

Khi nghe những lời cô nói, nhà vua và các bộ trưởng cùng thảo luận. Sau khi thảo luận, họ đi đến một thỏa thuận và nói: "  Kye! O Hỡi Yaksha Đen! Trong sự rộng mở của hồ nước sinh lực đáng sợ, trong nhụy một bông hoa sen đáng kinh ngạc, con gái vua rồng, Go Ngan, trẻ trung và siêu phàm làm sao! Cô đã đến để kết hôn với đức vua mới của chủng tộc ma quỷ những kẻ đen tối này. Định mệnh những ma quỷ này thật lớn lao làm sao! Chúng tôi quá đỗi vui mừng vì một long nữ đã đến đây giữa chúng tôi!" 

 

Sau khi họ nói, cô gái băng qua hồ nước để tiếp cận họ. Mỗi bước cô đi đều để lại dấu chân trên mặt nước. Nhà vua và đoàn tùy tùng của ông dâng cúng dường rộng lớn lên cô và đưa cô trở về hoàng cung. Tất cả các thần dân đều tụ hội, và một lễ hội vĩ đại đã diễn ra. Cô ở cùng với hoàng tử trên đỉnh cung điện. Sau một thời gian, cô nói với hoàng tử: "  O Hỡi Yaksha Anandapala, xin hãy lắng nghe tôi! Ta sẽ không có hạnh phúc trong với việc ở lại trong cung điện này. Mặc dù ta yêu chàng, nhưng ta không thể ở lại đây như thế này. Bây giờ ta sẽ trở lại vào hồ nước nơi ta xuất xứ. Xứ sở của ta xa xôi vạn dặm. Cung điện vua rồng đặc biệt dễ chịu. Nơi không có ác hạnh, mà chỉ có sự gia tăng đức hạnh. Công đức là vô tận và Thánh Pháp được phát triển mạnh mẽ. Tất cả các bộ trưởng thực thi nề luật nhằm duy trì và phát huy đức hạnh. Trong nhiều cách, xứ sở của chàng thấp hơn so với xứ sở của ta. Nhà vua sử dụng quyền lực của mình để duy trì những đường lối ma quỷ. Các bộ trưởng ngoại và nội là những người bảo vệ tà ác của xứ sở. Đây là một đất nước của những người cai trị tà ác ẩn khuất trong bóng tối đồi bại. Ta không muốn tiếp tục ở lại nơi này, nơi tên gọi của đức hạnh cũng không tồn tại và những kẻ đồ tể chiếm ưu thế. Đôi mắt ta không thể thấy cha, mẹ, anh em và chị em mình. Ta không thể nghe thấy thậm chí ngay cả một câu trong Thánh Pháp. Ta buồn vô hạn, hỡi người bạn đời của ta. Thân thể mà chàng yêu mến này được sinh ra từ cha mẹ chàng. Được sinh ra từ một bông hoa sen, giờ đây ta sẽ trở lại xứ sở của mình. Chúng ta gặp nhau lần này do nghiệp lực trong quá khứ. Chúng ta không thể ở lại cùng nhau lâu dài. Đó là bản chất của vô thường. Vì vậy xin chàng đừng tuyệt vọng! Hãy làm việc tinh tấn để duy trì vương quốc của chàng."

 

Sau khi nghe cô nói, Yaksha Anandapala tự nghĩ rằng người nữ trẻ này đã một long nữ trỗi vượt nhất. Không người nào trong thế giới này có thể sánh bằng, dù chỉ một phần những phẩm tánh cao quý của cô. Chưa bao giờ gặp được ai như cô, anh nghĩ rằng sẽ không ai có thể thay thế cô được. Thật xấu hổ là họ đã không có một người con trai trong suốt thời gian ở cùng nhau! Nếu có một người con trai, cô sẽ rất do dự khi bỏ đi vì tình yêu dành cho đứa con. Anh quyết định rằng mình phải ngăn cản cô ra đi, dù bằng bất cứ giá nào.

 

Anh đã đến gặp nhà vua và nói với ông như sau: "  Vua Cha duy nhất của con! Người long nữ đáng ngạc nhiên sinh ra từ bông hoa sen đang định trở về xứ sở của mình. Vùng đất ma quỷ này chỉ khiến cô phiền muộn. Dù bất cứ việc gì cô nghĩ hay làm thì một khi mất đi, người nữ trẻ tuyệt vời này sẽ không thể thay thế. Con phải tìm một cách nào để để thuyết phục cô ở lại."  Sau khi anh nói, nhà vua và tất cả các bộ trưởng đã gặp nhau để thảo luận về vấn đề này, nhưng họ không thể nghĩ ra một cách nào ngăn cô ra đi. Sau đó, năm bộ trưởng, những bậc là các hóa thân của Đức Mã Đầu Minh Vương Hayagriva đã làm cho ảo tưởng trong tâm trí vị vua vĩ đại tan biến nhờ những năng lực giác ngộ của họ. Nhà vua quyết định rằng vị long nữ trẻ tuyệt vời sinh ra từ hoa sen này nên được phép phụ trách hoàn toàn việc vận hành thế tục của vương quốc. Không ai trong số các bộ trưởng nghĩ rằng cô nên được phép ra đi, và nhà vua tuyên bố rằng họ nên làm bất cứ điều gì cô yêu cầu. Nhà vua, hoàng tử và mọi người khác đều đồng ý, vì vậy tất cả bọn họ đã tới gặp người nữ trẻ.

 

"  E ma! Kỳ diệu thay người nữ sinh ra từ hoa sen, thậm chí nếu một người có thanh tẩy cả vũ trụ, thì cũng sẽ không thể nào gặp được một người nữ hiếm gặp như cô. Cô đã quyết định rời bỏ hoàng tử - con trai gia đình danh giá của tôi. Xin cô, tôi cầu xin cô, hãy cho chúng tôi biết những gì chúng tôi đã làm để khiến cô muốn bỏ lại chúng tôi. Cô gái trẻ, xin vui lòng tiếp nhận những công việc của vương quốc này. Chúng tôi sẽ là những thần dân nằm dưới mệnh lệnh của bất kì luật lệ nào cô thiết lập và chúng tôi sẽ không bao giờ vượt quá những gì cô yêu cầu chúng tôi. Đổi lại, chúng tôi thỉnh cầu cô ở lại đây giữa chúng tôi."

 

Với thỉnh cầu này, người nữ trẻ trả lời: "  Các vị có thà là trở thành các bộ trưởng Pháp còn hơn là trở thành các bộ trưởng xấu ác không? Các vị có thà là trở thành một vị vua Pháp còn hơn là trở thành một vị vua tội lỗi không? Các vị ở bên phe thiện hay bên phe ác? Nếu các vị thà là ở bên Giáo Pháp, thì tôi sẽ bằng lòng ở lại và cai trị vương quốc. Nếu các vị vẫn thích là những người cai trị ma quỷ xấu xa, thì tôi phải ra đi. Nếu các vị quyết định trở thành một người cai trị theo Giáo Pháp, thì chúng ta có thể duy trì luật lệ cùng nhau. Nếu các vị quyết định là các bộ trưởng không đức hạnh, thì sau đó chúng ta sẽ không có kết nối nào thêm cả. Nếu các vị quyết định là các bộ trưởng Pháp, thì tôi sẽ có thể cùng hòa nhập lực lượng với các vị. Tôi là một người nữ có năng lực đặc biệt, tôi đang làm lan rộng những con đường đức hạnh. Các vị, nhà vua cùng các bộ trưởng, giờ đây cần phải xoay sự chú tâm của các vị hướng về con đường đức hạnh. Vì các vị đã không làm như vậy nên chúng ta không thể sống hòa hợp. Những chúng dân của xứ này đã sống vô thức trong bóng tối. Tôi là một người nữ có đầy đủ những phẩm chất cao quý đức hạnh. Tuy nhiên các vị hãy nhìn vào nó, những quan điểm của chúng ta khác nhau. Hoàng tử đang theo đuổi một con đường chẳng dẫn đến đâu cả. Các bộ trưởng tà ác thì nhẫn tâm cười khẩy trong bóng tối. Những bè lũ ma quỷ vô tình mắc kẹt trong một vòng tròn luẩn quẩn những hành động tiêu cực. Tôi sẽ ở lại chỉ khi các vị hoàn toàn từ bỏ chế độ tồn tại vô ích này. Nếu các vị không từ bỏ nó, tôi sẽ cầu nguyện cho toàn bộ vương quốc biến mất khỏi sự hiện hữu, trong khi tôi sẽ đi thẳng về phía trước trên con đường dẫn đến giải thoát. Nếu tâm các vị được khai mở, các vị sẽ hành động với ý thức cẩn trọng. Nếu các vị đồng tình với những lời trí tuệ này, thì hãy tiếp cận tôi với niềm ân hận mạnh mẽ và chân thành, rồi hãy trở thành một với tôi. Nếu các vị đồng tình với tôi, hãy mang lời khuyên này vào trái tim các vị!"


Sau khi nghe cô nói vậy, nhà vua cùng tất cả các bộ trưởng đã nắm lấy từng lời cô nói và tôn vinh cô là nữ hoàng của mình. Người nữ trẻ giành kiểm soát toàn bộ vương quốc, và tất cả mọi người đã cùng tụ hội để chấp nhận quyền của côvà tôn trọng mệnh lệnh cô đưa ra. 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 5 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể về cách khẩu ngữ của ngài hóa hiện hóa thân từ cõi Potala đi vào vương quốc Damaru

và làm thế nào ngài sinh ra từ một bông hoa sen, làm chủ lần lượt các giai đoạn, rồi sử dụng hành năng giác ngộ của mình để thuần phục vương quốc.           

6. Giác Ngộ Vương Quốc Damaru 

 

Sau đó, người nữ trẻ sinh ra từ hoa sen khởi lên ý định thiết lập và thực thi luật lệ Giáo Pháp trong vương quốc, cô triệu tập nhà vua và các bộ trưởng thân cận lại, yêu cầu họ phải chú tâm. Cô nói: "Xin hãy lắng nghe, hỡi nhà vua và các bộ trưởng trung thành. Hãy xoay vào trong và thẩm tra lại tâm chính các vị. Tất cả bè lũ ma quỷ vẫn còn khuynh hướng phi đức hạnh cần phải được đưa đến con đường thiện lành để họ có thể vượt qua đau  khổ. Những chúng sinh này cần phải được dẫn đến trạng thái giải thoát. Bất kể việc gì được thực hiện phải khế hợp với hoạt động Pháp. Tôi hóa sinh ra từ hoa sen, và ý định của tôi vô cùng rộng lớn. Bây giờ không còn cần thiết để chúng ta tụ hội và có các cuộc thảo luận. Thời gian đã đến để thực hiện những mục tiêu mà chúng ta đã thỏa thuận trước đó nhằm thiết lập và thực thi luật lệ để từ bỏ ngay gốc rễ phiền não trong vùng đất này!

 

"  Các bộ trưởng cùng hội đồng của họ dự định đến bờ hồ Ngampachen vào ngày trăng thượng tuần tuyệt hảo. Họ cần phải đặt một hồi kết tới sự bất hạnh trong vương quốc bằng cách cúng dường 5 loại ngọc quý, ngũ cốc khác nhau, các chất trắng, chất ngọt cùng tơ lụa. Những ai có sự nỗ lực thực hành Pháp vô thượng thì sẽ được xếp vào hàng các bộ trưởng. Những ai tiếp tục hành xử phi đức hạnh thì sẽ bị xử lý. Vào ngày mùng 8, 15 và 30 âm lịch, những người nữ trẻ tuổi của vương quốc sẽ thiết lập các nghi lễ Phật Pháp thường xuyên. Những ai lười biếng và không thực hành Pháp sẽ bị trừng phạt nặng nề. "

 

Sau đó, nhà vua và các bộ trưởng đã cùng gióng lên tiếng trống vĩ đại giới luật. Tất cả những ai tụ tập trong dịp này ở bờ hồ Ngampachen đều nghe thấy những âm thanh nhạc cụ trong hồ nước phát ra. Đây là một dấu hiệu cho thấy các vị rồng hài lòng. Một mùi thơm lan tỏa khắp xứ sở.

 

Về phía đông hồ nước, một đền thờ được dựng lên. Sau khi ban phước cho nó, nhà vua và hoàng hậu đã ở đó. Hoàng tử Yaksha Anandapala được chỉ dẫn tu tập trong thực hành Kinh Thừa. Họ đốt những cuốn sách tà ác của bộ máy trước đó để ngay cả cái tên của các tà thuyết cũng trở thành dĩ vãng. Năm bộ trưởng được ban phước bởi Đức Hayagriva thực thi các luật lệ Giáo Pháp trên khắp xứ sở. Tất cả bè lũ tiêu cực được đặt dưới hệ thống mới của đức hạnh. Bậc sinh từ hoa sen có 5 hóa thân nữ: Kyema (Trẻ Trung), Dema (An Lạc), Gama (Hỷ Lạc), Chogzangma (Tối Hảo), và Yangchenma (Du Dương), những bậc đã trở thành các phối ngẫu của năm bộ trưởng. Họ đã xoay chuyển Pháp Luân Mật Chú vào 6 thời điểm. 500 phụ nữ đức hạnh đã tụ hội và được thọ phong trọn vẹn.

 

Một trong các ngoại bộ trưởng tên là Jihar, hắn là hóa thân của một con quỷ. Hắn đã hoàn toàn đối nghịch với Phật Pháp và sẽ không từ bỏ mục đích đánh bại Pháp. Hắn đã có một đoàn tùy tùng gồm 500 tinh binh mạnh mẽ. Một lần, khi Đấng Dakini sinh từ hoa sen đang trong đại định, Đấng Mã Đầu Minh Vương Hayagriva vinh quang vĩ đại đã xuất hiện trong không gian và nói với nữ hoàng trẻ: "  Cô, bậc sinh ra trong hoa sen, một hóa thân của hành năng giác ngộ phẫn nộ. Ta sẽ trợ giúp cô trong việc giết và giải thoát bè lũ ma quỷ này. Nếu không được giải thoát, thì chúng sẽ tiêu diệt giáo lý Đức Phật. Đừng ngần ngại, vì thời gian đã đến!'' Đúng như Ngài đã dự đoán, bè lũ ma quỷ đã mang theo nhiều loại vũ khí tiến gần tới bậc sinh từ hoa sen, chúng cố gắng tiêu diệt cô. Vào lúc ấy cô đã thị hiện hóa thân phẫn nộ của mình, cùng với tất cả những bậc thủ hộ và các hộ thần vinh quang trợ giúp. Một số vị cầm vũ khí, trong khi những vị khác tạo ra mưa đá và sấm sét đánh xuống. Một số vị hét lên như những chiến binh, trong khi những vị khác gầm lớn những âm thanh Hum, Phat Bhyo!

 

Lũ ma quỷ được giải thoát cùng lúc, và tất cả trong số chúng, không chút ngoại lệ đều được đưa lên cõi Potala (Phổ Đà), trú xứ cư ngụ của Đức Quán Tự Tại Quán Âm Avalokiteshvara. Giáo lý Đức Phật lan tỏa khắp mọi hướng, và bậc sinh ra từ hoa sen sau đó trở nên lừng danh là Đấng Nữ Anh Hùng Chiến Thắng Ma Vương. Tất cả những thường dân bắt đầu tu tập Pháp đến nỗi trong suốt cả ngày lẫn đêm họ đều an trụ trong thiền định. Tất cả đều được dạy giáo lý Phật Pháp trong 9 thừa[14], và 700.000 người đã được giải thoát như một mạn đà la. Đắc thân cầu vồng, họ đi vào cõi giới của những bậc giác ngộ. Hoàng tử Yaksha Anandapala đi vào con đường tu tập và sau đó bắt đầu ban những quán đảnh cho thực hành mật chú. Ngày và đêm anh vẫn an trụ trong đại định. Sau đó vào một ngày vua cha của anh rời khỏi thế giới này, và phụ mẫu của anh hoà tan thân thể của bà vào hư không, không để lại chút dấu vết nào. Nhờ ân phước của hoàng hậu, thân thể nhà vua cũng tan biến vào hư không mà không để lại điều gì.

 

Vào thời điểm đó Yaksha Anandapala tác bạch với bậc sinh ra từ hoa sen: "  Kye ma! Thưa bà mẹ, Đấng Dakini trí tuệ! Bậc nữ bổn tôn bí mật tận cùng! Nhờ những tia sáng mặt trời bi mẫn của mẹ, những cấp bậc ma quỷ tiêu cực từ chỉ thị đen tối đã hoàn toàn được loại bỏ. Mẹ ơi, nhờ chiếc móc câu từ những tia sáng mặt trăng của mẹ đã dẫn dắt con cùng tất cả những người khác trên con đường giải thoát. Cầu mong tinh túy cam lồ - tâm yếu của con đường mật chú tối thượng được thực hiện một cách trọn vẹn, và cầu mong trạng thái bất nhiễm của trí tuệ nguyên sơ được chứng ngộ. Ngọn đèn thế giới, bậc đã mang linh ảnh tới ba cõi hiện hữu, mẹ là người mẹ cực kỳ thiện tâm của con, và con được ban phước với thiện nghiệp may mắn. Như kẻ đi theo bước chân mẹ, con cúi đầu trước mẹ và đặt tất cả sự tận tâm của con nơi mẹ. Người cha đáng kính của con, Đức Vua Shinta, đã rời khỏi thế giới này. Xin hãy cho con biết cha mẹ Kala Yaksha - bậc đã ban cho con thân thể này đã được tái sinh về đâu và khi nào họ sẽ đạt được giải thoát. Khi nào thì hồi kết sẽ đến với những đau khổ của họ trong sáu cõi hiện hữu? Nơi tiếp theo họ tái sinh là ở đâu? Xứ sở và lục địa nào họ sẽ ở đó? Xin hãy cho con biết câu trả lời rõ ràng nhờ năng lực thấu thị của mẹ."  Dâng lên lời thỉnh cầu này, hoàng tử chắp lòng bàn tay mình lại với nhau và đảnh lễ cô với lòng sùng mộ lớn lao.

 

Và rồi bậc sinh từ hoa sen đáp: “Người đồng hành dấu yêu của ta Yaksha Anandapala, hãy lắng nghe! Ta là vị phối ngẫu Pandaravasini từ cõi Tây Phương Cực Lạc Sukhavati. Trong cõi Phổ Đà Potala, ta là vị Dakini sinh ra từ chủng tự Hrih. Ở đây trong xứ Damaru, ta cũng được biết đến như là bậc sinh ra từ hoa sen. Cuối cùng, ta là một Dakini trí tuệ nguyên sơ. Ta hóa hiện bản thân mình không ngưng nghỉ trong suốt khắp ba thời và sở hữu 55 năng lực  thấu thị. Ta sẽ trả lời chàng chi tiết về câu hỏi; hãy giữ chúng trong tâm!

 

"  Từ vô thỉ, cha chàng – Đức Vua Shinta đã sở hữu những ân phước không thể nghĩ bàn từ thân và khẩu. Một ngàn kiếp trước, vào lúc kết thúc giáo lý Đức Phật Vimala, có một người con gái, con một người bán thịt tên là Ragamaha. Cô rất đáng yêu đến nỗi cô đã được sánh với hoa Utpala. Cô đã trở thành một người hầu của nhà vua và có nhiệm vụ buộc phải chăm sóc nhiều loài vật. Cô phải chịu đựng rất nhiều điều kinh khủng. "  Trong ảo tưởng bị lừa dối của mình, cô đã có một lời cầu nguyện tiêu cực mạnh mẽ trong sự hiện diện của 500 vị Thanh Văn. Cô đã cầu nguyện rằng tất cả các loài vật cô đang chăm sóc - cũng như nhà vua, hoàng hậu cùng tất cả các bộ trưởng và tùy tùng của họ sau đó sẽ đi theo cô, nằm dưới năng lực của cô để cô có thể buộc tất cả bọn họ làm những việc phi đạo đức. Trong khi cô khởi tâm hình thành lời cầu nguyện sai lạc này, thì 500 vị Thanh Văn đã cầu nguyện rằng nguyện một Đức Phật sẽ đến để giải thoát chúng sinh trong thời gian đó và Ngài có thể mang tất cả bọn họ đi tới giác ngộ. Sau khi hoàn thành lời nguyện cầu tiêu cực này, người nữ đầy tớ đã chết. Cô tiếp tục trải qua nhiều kiếp tái sinh trong 3 cõi thấp hơn. Sau đó, cô bị tái sinh trong cõi giới phía đông của tộc ăn thịt người được gọi là Chamara nằm dưới quyền cai trị của vua Haling. Trong suốt kiếp đó cô là mẹ nhà vua, và tên cô là Kala. Giờ đây, trong kiếp sống này, cô đã trở thành hoàng hậu và nhà vua, cha mẹ chàng. Do sức mạnh từ lời cầu nguyện được thực hiện bởi các vị Thanh Văn, ta là người đưa cô đến sự trưởng thành tâm linh.

 

"  Tuy nhiên, sau kiếp sống này, cô sẽ tái sinh thành một người con gái thuộc đẳng cấp thấp nhất ở Ấn Độ trong một thành phố tên là Gandhi. Tên cô sẽ là Zangmo, và cô sẽ trở thành một kỹ nữ. Sau đó ta sẽ có thể thuần hóa tâm thức cô và đưa cô đến với con đường Phật Pháp. Sau đó, cả cha và mẹ chàng sẽ được sinh ra trong xứ Zahor. Tên của họ sẽ là Osema và Kunche. Được sinh ra như thợ thủ công, họ sẽ là anh trai và em gái, và ta sẽ mang họ đi tới sự giải thoát. Đạt được thân cầu vồng, họ sẽ đi đến xứ Chamara."18 

                                                          

18 rnga  yab  gling, đồng nghĩa với  zangs  mdog  dpal  ri,  Núi Đồng Đỏ nơi Đạo Sư Liên

Hoa Sinh cư ngụ 

 

Sau khi nghe được những lời này, Yaksha Anandapala trở nên tràn đầy hỷ lạc và nguyện sẽ đi theo bậc sinh từ hoa sen mãi mãi. Một thời gian ngắn sau đó, chàng qua đời mà không để lại bất kỳ thứ gì đằng sau, chuyển di vào cõi Phổ Đà Potala. Sau đó tất cả mọi người trong toàn xứ sở, cùng bậc sinh từ hoa sen và tập hội của cô đều đắc thân cầu vồng và đạt giác ngộ viên mãn. 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 6 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể về cách ngài đặt toàn bộ xứ sở Damaru trên con đường Pháp  

Và đưa mọi người đến trạng thái giác ngộ.    

7. Trong Thiên Giới 

 

Sau đó, từ các tia sáng hóa hiện của Đấng Dakini vĩ đại, một hóa thân tâm được lưu xuất ra như một chữ Hrih xanh dương trong suốt. Khi đi đến những khu vực phía trên thiên giới, cô đã hóa thân trong các cung điện của Đại Thiên Chủ Đế Thích Indra. Ở đó cô đã trở thành con gái của nam thần Ratnadhara và nữ thần Kunzig Onang. Được biết đến như là Kangkari, cô xinh đẹp không gì sánh. Sự lừng danh về vẻ đẹp tao nhã của cô lan rộng khắp xứ sở. Tên người bạn đồng hành của cô là Dawa Ozer - Nguyệt Quang, một hóa thân Phật thuộc đẳng cấp Brahmin (Bà la môn) của chư thần. Một lần, khi đi tới đỉnh một ngọn núi, họ đã sinh ra hóa thân của các bậc thánh giả là Dampa Togkar.

 

Để đánh bại các bán thần atula[15] trong cuộc chiến ở cõi trời, Kangkari đã lưu xuất ra một hóa thân phẫn nộ. Khi đám bán thần bị đánh bại, họ từ bỏ những ý định làm hại người khác của mình và đảnh lễ, thể hiện lòng tôn kính với cô. Sau đó cô được gọi là Nữ Thần Hàng Phục Ban Phát Phúc Lạc. Tất cả các vị thần của đẳng cấp Brahmin mạnh mẽ cũng kính lễ, bày tỏ lòng tôn kính của họ tới cô và thỉnh cầu cô xoay chuyển Pháp Luân. Từng người một trong số họ đều đạt được trạng thái an bình của một bậc thánh giả.

 

Một lần, Dampa Togkar kính cẩn tới gặp người mẹ vinh quang của mình và nói: " Kye ma! Hỡi nữ thần Kangkari! Lừng danh là bậc hàng phục các bán thần atula, đặt họ trong phúc lạc an bình. O mẹ ơi, nữ anh hùng xinh đẹp, suối nguồn của Phật Pháp, bậc đồng hành Dawa Ozer! Để dẫn dắt tất cả chư thần an trụ trong thiền định, con đang định đi tới cõi trời Đâu Suất Tushita. Bậc Dakini Giáo Pháp thâm sâu của mật chú, bậc đã không từ bỏ vòng luân hồi sinh tử samsara mà vẫn trụ thế dẫn dắt chúng sinh, xin hãy ban giáo lý tuyệt vời và cao cả này cho con! Nhờ dấn thân vào con đường nhanh chóng, con hy vọng sẽ mang con đường chân lý này tới cõi trời Đâu Suất Tushita và xoay chuyển Pháp Luân về Trí Tuệ Bát Nhã Prajnaparamita."

 

Kangkari trả lời: "  Cho đến khi hệ thống thế giới này trống rỗng, ta sẽ không nhập niết bàn mà sẽ thực hiện bất cứ hoạt động cần thiết nào để thuần hóa chúng sinh. Con trai, khi con tới cõi Đâu Suất Tushita, hãy biểu lộ sự hoàn hảo viên mãn của trí tuệ  2 chân lý.[16] tới các đệ tử của mình. Sau kiếp tái sinh này, con sẽ được tái sinh ở Ấn Độ, là con trai của Vua Shuddhodhana[17] và sẽ đạt giác ngộ. Ta sẽ hóa hiện như bà mẹ biểu hiện một cách kỳ diệu sinh ra con. Với nghiệp quả của tái sinh này, trong các cõi nước của các vị thiên, long thần và con người, con sẽ trở nên lừng lẫy như một bậc trì giữ di sản cổ xưa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lừng danh là một trong những bậc hàng phục ma vương.[18] Điều này sẽ xảy ra đúng theo lời tiên tri của Đức Phật quá khứ Dipamkara. Con sẽ có vô số hiện thân. Để mang 500 ngàn trưởng tử của các vị thiên đến trạng thái tỉnh thức trọn hảo như một mạn đà la, ta sẽ hiển lộ Giáo Pháp thâm sâu cho con trong sự trọn vẹn."

 

Sau đó cô ban tất cả các giáo lý không chút ngoại lệ cho bậc trưởng tử vô thượng Dampa Togkar của mình, từ đó ông đã đi đến cõi trời Tushita. Kangkari đã phóng ra vô hạn các tia sáng từ thân thể mình đi vào tầng thứ 30 của thiên giới. Bất cứ ai được các tia sáng đi vào đều được đưa tới trước cô và được dạy giáo lý nhân quả, tứ diệu đế và các ba la mật.[19] Cô cũng chuyển pháp luân Thừa Quả của mật chú. 500 nữ hoàng thiên giới đã được dẫn dắt qua hai giai đoạn của con đường, và mỗi người trong số họ đều đạt trạng thái giác ngộ viên mãn. Dawa Ozer hóa thân như một vị vua atula. Kangkari biến thành một chủng tự Hrih và sau đó hòa tan vào cõi trời, nơi cô để lại 100 hóa thân. Ở đó, họ cùng xoay chuyển Pháp Luân vì lợi ích của tất cả chúng sinh. 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 7 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể về cách ngài thực hiện lợi ích cho chúng sinh trong thiên giới.      

 

8. Trong Cõi Rồng (Naga) Chandala Đen (Hắc Chiên Đàn)

 

Một bản văn kể về cách ngài hóa hiện các phẩm tánh giác ngộ tôn quý.  

 

Giữa 9000 cõi nước trong khu vực ngầm dưới lòng đất của các vị rồng[20] là cõi Hắc Chiên Đàn, nơi hiện thân rồng Nagalaru cư ngụ. Khu vực này có chu vi rộng 21.000 dặm, trong đó cát nóng đổ xuống như mưa mang lại sự khổ sở không thể nghĩ bàn. Tất cả cư dân của vùng đất thuộc chủng tộc Chandala (Chiên Đàn) đều mang tâm thức bị ảo huyễn, lừa dối với lòng thù hận bùng nổ như lửa. Họ săn mồi lẫn nhau, trải qua nỗi đau khổ còn lớn hơn trong các cõi địa ngục. Thủ lĩnh chính của tộc Chandala này là chúa tể các vị rồng nam rồng nữ thì xấu xí không thể tả, với nước da đen sẫm. Thân ông bị phủ kín bởi 100 ngàn vết thương hở miệng khác nhau, và đầu ông bị đau nhức với những dòng dịch truyền nhiễm phun trào. Phần trên thân ông ta là của một người, trong khi phần thấp hơn là của một con rắn. Được bao quanh bởi vô số các tùy tùng rồng than khóc trong nỗi đau đớn liên miên bất tận. Mùi hôi thối từ hơi thở trong miệng họ tràn lan khắp thế gian. Con trai ông ta là rồng đen Kyabche Barwa, được vây quanh bởi vô số các vị rồng ma quỷ, tất cả trong số đó đều lạc lõng, không có bất kỳ đối tượng quy y, bảo hộ hay người bạn ích lợi nào bên họ cả. Không ai trong số họ biết bất cứ điều gì khác hơn ngoài sự đau khổ. Đức Dakini biết rằng cuối cùng thời gian đã đến để xứ sở này được thuần hóa. 

 

Biến thành một chữ Hrih vàng ròng, vị nữ thần đi vào xứ sở các vị rồng bằng cách đi xuống đỉnh núi ngọc như ý. Sự rạng rỡ của cô hoàn toàn vượt quá các cõi rồng không chút ngoại lệ. Sau đó, cô hóa thân thành long nữ được phục sức với đầy đủ các trang hoàng. Đến xứ Hắc Chiên Đàn, cô hóa hiện các tia sáng trắng thâm nhập, xuyên qua tất cả các vị rồng. Trong một khoảnh khắc tất cả mọi đau đớn, bệnh tật đều được xua tan hoàn toàn nhờ những gia hộ của cô. Nhờ đó, tất cả các vị rồng đều trở nên vô cùng biết ơn, và long vương cùng toàn bộ tập hội của ông đã đảnh lễ, bày tỏ lòng tôn kính tới vị phối ngẫu. Trong một trạng thái hoan hỷ không kể xiết, họ trịnh trọng tuyên bố:

 

"  E ma! Kỳ diệu thay, tự khởi nguyên, Đấng Dakini bất nhiễm! Chúng tôi là tộc Hắc Chiên Đàn, những kẻ phải chịu đựng đau đớn từ bão cát xối xả cùng bệnh truyền nhiễm. Đau khổ của chúng tôi có vẻ như sẽ còn tiếp diễn mãi mãi. Giờ đây ánh sáng từ thân ngài thấm nhập vào chúng tôi, tịnh hóa và thanh lọc lời nguyền tai họa của chúng tôi, chúng tôi cầu xin ngài, xin hãy luôn là bậc thủ hộ của chúng tôi mãi mãi."  Tất cả các vị rồng có bản tánh ngược lại với sự tiêu cực biểu lộ niềm vui của họ theo những cách khác nhau: một số nhìn vào đất, những vị khác nằm xoài trải dài lưng của họ, và một số quay lưng lại, trong khi những vị khác bỏ chạy.


Sau đó, Đức Dakini nói: "  Những vị vua, bộ trưởng cùng hội chúng, hãy làm như ta bảo! Kye ma! Tất cả các cấp naga ẩn tàng, hãy chú tâm! Ta là Dakini trí tuệ nguyên sơ Dharmindra. Cha ta là Đức Phật Vô Lượng Quang Amitabha, mẹ ta là thiên nữ trường thọ Pandaravasini. Xứ xở của chúng ta là Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc Sukhavati, và tên cung điện của chúng ta là Pemakopa. Tập hội của ta là một hội chúng vô số các vị Bồ Tát Thập Địa.

 

"  Ta đến đây để phụng sự như bậc thủ hộ của các vị. Mỗi người trong các vị phải hiểu rằng đau khổ không thể chịu đựng và không ngừng dứt mà các vị đã phải chịu đựng chỉ là kết quả đến từ những nguyên nhân trong quá khứ. Vô số Chư Phật đã hóa hiện chính các Ngài vào trong các cõi người. Đức Phật Tubpa Namgyal đã đi vào cõi trời, Đức Phật Padma Drodul đi vào cõi rồng, Đức Phật Dharmaraja đi vào cõi địa ngục, Đức Phật Nampar Nangwa đi vào cõi súc sinh, Đức Phật Padma Gyalwa đi vào cõi ngạ quỷ, và Đức Phật Padma Tsegpa đi vào cõi atula. Mỗi vị đều xoay chuyển Pháp luân theo cách không thể nghĩ bàn.

 

"  Xứ sở của các vị đã trở nên bị bao phủ trong bóng tối, và không một vị Phật nào, dù là chỉ một vị đã tới đây để thuần hóa tâm thức chúng sinh. Tất cả khoản nghiệp xấu này là do các vị đã đi ngược lại với đạo đức trong quá khứ. Như thế các vị đã bị tái sinh trong hồ naga Hắc Chiên Đàn. Như một kết quả của lời nói cay nghiệt cùng thái độ giận dữ trong quá khứ của các vị mà các vị đã phải chịu đựng trận mưa cát xối xả không thể chịu đựng nổi. Kết quả từ sự keo kiệt trong quá khứ của các vị trong việc dâng lên những cúng dường là sự đói khát hiện tại, điều tương tự với cảnh giới ngạ quỷ. Vì các vị gây tổn hại trên thân những người khác trong quá khứ, mà giờ đây các vị phải trải nghiệm bệnh tật khó chịu và khổ đau trong đời sống này. Không có đau khổ nào xảy ra mà lại độc lập, không liên quan tới nghiệp quả cả. Vì vậy, thay vì nhìn vào những người khác, các vị hãy quan sát nghiệp lực của chính mình và hiểu rõ kết quả đến từ những hành động trong quá khứ. Mặc dù ta siêu vượt khỏi đau khổ và cái chết, nhưng có rất nhiều nơi ta phải du hành tới và đi vào những hoạt động vì lợi ích người khác.

 

"  Bây giờ các vị đã gặp ta, tất cả các nghiệp tiêu cực của các vị - không chút ngoại lệ - được tiết lộ công khai và tịnh hóa. Mặc dù bản chất các vị là mang lại thói quen tiêu cực, nhưng điều này không thể gây ra một tác động có hại nào đến ta. Đó chỉ là những chất độc của tham, sân, si, mạn và đố, những điều gây ra tác hại kéo dài. Nếu các vị từ bỏ những chất độc, các vị sẽ biết đến hạnh phúc. Những ảo tưởng và xúc cảm tiêu cực này là nguyên nhân gốc rễ của vòng luân hồi sinh tử. Nếu các vị tự giải thoát chính mình ra khỏi chúng, các vị sẽ đạt được hạnh phúc vĩnh viễn."

 

Vì vậy cô đã ban những chỉ dẫn cần thiết cho tất cả các vị rồng, mỗi vị đều phát triển lòng nhiệt thành của mình với Chánh Pháp. Với sự ân hận sâu sắc trước ác nghiệp đã tích lũy của mình, bọn họ đã sám hối công khai mọi hành vi tiêu cực. Họ đã phát nguyện Bồ tát và tinh tấn trong thực hành. Tất cả các vị rồng đều đã tịnh hóa nghiệp tiêu cực tích lũy của họ không chút ngoại lệ và nhờ đó được đặt trên đường dẫn đến giác ngộ. Như một mạn đà la, tất cả bọn họ đều đi lên cõi trời Đâu Suất Tushita, đạt được năng lực của chư thần, và cũng được thiết lập trên con đường Phật Pháp. Đức Dharmindra sau đó hòa tan trở lại vào thiên nữ Pandaravasini. 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 8 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể về cách ngài đã gửi tới những phẩm chất giác ngộ cao quý cho cõi rồng Hắc Chiên Đàn và cách ngài dẫn dắt các vị rồng đi theo con đường giải thoát.    

9. Con Gái Atula Vương 

 

Chủng tự Hrih đi vào cõi atula, nơi atula vương Gocha Zangpo ngự trị. Ông có quyền lực và sức mạnh như các vị thần và đã tham gia vào các trận chiến liên tục với 18 cõi giới khác. Vì các atula phải chịu đựng liên tục sự đau khổ không thể nghĩ bàn từ sự thất bại với các vị thần,nên họ đã tập hợp lại nhằm thảo luận về một sách lược. Họ đã gửi thư mời kẻ ăn thịt người thế gian Duje Garab và vua rồng Dolwa đến và kết thân với họ. Sau đó, họ tập hợp quân đội ma quỷ, rồng  cùng các á thần atula lại với nhau và quyết định đi tới cõi trời để gặp nhà vua.

 

Vào thời điểm đó ở thành thị đông dân nhất của cõi atula được gọi là Gaumi, nhà vua cầm quyền là Rinchen Pung, một hóa thân của Dawa Ozer, con trai các vị thần. Ảnh hưởng của ông rất rộng lớn, vì ông là người đứng đầu 100 ngàn chúng đệ tử. Vị Dakini vĩ đại Samantabhadri đã xuất hiện và khiến các giác quan của nhà vua say đắm, và ngài đã trò chuyện với ông như một người bạn.

 

"  Kye ma! Nhà vua năng lực vĩ đại Rinchen Pung, trong đời quá khứ của mình, ngài là Dawa Ozer, cha chồng ta Dampa Togkar, bậc sau này đã trở thành một vị Phật. Bây giờ, để chế ngự các á thần atula, ngài đã hóa hiện thành vua của họ. Ta là người được biết đến như là Đấng Hàng Phục An Lạc Kangkari. Bây giờ ta đã đến đây trong hóa thân của mình được gọi Samantabhadri. Để làm giảm bớt đau khổ của Atula Vương Gocha Zangpo cùng những người đồng hành xung quanh ông ta, chúng ta sẽ báo cho họ ý định chúng ta sẽ giúp họ tiến hành chiến tranh trên các vị thần. Thời gian đã đến để thuần hóa tâm thức chúng sinh với sự trợ giúp của các vị rồng, ma quỷ và atula. Hãy đi ngay bây giờ và tập hợp tất cả các atula cùng tập hội của họ. Ta sẽ hóa hiện thành con gái của Gocha Zangpo, và chúng ta sẽ hàng phục tất cả lũ ma quỷ tăm tối, rồi xoay chuyển Pháp Luân thâm sâu" Nói vậy, rồi cô rút thần thức của con gái Vua Gocha là Shintama ra khỏi thân thể, và phóng thần thức của mình đi vào. Sau đó cô đã xuất hiện trước Vua Gocha Zangpo cùng tập hội của ông. Vua đã nghĩ rằng đó là con gái mình, và họ vẫn sống cùng nhau.

 

Đội quân atula sau đó xuất hiện trước đội quân của các vị thần. Cuộc chiến được tiến hành, và rồng, ma quỷ cùng đội quân atula đã đánh bại kẻ thù của họ. Trong một khoảnh khắc, tất cả đều được dẫn dắt đến con đường giải thoát. Sau trận chiến này, học thuyết ma quỷ của bóng tối biến mất. Để thiết lập luật lệ Pháp quý báu,

Gocha Zangpo, Duje Garab cùng tập hội của họ đã cùng tụ họp lại với nhau để đóng dấu ấn mối nối kết nghiệp của họ với nhau bằng cách thọ nhận những giáo lý mật chú. Tất cả sự ganh tị của họ đã được an dịu, và họ đã ở lại cùng nhau trong trạng thái nhập định. Đạt được giải thoát, tất cả các vị atula đều đắc thân cầu vồng, và toàn bộ cõi giới được làm trống rỗng.

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 9 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách ngài hóa hiện bản thân mình thành con gái atula vương 

Để dẫn dắt tất cả chúng sanh  đi vào con đường Pháp, 

Và cách tất cả bọn họ đều đạt được sự tỉnh thức trọn vẹn.     

10. Shri Sagara 

 

Khi tuổi thọ con người đạt đến ngưỡng 200 năm, Đức Phật Kashyapa viên mãn đã đi vào thế giới này. Khi Ngài đang xoay chuyển Pháp Luân, Nhà Vua Dekyong Kungawo và Hoàng Hậu Getsoma, con gái của các bậc hiền triết, đã dâng lên nhiều cúng dường tới Đức Phật khi Ngài đi khất thực. Cho đến thời điểm đó, nhà vua và hoàng hậu đã không thể sinh con. Và như vậy, trong sự hiện diện của bậc dẫn đạo giác ngộ vĩ đại Kashyapa, Vua Dekyong Kungawo đã cúi đầu đảnh lễ và dâng lên một chiếc bình pha lê được lấp đầy với các loại ngũ cốc khác nhau. Với 2 lòng bàn tay chắp lại, ông đã thành kính dâng lên lời thỉnh cầu này:

 

"  E ma ho! O hỡi mặt trời soi tỏ giáo lý trong thế giới này, Đức Phật viên mãn, bậc thủ hộ quý báu của tất cả chúng sinh! Con, nhà vua, đang là người có công đức lớn lao, với sự giàu mạnh cùng đoàn tùy tùng vượt ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên, con đã không có một người con trai nào, và như Ngài – Đấng chiến thắng toàn giác biết, vương quốc này đã được hưởng những lợi ích từ chế độ quân chủ của tổ tiên thuần khiết chúng con trong suốt thời cai trị 200 đời vua. Xin hãy nhìn lên tình huống vô sinh cuả con với lòng bi mẫn xót thương, vì con không chỉ quan tâm tới lợi ích chính trị. Mục đích của con là di sản hoàng tộc không bị ô danh trong sự vinh quang. Không có ánh sáng từ chế độ quân chủ hoàng gia chúng con, thì điều gì sẽ xảy đến đây? Ai sẽ kế thừa hoàng tộc giàu mạnh, đoàn tùy tùng và các thần dân? Vì đã xuất hiện nghi ngờ rằng nếu chúng con không có một người thừa kế xứng đáng, hoàng hậu sẽ bị đổ lỗi cho bất hạnh này? Xin hãy ban cho chúng con một dấu hiệu rõ ràng về nghiệp và vận mệnh của mình."

 

Theo lời thỉnh cầu này, Đức Phật đã trả lời: "O Này Vua Dekyong Kungawo vĩ đại! Đừng thất vọng! Dòng dõi hoàng tộc của ngài sẽ sớm có người nối dõi! Vô số hệ thống thế giới nằm ngoài nơi này có một tịnh độ được gọi là Cực Lạc, nơi Đức Phật Vô Lượng Quang Amitabha cư ngụ cùng với vị phối vô thượng của mình, nữ thần Pandaravasini. Các Ngài không ngừng lưu xuất ra những hóa hiện đi vào thế giới này của chúng ta. Vì lợi ích của chúng sinh trong thế giới này, một người con gái như con gái các bậc thánh nhân sẽ đến với các vị. Cô sẽ hạ sinh một trưởng tử vô song, người sẽ trở thành một bậc chuyển luân thánh vương, và trong tương lai anh ta sẽ là Đức Vua Tịnh Phạn Shuddhodana, cha của Đức Phật tương lai Shakyamuni (Thích Ca Mâu Ni). Hãy tự tin lên! O hỡi đức vua, vì nghiệp của ngài không có nghĩa là cạn kiệt. Con gái ngài sẽ trở thành đệ tử đi theo Ta. Cô sẽ phát Bồ tát nguyện và sẽ có nhiều đệ tử của riêng mình." Sau khi nghe những lời tiên tri này, nhà vua đã chạm đầu mình vào đôi chân linh thánh của Đức Phật và trở về kể lại tất cả cho hoàng hậu.

        

Sau một thời gian Đức Vua Dekyong có một giấc mộng. Một quả cầu ánh sáng màu đỏ xuất hiện, được đánh dấu bởi một chữ HRIH đỏ. Quả cầu này rơi từ trên vương miện của ông và tan vào ngực ông. Ánh sáng tỏa ra và biến mất vào hoàng hậu, rồi sau đó từ trái tim hoàng hậu một ánh sáng màu đỏ phát tỏa ra. Ánh sáng phát ra từ chữ HRIH đỏ trong trái tim hoàng hậu, từ ánh sáng đó có nhiều vị thần xuất hiện, tất cả bọn họ đều cầm những chiếc bình cam lồ trường thọ. Họ tiến đến ban quán đảnh lên cả nhà vua và hoàng hậu.

 

Khi nhà vua thức giấc vào buổi sáng, thân tâm ông đều được lấp đầy với cảm giác dễ chịu tuyệt vời. Khi ông nói với hoàng hậu về giấc mộng cát tường của mình thì bà cũng trả lời rằng mình cũng nhận được một giấc mộng đặc biệt. Trong giấc mơ của mình, bà đi vào một cung điện màu đỏ và thấy chính mình đang phủ phục trước bậc Đạo Sư tâm linh ngự ở đó. Phía bên trái vị Thầy là một nữ thần màu đỏ nhạt, tim cô đã được đánh dấu bằng một chữ HRIH đỏ. Chữ HRIH hòa tan vào trái tim hoàng hậu, và bà tỉnh dậy cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Do đó, cả nhà vua và hoàng hậu đều cảm thấy chắc chắn rằng những gì Đức Phật tiên tri sẽ xảy ra. Họ tự tin về vận may sắp xảy ra của mình, và sau một thời gian hoàng hậu cảm thấy rằng bà đang ở cùng với một đứa trẻ. Bà cẩn thận làm sạch cơ thể của mình và sau đó bà nghe thấy một giọng nói từ thai tạng của mình, "Ta tự do khỏi đau khổ của thế giới này, và ta đến từ xứ sở của những bậc giác ngộ."  Giọng nói đã nói lên những lời đáng kinh ngạc dưới dạng thơ.

 

Sau mười tháng, một đứa trẻ được sinh ra trong gian trên của cung điện. Người mẹ trải qua kinh nghiệm không chút đau đớn nào khi sinh. Những cầu vồng xuất hiện trong không gian, và các nhạc cụ vang lên khắp không gian. Những bông hoa trước đó chưa bao giờ nở rộ thì bỗng trổ bông, và mùi hương trầm ngọt ngào tràn ngập khắp không gian. Những tin đồn thổi tràn lan rằng một bé trai đã được sinh ra trong vương quốc. Tuy nhiên, vào thời điểm hạ sinh, một bé gái đã ngồi dậy và tuyên bố rằng cô là Shri Sagara, người mà trước đó đã ngồi trên chân Đức Phật để thọ nhận Giáo Pháp và giờ đây lại có mặt để làm lợi lạc cho chúng sinh. Sau khi nói vậy, cô bé duyên dáng nhảy múa trong không gian. Tin tức về sự ra đời của cô lan truyền khắp thế gian, và các vị thần đã xuất hiện để tắm rửa cho thánh thân của cô. Gần cung điện bỗng xuất hiện một hồ nước lớn một cách kinh ngạc mà trước đó không hề có chiếc hồ nào. Ở trung tâm hồ nước, cái tên Shri Sagara được viết lên.

 

Khi Shri Sagara được 11 tuổi, những vị vua từ nhiều nước đã đến cầu hôn cô. Nhưng cô đã không nhận lời bất kỳ ai. Thay vào đó cô đã đến trước mặt nhà vua để thọ Bồ tát giới. Trì giữ giới luật nghiêm ngặt, cô đã thiền định về con đường của những bậc trì giữ giác tánh thuần tịnh. Hoàn thiện mục đích riêng của mình, cô thực hiện vô số những hành năng kỳ diệu vì lợi ích người khác, mang hàng ngàn phụ nữ ở đất nước mình đến với con đường Phật Pháp. Khi cô hiển lộ con đường Tứ Diệu Đế, tất cả những ai lắng nghe đều an trú trong bản tánh thực tại. Tất cả mọi người, những ai có mối liên hệ với cô đều được phát sinh tâm tỉnh thức tối thượng và đạt được giác ngộ viên mãn trọn hảo. Cô ban phước cho nhà vua, hoàng hậu, các bộ trưởng, đoàn tùy tùng của họ và toàn thể vương quốc bằng cách dạy họ các ba la mật (paramitas). Từng cư dân một đều được đưa đến con đường của các bậc thánh trí và đạt được giải thoát! 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 10 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể về cách ngài hóa thân vào gia tộc hoàng gia như là Shri Sagara  và mang vô số chúng sinh đi tới sự trưởng thành, giải thoát.    

11. Hai Mươi Lăm Hiện Thân 

 

Trong suốt thời gian Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp trong lục địa phía nam Jambuvidpa (Nam Diêm Phù Đề)[21], Đức Pandaravasini đã lưu xuất ra các hiện thân sau:

 

Trong sự hiện diện của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cô là Singmo Gangadevi. Ở xứ Bhaiti, cô là Zabmo Tashige. Cô là Prabhadhara, con gái của Shonupel, và con gái của Shakyadevi, Kalpazang. Cô là công chúa xứ Oddiyana, Palma Okyigyen, và công chúa Shakya, phối ngẫu Getso Lhamo. Cô là công chúa xứ Kashmir, phối ngẫu Kunga Zangmo, và Tsangchinma, con gái nhà hiền triết vô thượng; là vợ của nhà vua, cô đã được biết đến là Shrimati. Trong vùng đất xứ Lanka, cô là Nyime Paldenma; trong xứ Togar, cô là Vitanahuta. Tại xứ sở Rugma, cô là Menmo Rinchenzang; trong xứ sở ăn thịt người, cô là Dema Chogilha. Ở Trung Hoa, cô là Gangzang Umanti, và trong các xứ sở phía Tây Oddiyana, cô được sinh ra trong gia đình hoàng gia là Gemapel. Cô cũng được biết đến là Rigsum Kyegu Dagmo; trong xứ Koshi, cô là Wangchen Pemakyi. Trong xứ Dechetseg, cô được biết đến là Roti Kirima; và trong xứ Shambhala, cô là Dronma Yeshema. Tại xứ sở Koli, cô là Karma Bhadriha; trong đất nước Hashi, cô là Rigje Tsangnema. Là con gái vua Ba Tư, cô là Shrishti, và ở nước Rugma, cô là Karkatamoha. Ở Malaya, cô là Kalpa Zangmo và Vị Nữ Yogi Hạnh Vô Úy vĩ đại. Ở Bhigche, cô là Choma Wangmoche.

 

Tựu chung lại, cô đã gửi ra khoảng 25 hiện thân, mỗi hiện thân sở hữu năng lực làm lợi lạc cho chúng sinh nhiều như đại dương bao la. Nhờ lớp vỏ trong vai những hoạt động hoàng gia, cô đã huân tập những người đi theo mình trên con đường Mật chú. Gần như từng chúng sinh nào được nối kết với cô đều hiện thực hóa được trạng thái một bậc trì giữ giác tánh thuần tịnh (trì minh vương). Một bản thuật lại rộng rãi những câu chuyện tiểu sử của cô đã được trao cho Nanam như một kho tàng terma đất được gọi là Một Tràng Hoa Đẹp, gồm 100 chương. Kho tàng này được cất giấu ở Tsangrong Dorje Drag. Ở đây Ta đã tiết lộ tinh túy của bản văn gốc. 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 11  về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Hiển lộ tên tuổi và nơi chốn về 25 hiện thân của ngài.     

12. Những Ân Phước Từ Chư Dakini

 

Cách Đức Dakini vĩ đại Mandarava đản sinh trong xứ Zahor. 

 

Trong tịnh độ Cực Lạc Tây Phương, từ trái tim Đức Phật Amitabha, trong cõi Liên Hoa Quang, được bao quanh bởi tập hội các chư tôn vượt khỏi mọi tính đếm, Đức Thánh Trí Quán Tự Tại Arya Avalokiteshvara đã phát tỏa ra vô lượng các tia sáng. Từ trái tim Đức Thánh Trí, vô số hóa hiện của chủng tử HRIH được gửi ra để lấp đầy các cõi tịnh độ vô biên trong thế giới này. Trong 100 triệu cõi giới của Potala Phổ Đà, 100 triệu hóa thân của Đức Quán Tự Tại Quán Âm đã được lưu xuất ra. Trong một trăm triệu xứ sở của Ấn Độ, 100 triệu hóa thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã được hóa hiện. Trong 100 triệu tịnh độ báo thân được biểu hiện, 100 triệu hóa thân của đấng thủ hộ Xứ Tuyết, Đức Quán Tự Tại Avalokiteshvara đã xuất hiện. Trong 100 triệu tịnh độ hóa thân, 100 triệu hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh - Guru Padmasambhava đã được hóa hiện. Trong 100 triệu tịnh độ của Yonten Kopa, 100 triệu hóa thân của Đức Văn Thù Sư Lợi Manjushri đã được lưu xuất ra. Trong 100 triệu tịnh độ của Pemako, 100 triệu hóa thân của Đức Padmoshnisha đã được hóa hiện. Trong 100 triệu cõi linh thánh của các vị thần, 100 triệu bậc chuyển luân thánh vương đã được hiển lộ. Trong 100 triệu xứ sở của Tây Tạng, 100 triệu hóa thân của Đức Songtsen Gampo đã được biểu hiện. Trong 100 triệu vùng đất của Kalinga, 100 triệu nhà hiền triết vĩ đại đã được biểu hiện. Bằng cách này, có sự phát sinh vô hạn các hiện thân từ các cõi giới thuần tịnh, mỗi một trong số đó lại có các kinh điển và mật điển riêng, những bậc thầy vô song riêng của mình để truyền bá giáo lý v.v... Ngoài ra, các vị thầy này đã có những số lượng không thể tưởng tượng nổi các đệ tử cùng những người đi theo họ, tất cả đều tích cực xoay chuyển Pháp Luân.

 

Đặc biệt, trong hệ thống thế giới phía nam, bậc thầy của giáo lý kinh điển, Đức Thích Ca Mâu Ni, bậc mà trong suốt đại kiếp được gọi là Dronme, khi thọ mạng con người là 100 năm, Ngài đã giảng dạy cho một tập hội các vị trời, rồng, loài người, các tinh linh, địa thần, ma quỷ hút máu v.v... Ngài đã dạy cho các vị Thanh Văn, Bồ Tát cùng vô số những bậc trì giữ giác tánh thuần tịnh, xoay chuyển Pháp Luân vĩ đại trong 5 giai đoạn. Từ đây, có tới 9 thừa riêng biệt. Với những người căn cơ nhỏ, Ngài đã dạy Tripitika – Tam Tạng Kinh[22], hiển lộ bản tánh thực tại trong sự phân biệt bên ngoài và bên trong. Đối với những người căn cơ vừa phải, Ngài hiển lộ lối vào 3 tantra (mật điển) ngoại của Kriya, Charya và Yoga. Đối với những người căn cơ vượt trội, xuất sắc, Ngài giới thiệu các pháp môn nội mật của thừa mật giáo cao tột nhất trong tantra gốc cùng các cấp độ thành tựu. Hiển lộ giáo lý trong 302 ngàn cách thức, Ngài đã minh chứng phương tiện mà nhờ đó niết bàn được hiện thực hóa.

 

Vào thời điểm đó, bậc thanh văn Kashyapa uy mãnh hướng vào giác tánh của ngài và tuyên bố: "Trong tương lai, Ta, Padmasambhava, sẽ được sinh ra trong hồ Dhanakosha. Từ trái tim của đấng chinh phục Amitabha, các tia sáng sẽ tỏa rọi, thâm nhập vào trái tim Đức Quán Âm Avalokiteshvara . Sau đó, từ tim Đức Quán Âm Avalokiteshvara, các tia sáng sẽ tỏa rọi vào các cõi tịnh độ của tất cả chư Phật cùng những bậc thừa kế của các Ngài. Tất cả mọi ân phước về thân, khẩu, tâm, phẩm tánh cao quý cùng các hành năng giác ngộ của các Ngài sẽ hội tụ lại để thu rút ngược lại vào tim Đức Thánh Trí Arya Avalokiteshvara. Sau đó, Ta, Padmasambhava – Liên Hoa Sinh, sẽ tự hiển lộ thành một chủng tự HRIH để bao phủ hoàn toàn 100 triệu cõi tịnh độ của những đấng giác ngộ. Tan hòa vào tâm điểm một bông hoa ưu đàm nở rộ vĩ đại trong hồ Dhanakosha, Ta sẽ nổi lên như Bậc Đạo Sư tên là Liên Hoa Sinh Padmasambhava vào ngày mùng 10 tháng Thân. Hoạt động như bậc trưởng tử của Đức Vua Indrabhuti, Ta sẽ kết hôn với hóa thân Prabhadhara. Sau đó, theo những lời tiên tri của Đức Kim Cương Tát Đỏa Vajrasattva, Ta sẽ từ bỏ cuộc sống thế tục để dấn thân vào các đạo hạnh không nhầm lẫn. Dựa vào mạn đà la mật chú của các Dakini và để hiện thực hóa hoạt động làm lợi lạc cho chúng sinh, tâm Ta cùng những dòng tâm thức giác ngộ của tất cả chư Phật sẽ hợp nhất thành Một."

 

Nhờ dấu hiệu tượng trưng, tất cả các vị hóa Phật[23] sau đó đã được triệu thỉnh, vào thời điểm dòng tâm thức giác ngộ của nữ thần trường thọ Pandaravasini được truyền cảm hứng để hóa thân vì lợi ích chúng sinh. Từ 5 điểm trên thân cô, vô số các tia sáng đã phát tỏa ra và ôm trọn lấy tất cả các cõi tịnh độ. Ánh sáng trắng tỏa ra từ trán cô đi vào tịnh độ Hiển Lộ Hoan Hỷ phương đông. Ở đó, ánh sáng đã liên hệ với trung tâm trái tim Đức Phật Nhãn Buddhalochana, bậc phối ngẫu của đấng chinh phục vĩ đại Bất Động Akshobya. Triệu thỉnh giác tánh giác ngộ của ngài, những ân phước cát tường xuất hiện như là chủng tự LAM. Vô số chủng tự sau đó sinh khởi và thu rút ngược lại vào trán Đức Pandaravasini. Tương tự như vậy, vô số những tia sáng màu đỏ phát ra từ cổ họng nữ thần Pandaravasini đi vào tịnh độ Sắp Xếp Đa Tầng, nơi chúng hòa tan vào vị phối ngẫu của Đức Phật nguyên thủy Phổ Hiền Samantabhadra, triệu thỉnh tâm giác ngộ của ngài, và những ân phước phát khởi như chủng tự MUM. Vô số chủng tự MUM phát tỏa ra rồi hòa tan trở lại vào cổ họng Đức Pandaravasini. Sau đó các tia sáng xanh dương phát tỏa ra từ trái tim Đức Pandaravasini, chúng tỏa vào cõi tịnh độ trung tâm của Đức Phật Đại Nhật Tỳ Lô Giá Na Vairochana. Chúng hòa tan vào trái tim bậc phối ngẫu vô thượng Dhateshvari; triệu thỉnh giác tánh giác ngộ của ngài, từ đó phát sinh thành những ân phước trong hình thức vô số các chủng tự MAM, rồi hòa tan trở lại vào trái tim Đức Pandaravasini. Những tia sáng màu vàng từ điểm trung tâm rốn của Đức

Pandaravasini phát tỏa đi vào cõi tịnh độ Cảnh Giới Vinh Quang ở phương Nam.


Chúng hòa tan vào trái tim Đức Mamaki, bậc phối ngẫu vô thượng của Đức Phật Bảo Sinh Ratnasambhava, triệu thỉnh tâm giác ngộ của ngài và hóa hiện thành chủng tự BAM. Vô số những hóa hiện của chủng tự này sau đó phát tỏa trở lại và hòa tan vào rốn Đức Pandaravasini. Những tia sáng màu xanh lục từ điểm bí mật của nữ thần sau đó tiến đến tịnh độ phương Bắc được gọi là Cõi Hoạt Động Hoàn Hảo, chúng hòa tan vào trái tim Đức Samayatara, bậc phối ngẫu vô thượng của Đức Phật Bất Không Thành Tựu Amoghasiddhi, triệu thỉnh giác tánh giác ngộ của ngài và xuất hiện thành chủng tự TAM. Những chủng tử tự không giới hạn sau đó lại thu rút ngược lại vào điểm bí mật của Đức Pandaravasini. Từ khe hở trên vương miện cô, những tia sáng màu đỏ phóng vào mạn đà la của Đức Bổn Tôn Mã Đầu Minh Vương Hayagriva được biết đến như là Wangdrag Rolpa. Chúng hòa tan vào trái tim vị phối ngẫu vô thượng Vajravarahi của Đức Hayagriva, những ân phước của các ngài được triệu thỉnh thành chủng tự HRIH. Vô số chủng tự sau đó hòa tan vào vương miện Đức Pandaravasini.

 

Các tia sáng ngũ sắc sau đó hiện lên từ thân Đức Pandaravasini đi tới tất cả các Phật Quốc trong mười phương. Tất cả những bậc phối ngẫu của những đấng giác ngộ được triệu thỉnh, và tinh túy tâm yếu của những ân phước từ thân, khẩu, tâm, phẩm tánh cao quý cùng những hành năng giác ngộ của các ngài tan hòa trở lại, đi vào thân Đức Pandaravasini như vô hạn các tia sáng rạng rỡ, chói lòa. Sau đó, từ hai lòng bàn tay cô, những tia sáng xanh lục tỏa đi vào cõi tịnh độ ở thấp hơn được gọi là Chốn Vinh Quang, triệu thỉnh giác tánh giác ngộ của Đức Sarasvati, vị phối ngẫu vô thượng của Đức Văn Thù Manjushri. Ân phước ở đây xuất hiện như một chữ AH màu trắng, rồi tan hòa trở lại vào Đức Pandaravasini. Từ điểm hợp nhất giữa Đức Phật Vô Lượng Thọ Amityus và vị phối ngẫu của Ngài, cam lồ mật hoa và các chủng tự MUM, LAM, MAM, BAM, TAMAH sau đó hiện lên. Mỗi chủng tự lại tuần tự hòa tan vào một chủng tự khác, và cuối cùng hòa tan vào một chữ HRIH trắng. Chủng tự đó làm phát sinh 100 triệu hóa hiện của chữ HRIH. Cứ như thể một trận mưa vĩ đại của các chủng tự đang đồng thời trút xuống thế gian. Đặc biệt, một giọt tinh yếu, một hỗn hợp đỏ và trắng được đánh dấu với chữ HRIH, đi xuống xứ Zahor trông tựa một ngôi sao băng. Nó rơi trên vương miện đức vua Viharadhara, và ông đã được ban phước bởi tất cả các Đấng Thiện Thệ cùng các bậc thừa kế của các Ngài. 

Samaya 

Điều này hoàn thành chương 12 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava, Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách những ân phước được thọ nhận từ các vị Dakini của tất cả chư Phật,

Cách nhà vua, cha ngài được ban phước, và cách ngài hóa hiện vì lợi ích chúng sinh.

      

13. Thấy Xứ Sở Ngài Giáng Hạ 

 

Thuật lại cách Đức Dakini đi vào thai tạng và hiển lộ 5 cái thấy toàn giác. 

 

Trong số 94 lục địa trên hệ thống thế giới này, lục địa trung tâm là vùng đất thiêng liêng của một ngàn vị Phật trong đại kiếp này, đó là Bồ Đề Đạo Tràng Bodhgaya, tọa lạc ở xứ Ấn. Về phía đông Bodhgaya là xứ sở Zahor rộng 1000 dặm. Xứ này rộng lớn, cuốn hút, thú vị và đầy màu sắc như những khuôn thêu đẹp trên gấm lụa tựa các cõi thiên. 40 dặm về phía đông là Kamaru[24][25],  một lưu vực đồng bằng trông giống hình một chiếc bánh xe. Ở trung tâm đồng bằng này là một chiếc hồ sâu hình tròn được gọi là Hasha Dhari, nước trong hồ có đủ 8 phẩm chất tinh khiết29 và có màu trắng sữa phát sáng rực rỡ. Hồ nước tròn sâu này chứa đựng những viên ngọc như ý. Bao quanh hồ khoảng một dặm là những vườn hoa và hồ nước đáng yêu, đẹp đẽ ngoài sức tưởng tượng. Nhiều loại chim và ngỗng réo vang líu lo những bài ca du dương. Trong tất cả mọi phương hướng có các hang động với những phiến đá xanh dương sáng. Cư dân nơi này cũng cực hấp dẫn. Khoảng 40 dặm về phía đông nam là xứ sở Manika vĩ đại. Những đỉnh núi của nó cao vô cùng và rừng rậm phong phú, trong khi mặt đất được bao phủ bởi những bông hoa. Ở giữa xứ sở này là Cung Điện Đại Liên Hoa. Tất cả những người dân cư ngự ở đó đều quả cảm, trẻ trung và khỏe mạnh.

 

Khoảng 40 dặm về phía nam, nằm trên nền mộ địa đáng sợ được gọi là Vở Kịch Vĩ Đại, có một bảo tháp được gọi là Kotala, được xây dựng bởi 100 ngàn vị Dakini; do đó nó còn được gọi là Kotala 100 Ngàn. Vào ban ngày, nó được che phủ trong bóng tối; vào buổi tối, nó cháy sáng như được chìm trong lửa. Động vật hoang dã như hổ, báo và chó sói rong ruổi lang thang với nhau với bầy quỷ zombie và các tinh linh nghĩa địa. Cây cối ở đó được gọi là Darusa, với những chiếc lá màu xanh lục lớn đủ để bao kín một người. Những loại quả có kích thước một vòng tay người và có vị đắng. Nguồn nước thay đổi bất thường và gió rất lạnh. Những con kền kền kéo tới đậu trên xác chết người, và một người đàn ông linh thánh tên là Meniha sống ở đó. Nền mộ địa này giống hệt Silwatsel lừng lẫy - nơi cư trú của những bậc hộ pháp như Mahakala, Ging, và Tsen Đỏ.[26]

 

Khoảng 40 dặm về phía tây nam là xứ sở lừng danh Cung Điện Vinh Quang Đỏ. Những ngọn núi và đồng bằng của nơi này đều có màu đỏ. Một con sông được gọi là Sitana chạy xuyên qua giữa xứ sở này. Các thung lũng được phú bẩm đầy đủ với những cánh rừng giàu tài nguyên. Toàn bộ vùng đất được phú bẩm hạnh phúc và an lạc. Khoảng 40 dặm về phía tây là xứ sở Dahina vĩ đại. Thành thị chính được gọi là Vườn Cam Lồ, nơi đây có một sự phát triển phong phú về thương mại, giàu có và thịnh vượng vật chất. Tất cả cư dân sống hạnh phúc, hài hòa. Khoảng 40 dặm về phía tây bắc là lục địa được gọi là Chatama, được bao quanh bởi nhiều khối đất khác. Ở giữa khu vực này có vị thuyền trưởng Lhawang Khorpa vĩ đại. Ông đã vượt biển thu thập những viên ngọc như ý cùng 500 thương gia thủy thủ. Khoảng 40 dặm về phía bắc là xứ sở Taluma vĩ đại. Tất cả cư dân nơi đây đều mang những đồ trang sức đẹp đẽ và rất giàu có, họ được thừa hưởng sự dồi dào, phong phú. Không có tham lam hay xung đột, mọi người đều đáng kính và hài hòa. Về phía đông bắc là khu vực được gọi là Vườn Bảo Báu, nơi mùa màng không cần thu hoạch mà lúc nào cũng đầy rẫy, và các loại hạt phát triển nhiều vô số. Những cánh rừng giàu đẹp và gấm lụa dồi dào. 

 

Trong tất cả các cõi giới trên có 20 vương quốc riêng biệt. Luật lệ rất hợp lý và được thực hiện nghiêm túc, vì vậy không có người bán thịt, kỹ nữ hoặc những người thực hiện các hành vi ô uế khác. Mọi thứ đều rất sạch sẽ và tinh khiết. 18 xứ sở bao quanh bên ngoài 8 lục địa chính là Kalinga, Nimsani Tsel, Rimahala, Beche, Nahuti, Dewata, Tang, Kumud Shepetsel, Kota Chungwa, Yampa Dihuta, Dombhi, Ngampa, Pemachen, Tanadug, Chandala, Shenpa, Drong, Kuluta và những xứ khác. Mỗi xứ sở lại có một nền cai trị danh dự.

 

Ở giữa những xứ sở chính và phụ này là khu vực lớn của Bengal. Nằm trong khu vực này là mảnh đất Zahor vĩ đại. Cung điện ở đó được bao quanh bởi 7 bức tường với một mái lợp chín tầng. Đẹp vượt trội, nó tựa như cung điện của các vị thần. Gần cung điện chín tầng là 4 ao nước, nơi có rất nhiều loại chim muông, hoa cỏ. Có các loại vẹt và thiên nga nói được ngôn ngữ loài người. Tất cả các loại chim khác nhau từ các cõi giới của chư thần ca hát bằng các loại ngôn ngữ riêng. Ở các địa điểm xung quanh, có 100 ngoại bộ trưởng và 50 nội bộ trưởng cùng 510 bậc lãnh đạo các quận. Nơi này cho tới thời điểm này là cao cả nhất trong tất cả các vùng đất ở Ấn Độ, và do đó được coi là nơi tốt nhất để tái sinh cho mục đích dẫn dắt chúng sinh.

 

Giờ đây toàn bộ vùng đất đã được ban phước, và những loài hoa trước đây chưa từng bao giờ xuất hiện thì giờ đây bắt đầu nở. Nhiều loại chim bắt đầu nói những lời Pháp, và trên mái cung điện, những tia sáng cầu vồng tụ hội. Nhà vua, hoàng hậu, các bộ trưởng của vùng đất, những thần dân và tùy tùng của họ, tất cả đều đã bắt đầu có những giấc mộng lành cùng những chỉ dẫn để vận may đến. 

Samaya 

Điều này hoàn thành chương 13 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách ngài đã thấy xứ sở mình hạ sinh và  ban phước cho toàn bộ vương quốc          

14. Chọn Cha và Mẹ 

 

Đã tới lúc để Đức Dakini lựa chọn nơi hạ sinh, đẳng cấp và người mẹ của mình. Trong số 25 vương quốc trong vùng đất Ấn Độ, thì Bodhgaya, Oddiyana và Zahor là cao cả nhất về kích thước, hình dạng cùng vẻ đẹp. Chúng được trời phú cho sự giàu có và nguồn tài nguyên phong phú nhất. Chính sách và hệ thống nhà nước của họ tuyệt hảo, sự giàu có và nguồn lực của người dân vô song. Ngoài ra, vẻ đẹp, uy tín và khả năng con người của họ cao cả. Những cư dân xứ Zahor được phú bẩm với 7 sự giàu có của những bậc giác ngộ [27]

 

Trong suốt một khoảng thời gian trước đó, bậc hiền triết linh thánh tên là Thubdzin đã tham học dưới chân Đức Phật Kashyapa. Phù hợp với những lời tiên tri của Đức Phật, ngài đã phát bồ đề tâm và thọ nhận những lời nguyện cơ bản, đơn nhất của giới luật cư sĩ để trở thành một Phật tử. Sau khi hứa nguyện sẽ trì giữ lời nguyện này, ngài đã trải qua gian khổ trong việc trì giữ giới luật. Ở trung tâm xứ Zahor, ngài đã an tọa trên núi Tangkar. Sau khi trở thành một bậc thầy thiền định hợp nhất bất nhiễm, ngài đã trở về với vị thầy của mình để nhận lãnh những chỉ dẫn thêm. Sau đó, khi tâm ngài đã chín mùi nhờ sự quán đảnh, Đức Phật đã tuyên bố lời tiên tri sau đây để ngài nhận ra con đường mật chú:

 

"  Kye! Này con, hiền nhân Thubdzin, kẻ thành tựu con đường chân thực, con phải sớm đến một nơi được gọi là Kapila, Ấn Độ. Trong đại kiếp trước, nó được gọi là Bhaskara Sahasrakara, xứ sở này được biết đến như là Kotamati. Trong cung điện được gọi là Samapatra, nhà vua là Tsugpudzin và hoàng hậu là Rinchen Nangche Dronmed O. Con trai của họ tên là Bhaskarashri. Sau một triều đại không gián đoạn của các vị vua trong 1000 kiếp tái sinh thuộc dòng dõi hoàng tộc, nhà vua đã tái sinh thành vị vua của các vị Brahmin (Bà la môn) trong cõi trời. Sau kiếp đó, ông đã được tái sinh ở đây và lúc này được gọi là hiền nhân Thubdzin Wangpo. Trước đây, ông là con gái một thuyền trưởng có người mẹ là Hoàng Hậu Anananta. Giờ đây, ở thành phố Kapilavastu ở phía đông, tên cha ông là Ratnapala và mẹ ông là Zangkye. Cả hai đều là bậc thánh hiền của gia tộc Shakya, và người con gái xinh đẹp của họ là Padma Shri Sagara. Sau khi cô trưởng thành nhờ quán đảnh bí mật, Padma Shri Sagara sẽ tiếp nối dòng dõi hoàng tộc của mình bằng cách mang đứa con trai của con là Dawe Kyeu Drime. Thời gian qua đi, nhiều vị Bồ Tát sẽ được đản sinh."

 

Khi nghe lời tiên tri này, người đàn ông linh thánh Thubdzin đã đi đến Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu). Ở đó, ông gặp một thiếu nữ cực kỳ đáng yêu được trang hoàng với những viên ngọc quý và những bông hoa. Cô đang ở trong một khu vườn với một đoàn tùy tùng gồm 5 người và, khi quan sát nhà hiền triết, xưng hô với ông thật quan tâm và đầy trìu mến: "  Kye! Một người hấp dẫn có dáng đi nhẹ nhàng như một chú thiên nga, bậc sở hữu sự hiện diện lớn lao cho hoàng gia, và ngài, nhờ năng lực thiền định của mình đã làm an định tâm thức cho chúng sinh! Phong thái và cung cách của ngài là phong thái của một bậc linh thánh, thật thu hút với đôi mắt! Bậc đẹp đẽ rạng ngời, xin hãy nói cho tôi biết cha mẹ ngài là ai và đẳng cấp nào ngài thuộc về. Cung cách tận tâm của ngài cho biết ngài là một đệ tử của Đức Phật! Xin hãy cho tôi biết: vì mục đích gì mà ngài đến đây"  ?

 

Người đàn ông linh thánh trả lời: "  Kye! Tôi là một đệ tử cư sĩ của Đức Phật. Tên tôi là Thubdzin. Cha tôi thuộc dòng dõi hoàng tộc của dòng truyền vĩ đại những bậc thánh. Mẹ tôi là hiền nhân Padma Yiongkyi, và xứ sở của tôi thuộc Zahor Sitana. Tên cha mẹ cô là gì, và đẳng cấp của cô là gì?"  Cô trả lời: "  Kye! Xứ sở của tôi là vùng đất Ấn Độ, và thành thị của tôi là Kapilavastu. Tổ tiên chúng tôi thuộc gia tộc Shakya. Tên cha tôi là Ratnapala, và tên mẹ tôi là Zangkye. Tên tôi là Padma Shri Sagara, và những người bạn đi cùng là đoàn tùy tùng của tôi. Ngài nên đi với tôi về nhà chúng tôi ngay bây giờ để thọ thực."

 

Nhà hiền triết đi cùng cô tới nhà bọn họ, nơi ông đã thể hiện sự tôn trọng và lòng hiếu khách tuyệt vời. Sau đó, ông nói với cha mẹ cô rằng ông là một đệ tử cư sĩ của Đức Phật, tên là Thubdzin. Ông giải thích rằng Đức Phật đã tuyên bố một lời tiên tri về con gái của họ Padma Shri Sagara, đó là lý do tại sao ông đã đến với họ. Khi nghe điều này, họ đã dâng lên ông người con gái của mình, sau đó họ đã được ông ban quán đảnh. Cô trở lại với ông về xứ Zahor, nơi con trai họ, Dawe Kyeu Drime được sinh ra. Vị hoàng tử này siêu phàm và vô song trong năng lực. Anh đã nắm giữ ngai vàng và cai trị toàn bộ vương quốc Zahor. Anh được kế thừa bởi 1002 vị vua cai trị vùng đất. Là con trai của Viharadhara, vị vua cuối cùng trong dòng dõi hoàng tộc này, anh trở thành một người cai trị quyền lực. Dưới quyền lực vĩ đại của mình, vương triều của anh ngày càng tăng trưởng sức mạnh. Sau đó, anh đã kết hôn với người con gái đáng yêu của vua Gache từ Rajagriha, là công chúa Anandakara. Họ kết hôn và có 2 người con trai, Pawode và Norkyonglha, cả hai đều đã từng là cha của nhà vua trong các đời quá khứ.

 

Viharadhara bấy giờ là Vua Shuddhodana Tịnh Phạn và hoàng hậu Anandakara là nữ thần chính của 24 chủng tộc Dakini, Nữ Hoàng Ratna Dipamkara. Giờ đây mối nghiệp nhân duyên tương thuộc lẫn nhau của sự hợp nhất giữa phương tiện và trí tuệ được biểu lộ trong dòng truyền và đẳng cấp bên ngoại và bên nội đã được lựa chọn cẩn thận nhằm đáp ứng nhu cầu thuần hóa chúng sinh. Những ân phước gia trì đáng kinh ngạc đã được ban cho tất cả. 

Samaya 

Điều này hoàn thành chương 14 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

*

Thuật lại cách ngài lựa chọn đẳng cấp cha mẹ mình và gia trì ân phước lên họ.     

 

15. Đi Vào Thai Tạng Người Mẹ 

 

Sau đó, vào ngày mùng 10 tháng 10 năm Ngọ, Đức Dakini tìm thấy một nơi an tọa thư thái thoải mái trên đỉnh cung điện của nhà vua và hoàng hậu. Các Bộ trưởng ngoại và nội cùng tất cả các thần dân của họ đang ca hát những bài ca du dương và chơi những loại nhạc cụ khác nhau. Có nhảy múa, đua ngựa, những màn ảo thuật và những khẩu thần công đại bác. Tổng cộng khoảng 18 trò chơi khác nhau và các chương trình được biểu diễn.

 

Ngày đó, tất cả không gian xung quanh đều trở nên tràn đầy ánh sáng cầu vồng lung linh. Từ giữa những đám mây, âm thanh những nhạc cụ khác nhau có thể được nghe thấy. Tất cả thần dân và công chúng đều kinh ngạc và không ngừng tuyên bố sự ngạc nhiên của họ. Một cầu vồng vĩ đại ngũ sắc xuất hiện trên nhà vua và hoàng hậu, và trong không gian, những bông hoa sen đỏ và mộc lan vàng óng, xanh lục cùng những màu sắc khác đổ xuống như mưa liên tục. Mọi người có thể thực sự hứng chúng ở trong tay mình!

 

Tất cả những dấu hiệu này xảy ra ngay trước khi các bộ trưởng, thần dân và chúng dân của vương quốc cũng như tất cả mọi người cảm thấy. Họ thậm chí còn ngạc nhiên hơn so với những dấu hiệu đã xảy ra trước đây vào thời điểm những vị Bồ Tát anh hùng vĩ đại hay các vị thần thủ hộ giàu mạnh hạ sinh. Với rất nhiều điều huyền diệu xuất hiện vào ngày thứ 10 âm lịch tốt lành này, mọi người đều cho rằng một bé trai phải được sinh ra cho nhà vua, và rằng một vị Phật giác ngộ trọn vẹn đã đi vào thế gian, hoặc không thì phải là một bậc Chakravartin – Chuyển luân thánh vương đã được ra đời.

 

Ngay tối hôm đó, nhà vua và hoàng hậu đều cùng thấy nhiều dấu hiệu kỳ diệu trong những giấc mộng của mình. Nhà vua nằm mộng thấy một bảo tháp bằng pha lê trắng, đỉnh của nó chạm tới bầu trời, và tháp này được sinh ra từ vương miện của mình. Ở trung tâm hình cái bình của bảo tháp có vô số các Dakini đang nhảy múa và hát lên những bài ca đáng yêu. Xung quanh họ là nhiều vị Daka dâng cúng dường. Ánh sáng từ ngôi bảo tháp bao phủ toàn bộ thế giới. Nó được đánh dấu với mặt trời và mặt trăng trên đỉnh, và nó hiện ra các tia sáng có màu sắc phi thường cùng các hình mẫu. Ánh sáng hoàn toàn lấp đầy 37 cõi giới cao hơn.

 

Trong khi đó, hoàng hậu nằm mộng thấy một cầu vồng lấp đầy các hạt ánh sáng thể nhập vào vương miện mình. Trong mỗi hạt xuất hiện một vị Dakini màu trắng, 8 tuổi, le lói trong vẻ đẹp với một vũ điệu. Mỗi vị Dakini đang tụng: OM,AH, HUM, SO, HA MUM, LAM, MAM, BAM, TAM. Rung động trong 5 màu sắc với những âm thanh của chính chúng, những chủng tự này dần dần hiện lên rõ nét và rơi xuống như mưa, nhẹ nhàng hòa tan vào 5 trung tâm năng lượng của hoàng hậu. Hoàng hậu thể nghiệm sự an lạc về thể lý. Thân thể bà được lấp đầy bởi ánh sáng ngũ sắc và trở nên bất nghiễm từ bên ngoài và cả bên trong. Tất cả các vị Dakini hòa tan vào vương miện bà, và 5 ánh sáng ngũ sắc với màu trắng, vàng, đỏ, xanh lục và xanh dương – biến thành các chủng tự AHBAM. Hòa tan vào thân thể bà, những chủng tự xuất hiện như thể ở trên ngọn lửa, các tia sáng không ngừng rọi sáng về phía trước.

 

Khi hoàng hậu tỉnh dậy vào lúc bình minh, âm thanh nhẹ nhàng của những tiếng chuông ngân có thể được nghe thấy từ không gian. Khi bà nhìn lên, một vị Dakini 16 tuổi màu trắng xinh đẹp xuất hiện, cô được trang hoàng bởi tơ lụa trắng cùng những trang sức xương. Đang ở trong tư thế nhảy múa và được bao quanh bởi 16 vị Dakini khác. Hoàng hậu thỉnh cầu họ với sự tôn kính sâu sa, lòng bàn tay bà chắp lại. Sau đó, vị Dakini chính màu trắng nói những lời sau đây:

 

"  Kake Tana Ham Eh! O hỡi bản tánh gió tràn khắp, với những phẩm tánh cao quý viên mãn trọn hảo, mặc dù những cánh cổng duyên nghiệp dẫn đến Phật quả là vô hạn, Ngài – Samaya Tara là mạn đà la gió chuyển động. Nữ Hoàng ấm áp vĩ đại, nữ thần phối ngẫu Pandaravasini, ngài có biết đây là thành tố của ngài chăng? Mandala nước thuần tịnh - Mamaki, ngài có biết đây là thành tố của ngài chăng? Mandala đất nâng đỡ - Buddhalochana, ngài có biết đây là thành tố của ngài chăng? Ngài có biết rằng mạn đà la mênh mông bất tận này của hư không ý thức là Dhateshvari Mandarava chăng? O hỡi người mẹ duy nhất của chư Phật trong ba thời, O hỡi nền tảng phổ quát tỏa khắp mọi sự, ngài có biết rằng điều này an trụ như thân ngài? 5 trí tuệ nguyên sơ[28] là 5 tia sáng ngũ sắc tự nhiên.[29] Mẹ, mẹ có biết rằng điều này là nhờ những gia hộ của mẹ? Năm quán đảnh[30] là trò chơi của các gia đình Daka. Mẹ có biết rằng trí tuệ 5 vị phối ngẫu hiện diện bên trong mẹ? Bồ đề tâm trí tuệ nguyên sơ ngự trị như sự thuần khiết viên mãn trong 8 thức35. Mẹ có biết rằng 8 đối tượng hiện diện như bản tánh tinh yếu này? Bốn quan điểm thuần tịnh[31] là sự rộng mở của hư không với tất cả những thuộc tính hoàn chỉnh. Mẹ có biết rằng chư Dakini của tứ vô lượng[32] cư ngụ ở đó? Các Daka phối ngẫu thực sự là chư Phật trong ba thời. Mẹ có biết rằng đây là thể nghiệm trực tiếp từ những ân phước của bốn hỷ lạc?[33] Không chút mơ hồ, những mê đắm[34]  được tự giải thoát. Mẹ có biết rằng điều này an trụ như trí tuệ nguyên sơ của đại lạc? Mẹ, mẹ là cung điện ba thân của các đấng chinh phục. Mẹ có biết rằng tất cả 5 hiện thân hiện diện bên trong mẹ? Trong cung điện lạc phúc của bản tánh tinh ròng từ các kinh mạch năng lượng, mẹ có biết vị Dakini phong đại thuần tịnh?Trong sự rộng mở của bản tánh thuần tịnh trong mười phương[35], năm ánh sáng của trí tuệ nguyên sơ, mẹ có biết vị Dakini nước với dòng tinh chất lỏng thuần tịnh thiết yếu? Trong suối nguồn cung điện Pháp Bảo của dòng tinh chất lỏng đại lạc, mẹ có biết nữ thần phối ngẫu của Phật đang cư ngụ ở đó? O hỡi Bà Mẹ nguyên thủy thuần túy của trí tuệ tự nhiên, vị Dakini tuyệt đối của đại lạc an trú bên trong mẹ. Nhiều vị Dakini đã ban truyền quán đảnh, tự do khỏi những khuynh hướng quen thuộc, làm thuần thục chín mùi những huấn thị được thọ nhận. Các phối ngẫu sở hữu đầy đủ công đức được phú bẩm, và kim cương bộ được phú sẵn cho định mệnh tốt lành. Bà mẹ của tất cả các đấng chinh phục, với trí tuệ thiên bẩm trọn vẹn, và bậc chúa tể sinh trong hồ nước của pháp môn thiên phú trọn vẹn bất khả phân. Nhờ ánh sáng mặt trời và mặt trăng này, bóng tối những khái niệm lầm lạc được xua tan. Cầu mong định mệnh tốt lành của sự giải thoát đến với tất cả chúng sinh!"

 

Khi ngài nói điều này, một trận mưa hoa và ngũ cốc đã trút xuống 3 lần. Những dấu hiệu rõ ràng cũng xuất hiện. Tất cả các vị Dakini tan hòa vào không gian. Trong những khu vực bên ngoài, bên trong, trên và dưới cung điện,l nhiều bông hoa đã được thấy và cảm nhận được. Nhiều loại ngũ cốc đa dạng có thể trông thấy và cảm nhận ở khắp mọi nơi. Ý thức hoàng hậu trở nên sáng rõ và trong thân, bà cảm thọ sự chói sáng của niềm hạnh phúc. Đến gặp nhà vua, hoàng hậu kể lại chi tiết thể nghiệm của mình, và ông cũng kể lại giấc mơ của ông cho hoàng hậu. Cả hai đều được lấp đầy với niềm vui sướng và hạnh phúc sáng ngời.

 

Vào thời điểm họ hợp nhất, cả hai đều thấy 5 vị Phật cùng các phối ngẫu xuất hiện trước họ trong không gian. Từ điểm hợp nhất giữa họ, các chủng tự OM, AH, HUM, SO, HA MUM, LAM, MAM, BAM, TAM cũng như các nguyên âm cùng phụ âm xuất hiện trong màu trắng và đỏ. Cả hai đều thể nghiệm chúng hòa tan vào vương miện của mình, và năm vị Phật tự nhiên trở thành tinh hoa của thần chú duyên khởi, rồi sau đó tất cả tan hòa vào cả hai thân thể bọn họ.

 

Sau một tháng, hoàng hậu đã thể nghiệm được rất nhiều vị Daka tới ban phước, gia hộ lên thân bà với một loại nước thơm đặc biệt. Bà trở nên xinh đẹp hơn trước. Mọi người đều thấy rằng hoàng hậu đã trở nên trẻ trung và rạng rỡ hơn theo từng tháng qua đi. Họ nói, "Có một vị Dakini ở giữa chúng ta!".

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 15 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại việc nhờ 5 trạng thái của cái thấy toàn giác, ngài đi vào thai tạng người mẹ một cách tự nhiên và ban quán đảnh trí tuệ  nguyên sơ của 5 gia đình.      

16. Tỏ Lòng Tôn Kính Tới Cha Mẹ Mình 

 

Sau 5 tháng, hoàng hậu thể nghiệm một khối cầu ánh sáng đi vào cơ thể mình. Khi màn đêm buông xuống, tất cả mọi người đều có thể thấy rằng cơ thể bà tự nhiên phát sáng. Nhà vua nói với bà: "  Thân thể nàng giống như một nơi cư ngụ của ánh sáng vậy. Trong bóng tối, nó tỏa sáng rõ ràng và rực rỡ như ánh sáng từ một ngọn lửa. Điều này dường như là một dấu hiệu cho thấy có lẽ nàng đang ở cùng với em bé. Nàng có nghĩ như vậy không? Nàng có nghe được vài lời chỉ dẫn bí truyền thâm sâu rằng điều gì là nguyên nhân khiến điều này xảy ra không?"

 

Hoàng hậu đáp: "  Thần cảm thấy trong thân thể hoàn toàn không đau đớn chút nào. Tuy nhiên, hai bên ngực của thần đang sưng lên, và tất cả các chuyển động thân thể của thần dường như được thúc đẩy bởi những nguồn năng lượng thiết yếu. Thần tiếp tục có những dấu hiệu tuyệt diệu trong những giấc mơ của mình, nhưng thần đã không nhận được bất kỳ chỉ dẫn cốt tủy nào. Nếu thực sự thần mang thai một người con trai của chư thần, thì các dấu hiệu đã xảy ra phải chỉ rõ điều này. Tuy nhiên, có lúc thì thần nghe thấy âm thanh của các nguyên âm và phụ âm vang dội từ bụng mình. Nó không giống như bất kỳ thể nghiệm nào trước đây thần từng biết. Thần không chắc chắn là điều này có nghĩa là thần đã có mang hay không nữa."

 

Hoàng hậu tiếp tục duy trì chế độ chăm sóc cẩn trọng trong trong việc tịnh hóa sạch sẽ và tắm rửa. Khi mỗi tháng trôi qua, những âm thanh ngày càng rõ ràng và lớn hơn. Nhà vua và tất cả các bộ trưởng đều bày tỏ chắc chắn rằng hoàng hậu đã có mang. Âm thanh của các nguyên âm, phụ âm lớn như chưa bao giờ rõ ràng hơn thế, và thân thể hoàng hậu thì giống như một khối cầu ánh sáng cả ngày lẫn đêm. Mọi người đều tự hỏi phải chăng thực sự là một vị Chakravartin (Chuyển luân thánh vương) sắp chào đời. Nhiều nghi lễ đặc biệt được thực hiện, và 9 tháng trôi qua mà không có dấu hiệu nào thêm.

 

Trong năm Mộc Ngọ đực, vào ngày mùng 10 tháng 10, vào lúc rạng sáng trước bình minh, bầu không gian trở nên tràn đầy với những sự xuất hiện đột ngột của ánh sáng cầu vồng trong hình tròn; tất cả mọi người đều bán tín bán nghi. Có cả ánh sáng màu vàng hình vuông, ánh sáng màu đỏ hình bán nguyệt, ánh sáng màu xanh lục hình tam giác, và ánh sáng màu xanh dương trong nhiều hình dạng khác nhau. Âm thanh các nhạc cụ có thể được nghe thấy khắp toàn bộ vương quốc Zahor. Những dấu vết của các đám mây cầu vồng vân tập lại trên nóc cung điện, và vô số những bông hoa màu trắng, đỏ và vàng được trổ bông trên khắp mặt đất. Một dòng chảy như vòi sen với các loại hoa nhiều màu từ trên trời đổ xuống. Vô số những đám mây và khói nhiều màu bao quanh tất cả các ngọn núi. Mặt đất bắt đầu rung động và các loài chim bắt đầu líu lo cất lên những bài ca du dương nhất. Gấm lụa mềm tự nhiên xuất hiện, những đống ngũ cốc và trái cây tự nhiên xuất hiện, sẵn sàng cho mọi người thưởng thức. Vô số những điều kỳ diệu đã được nhìn thấy.

 

Khi mặt trời chiếu sáng, thì hoàng hậu hạ sinh trong niềm hạnh phúc lớn lao mà không trải qua chút đau đớn nào. Đứa trẻ được phủ kín bằng vải, tóc xoăn và màu xanh da trời. Khuôn mặt đứa bé phát sáng với sự rạng rỡ, tươi cười cùng niềm hỷ lạc. Đứa bé đang tụng niệm: OM, AH, HUM và các nguyên âm, phụ âm. Sau đó, đứa trẻ đứng lên, kính cẩn lễ lạy cha mẹ, rồi hát lên bài ca du dương này trong niềm ngạc nhiên đầy tự hào của cha mẹ:

 

"  E Ma Ho! Ngài nhờ công đức từ trước đây mà được gọi là Đức Vua Indrabhuti, và bây giờ ngài đã trở thành cha của con trong gia đình ở Zahor. O hỡi bậc thông thái đức hạnh vĩ đại, con đảnh lễ cha! Vị nữ thần mạnh mẽ của dòng dõi hoàng tộc, mẹ của con, con xin đảnh lễ mẹ, bà mẹ của lạc phúc rộng mở hư không! Mặc dù sự sinh ra của con tự do khỏi sự nhiễm trước, nhưng các ngài, cha mẹ thiện tâm vĩ đại, đã tạo ra những thuận duyên may mắn, tốt lành để con được sinh ra. Mặc dù con không có ý định tái sinh trong một thân thể mang nghiệp, con, vị nữ anh hùng, đã đến để mang lại lợi ích cho chúng sinh. Con đã đến để thiết lập hạnh phúc và niềm an lạc trong vương quốc Zahor. Không bị ảnh hưởng bởi dấu vết thai tạng, con không bao giờ sợ hãi sự tái sinh. Con là mẹ của chư Phật ba thời và là hiện thân được gọi là Pandaravasini. Có hàng triệu những vị nữ bồ tát giống như con, những người đã đi vào thế giới này như cơn mưa trút xuống. Không bị sa lầy trong vòng luân hồi sinh tử, các vị đó đã tu tập trên con đường giải thoát. Con đã đến như một trong những người sẽ lừng danh với tên gọi là Mandarava!"

 

Nghe những lời này, tất cả mọi người đều vô cùng kinh ngạc. Ngay lúc đó các vị thần thực sự xuất hiện trên bầu trời, và họ dâng nước tắm lên thân thể em bé 3 lần với cam lồ mật hoa linh thiêng. Các vị rồng naga dâng lên nhiều loại ngọc như ý, chúng được chất đống xung quanh cung điện trong mọi phương hướng. Nhiều kho tàng châu báu đã được trồi lên một cách tự nhiên.

 

Sau đó, hoàng hậu đã nói những lời này: "E ma! Ta là một người nữ với công đức lớn lao, ta đã được hạ sinh một bé gái lạ lùng nhất trong các vị thần, em bé đã đảnh lễ ta, cũng như cha của em là đức vua để ghi nhận lòng tốt của chúng ta. Đấng nữ anh hùng xinh đẹp với những phẩm chất cao quý vô song, vào thời điểm hạ sinh của con, con đã khiến chúng ta vô cùng hoan hỷ với bài ca du dương và tuyên bố rằng con là Mandarava. Khi con đi vào thân thể ta, ta chỉ biết đến sự an lạc, hạnh phúc.


Giờ đây chúng ta trực tiếp gặp phải một sự thực đáng ngạc nhiên, bậc Dakini trí tuệ nguyên sơ. Con tự do khỏi khổ đau của việc sinh ra. Thân thể mẹ con trải qua niềm phúc lạc. Những kho tàng quý báu từ các nguồn bên ngoài và bên trong đều được hiển lộ. Ánh sáng cầu vồng và những mùi hương thơm đã tràn ngập khắp vương quốc xứ Zahor. Các vị thần trí tuệ nguyên sơ dâng nước tắm lên thân thể con 3 lần. Con gái, con đã lấp đầy người mẹ của con với niềm hạnh phúc cao tột vĩ đại!" Những lời này đã được đón nhận với một nụ cười vĩ đại của Bà Mẹ Những Phẩm Tánh Tôn Quý, ngài đã ca lên bài ca này: "  E ma! Con gái của mẹ là Pandaravasini, một Dakini trí tuệ! Trong chân lý tuyệt đối, bản tánh nền tảng của con là trí tuệ vô thượng của tánh không. Con là bậc  phối ngẫu vô thượng của đức bổn tôn trường thọ, Amitayus Vô Lượng Thọ. Con là người con gái trì giữ những phẩm tánh tôn quý giác ngộ. Người cha độc nhất của 1000 vị Phật là Đấng Thủ Hộ Quán Âm Quán Tự Tại Avalokiteshvara. Nhờ những ân phước của Ngài, con sẽ chăm sóc cho tất cả chúng sinh như những đứa con của chính mình. Cho đến khi nghiệp quả của họ dần cạn kiệt, con sẽ dẫn dắt tất cả chúng sinh không chút ngoại lệ đi tới sự giải thoát. Những hóa hiện từ các cõi tịnh độ vô hạn là không thể nghĩ bàn. Chúng được hiển lộ ở đây theo bất cứ cách thế cần thiết nào nhằm thuần hóa tâm thức chúng sinh. Con là người con gái hiển lộ những con đường khác nhau. Nền tảng thuần túy là người Cha nguyên thủy Đức Phổ Hiền Samantabhadra thuần tịnh nguyên sơ. Đây là tất cả các Đấng Thiện Thệ Sugata và những bậc thừa kế của các Ngài, cũng như bản tánh cơ bản của tất cả chúng sinh. Cuối cùng, "  trên "  và "  dưới "  là không tồn tại, và trong bản tánh, chúng đều bình đẳng. Tất cả đều là sự nguyên sơ bất nhị, như Pháp thân.

 

"  Con là nền tảng của mọi sự. Trong sự bất nhị, sự rộng mở không phương hướng của không gian, với lòng từ ái đối với tất cả chúng sinh trong sáu cõi, những người đã từng là cha mẹ chúng ta, với niềm hỷ lạc vô thượng như mặt trời soi tỏ mọi sự, con chăm sóc cho tất cả chúng sinh với sự buông bỏ, cũng giống như một người mẹ bảo vệ đứa con độc nhất của mình. Đây là động lực của con gái mẹ.

 

"  Chúng sinh không nên bị tổn hại vào bất kỳ lúc nào. Đặc biệt, nguyên nhân của phi đức hạnh, sự  tiêu cực, cần phải được xóa bỏ hoàn toàn! Sự phi đức hạnh đã tích lũy về phương diện vật chất nên bị giam giữ trong vị trí của nó, và tất cả mọi hành động tương thuộc lẫn nhau nên phải được loại bỏ tận gốc. Đây là những lời nguyện của con gái mẹ về giải thoát cá nhân.

 

"  Đấng Guru Chúa Tể bất khả phân khỏi đỉnh đầu con, nơi con thọ nhận được những quán đảnh tịnh bình, bí mật, trí tuệ và tuyệt đối. Không chút bám chấp vào sự hiện hữu hữu hình bên ngoài của dạng thức này, con quán sát thực tại, vị bổn tôn tuyệt đối của sự tỉnh thức trọn hảo. Đây là thực hành của con gái mẹ về trạng thái phát sinh của Mật chú.

 

"  Trong 21.600 kinh mạch, cả hai nguồn năng lượng thiết yếu thô và vi tế đều được thu rút vào kinh mạch năng lượng trung ương. Ngọn lửa trí tuệ nguyên sơ cháy sáng với sự sáng tỏ trong veo, đốt cháy các uẩn cùng các nguyên tố. Nhờ sự hợp nhất của phương tiện và trí tuệ, mặt trời và mặt trăng, cam lồ tịnh hóa tràn xuống. Bản tánh tinh yếu của sự hiện thân tuyệt đối đại lạc được hoàn thiện. Đó là thực hành giai đoạn hoàn thiện của con gái mẹ.

        

"  Chuỗi mắt xích kim cương giác tánh[36] của khối cầu thuần khiết, trống rỗng và sáng tỏ là một vòng xoáy ngũ sắc thị hiện sự rạng rỡ của năm trí tuệ nguyên sơ. Thông qua lối vào của điểm trọng yếu, sự phát sinh và giải thoát được hoàn thiện. 4 linh kiến tự hiển lộ42 được hoàn thiện trong Pháp thân. Niềm tin vĩ đại vào bản tánh bất nhị độc nhất của nền tảng[37] được tìm thấy. Đây là cái thấy và sự thiền định của con gái mẹ.

 

"  Bên ngoài, thân nhiễm ô được giải thoát như một hiện thân của ánh sáng. Bên trong, bản tánh tâm được hoàn thiện như bản tánh tinh yếu của 5 hiện thân giác ngộ.  Bí mật, hiện thân tịnh bình của bản tánh vạn pháp được hoàn tất. Sự xác tín về nền tảng không thể chia tách của tinh túy độc nhất được khám phá. Đó là quả vị của con gái mẹ.

 

"  Khi trạng thái vô thượng của giác ngộ nguyên sơ được khám phá, vũ điệu bao trọn tất cả này trở thành sự phô diễn huyền nhiệm của hư không tự nhiên trong 5 hiện thân, nơi không có gì là không được trọn vẹn cả. Với pháp môn Đại Lạc và Tánh Không - nam nữ hợp nhất – sự giác ngộ hiện thân của các tướng chính và phụ là biểu hiện. Đây là cách hiển lộ của con gái mẹ.

 

"  Các pháp thiện xảo sẽ được sử dụng để thuần hóa tâm thức chúng sinh phù hợp với căn cơ của họ. Tất cả chúng sinh sẽ được dẫn dắt không chút thiên vị từ những cõi thấp sang trạng thái vô thượng của giải thoát và họ sẽ không bao giờ trở lại các cõi thấp từ chốn an lạc vĩnh cửu. Đây là cam kết của con gái mẹ với chúng sinh.

 

"  Đạo Sư là nguồn gốc của tất cả mọi quán đảnh và ân phước từ tất cả các Đấng Chiến Thắng. Điểm then chốt là giữ khẩu ngữ tinh thuần về danh dự và các vị sẽ không bao giờ chia tách khỏi Đạo Sư. O hỡi hoàng hậu, xin đừng bỏ qua điểm thiết yếu từ những lời này!"  Như thế những lời này đã được niêm phong với dấu ấn của Đức Dakini.

 

Khi cô vừa dứt lời, tất cả thần dân của vương quốc, cũng như toàn bộ dân chúng trong mọi phương hướng đều dâng lên nhiều loại trang sức quý giá. Tất cả mọi người đều kỷ niệm ngày sinh của vị Dakini trong 3 tháng. Sau ba tháng, những phẩm chất đáng kinh ngạc của cô trở nên lừng danh khắp Ấn Độ. Tất cả các vị chư thiên, long thần, phi nhân cùng 8 cấp quỷ thần[38]  đều kinh ngạc khi danh tiếng của cô ngày càng lan rộng hơn nữa. Một bậc hiền triết linh thánh giỏi về những điềm báo đã thẩm định những dấu hiệu này, nhưng ông không thể giải đáp được hết chúng. Sau đó, vị vua vĩ đại đã nói: "  Kye! Tất cả những bậc tiên tri linh thánh, những bậc có khả năng thấu thị, xin vui lòng cho chúng tôi biết lý do vì sao người con gái này của chúng tôi lại thị hiện những phẩm chất giác ngộ phi phàm như vậy.


Xin cho biết nếu có điều gì đó tiêu cực mà có thể được dự báo trong tương lai của cô mà không cần che giấu bất cứ điều gì".

 

Sau khi quan sát tỉ mỉ theo lệnh của nhà vua, một bậc linh thánh đã hồi đáp: "  E ma! Người cha tôn kính, Đức Vua Laiwang! Người con gái này của nhà vua và hoàng hậu, tên là Mandarava, cô đã biểu hiện những dấu hiệu vật lý của một Dakini kim cương bộ. Khẩu ngữ của cô cho thấy cô là một bậc phối ngẫu thuộc cấp độ liên hoa. Các dấu hiệu chỉ ra nhờ tâm thức của mình khiến cô là một bậc hộ trì 5 trí tuệ nguyên sơ. Sự giàu có những phẩm tánh cao quý của cô tiết lộ cô là một nữ thần mạnh mẽ của vũ điệu, phát lộ những hoạt động giác ngộ không thể nghĩ bàn vì lợi ích chúng sinh. Cô là phối ngẫu của hoàng tử được hóa sinh một cách kỳ diệu, người không trụ lại trong vòng luân hồi sinh tử. Những sự kiện không thuận lợi sẽ xảy ra, và luật lệ của vương quốc sẽ được thẩm định do những hành vi bất cẩn. Thời gian sẽ đến khi người cha đáng kính biết ân hận sâu sắc, nhưng vào lúc cuối cùng, tất cả mọi người đều sẽ được đặt trên con đường. Thật đáng kinh ngạc làm sao! Bậc sinh ra từ hoa sen này cùng với những hoạt động giác ngộ của cô! Sự lừng lẫy từ những phẩm chất của cô sẽ vẫn còn tiếp tục cho đến khi đại kiếp này trống rỗng! Trong thế giới hiện hữu tồn tại, có rất nhiều người thuộc về xác thịt, nhưng một vị Dakini trí tuệ thì giống như một bông hoa ưu đàm. Không ai ở đây có khả năng hiểu được hết tiềm năng một bậc như vậy ".

 

Sau khi nghe được điều này, cả nhà vua và hoàng hậu đều rất vui mừng, và họ đã bỏ ra rất nhiều tiền của để tổ chức lễ kỷ niệm này. Những bậc tiên tri linh thánh sau đó trở về nơi chốn riêng của họ.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 16 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại sự hạ sinh của ngài và cách ngài đảnh lễ cha mẹ mình để bày tỏ lòng biết ơn tới thiện tâm của họ.     

17. Chán Ngán Với Vòng Luân Hồi Sinh Tử  

 

Khi thời gian trôi qua và Mandarava chỉ ăn 3 chất trắng và 3 chất ngọt[39], thân thể cô trưởng thành dần lên và cô vẫn vui vẻ giữ mình ở trong cung điện. Khi lên 8 tuổi, cùng với nhiều tùy tùng, cô đã mạo hiểm đi lên mái cung điện, từ đó họ nhìn ra ngoài bức tường cung điện và trông thấy nhiều đám đông người dân đang tham gia vào các hoạt động vui chơi.

 

Khi công chúa nhìn về phía đông, cô thấy một con lợn nái sinh được 7 lợn con. Thấy sự đau khổ của việc sinh ra thực sự rất mãnh liệt, cô đã nghĩ đến bản thân mình, tại sao lại không học các phương pháp dẫn đến sự giải thoát hơn là ở lại trong vòng quay không ngừng của sự tái sinh này? Sau đó, cô nghe thấy một cô gái trẻ khóc. Lắng nghe kỹ, cô nhận ra rằng cô gái đã sinh con. Sau đó, công chúa nghĩ, một thân nữ là nền tảng cho đau khổ trong luân hồi. Ngay cả mẹ của những chú lợn con cũng phải chịu đựng đau khổ từ việc sinh con, nhưng do sự mơ hồ của chúng, nên chúng vẫn rất gắn kết với nguyên nhân đau khổ của mình! Mọi thứ đều được quy định bởi nghiệp, nhưng chỉ rất ít người có suy nghĩ đền đáp lại lòng tốt của những người khác.

 

Suy niệm về tình thế khó khăn này, Công Chúa Mandarava đã cầu nguyện với lòng sùng mộ nhất tâm: "Namo! Xin quy kính Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng! Quy kính Tam Căn: Lama, Yidam46, Dakini! Xin hãy để tâm tới con ngay lúc này và xin giúp con trong việc hoàn thành lời cầu nguyện này! Cầu mong con và tất cả chúng sinh có sự nối kết với con – những người mà nghiệp tiêu cực cùng sự mơ hồ của họ đã ràng buộc họ vào vòng quay bất tận của sự tái sinh trong chu kỳ lầm lạc – Cầu xin họ mau chóng được giải thoát khỏi đại dương hỗn loạn không thể chịu đựng nổi này và có được trạng thái giải thoát bất sinh! Xin hãy giải phóng chúng con ra khỏi thế giới của nghiệp này! Cầu mong chúng con không bao giờ biết tới khổ đau thêm một lần nào nữa!"

 

Sau khi thực hiện lời cầu nguyện này, công chúa nhìn về phía nam và thấy một ông già chống hai cây gậy. Khi ông kéo lê thân thể mình đi, hai đầu gối ông buộc phải trượt qua mặt đất bẩn mà ông vô tình kéo lê theo. Với mỗi chuyển động, ông đều rên lên trong tuyệt vọng và khóc, "Tôi đã làm gì nên tội mà phải chịu sự đau khổ như vậy?" Những người đi qua chỉ nhìn ông với vẻ thích thú và họ cười rộ.

 

Công chúa vô cùng đau đớn, cô khởi lòng bi mẫn trước cảnh tượng đáng thương này. Một lần nữa cô đã cầu nguyện: "Ôi Đức Quán Thế Âm Avalokiteshvara, Tam Bảo và Tam Căn, xin hãy để tâm! Than ôi! Tất cả chúng sinh cha mẹ trong 6 cấp độ không có thể tránh được sự đau khổ của việc chuyển từ thời son trẻ sang lúc già cỗi. Chúng con hoàn toàn bất lực: Tay chân chúng con tê cứng và ngừng hoạt động. Than ôi, một số phận tiêu cực đến vậy! Cầu mong những đau khổ như vậy được biến mất mãi mãi!" Cô cầu nguyện nhất tâm như thế.

 

Sau đó công chúa nhìn về phía tây và thấy nhiều người nam, nữ bị ảnh hưởng bởi bệnh phong cùi cùng những bệnh truyền nhiễm khác. Cô thậm chí còn có thể nghe thấy tiếng kêu đau đớn của họ. Làn da họ bị bao phủ với những vết thương hở miệng và trào phun máu mủ ra. Ngay cả cơ quan nội tạng của họ cũng bị lòi ra, máu trào phun ra. Các tĩnh mạch của họ bị tróc ra với mủ và mùi hôi thối tràn ngập khắp mọi nơi. Những mái tóc trên đầu và lông mày của họ rụng xuống trông giống như những chiếc muôi bằng đồng vậy. Tàn tật và gấp đôi trong đau đớn, họ không thể chết; nhưng họ vẫn giữ niềm hy vọng rằng họ có thể tiếp tục sống theo cách này. Tại sao không có thuốc để giúp họ? Một lần nữa cô đã cầu nguyện: "Nhờ ân phước của Tam Bảo và Những Bậc Thánh Trí, cầu mong nghiệp xấu đã khiến cho chúng sinh chịu bệnh tật như vậy được hoàn toàn tịnh hóa! Xin ban liều thuốc sâu sa và vô thượng từ lòng đại bi của các Ngài! Cầu mong con và tất cả chúng sinh cha mẹ khác, trong tất cả các đời, không bao giờ biết đến sợ hãi của bệnh tật. Xin đặt chúng con trong trạng thái tự do, vượt thoát khỏi mọi đau khổ như vậy!"

 

Sau đó, cô nhìn về phía bắc và nhìn thấy khói cuồn cuộn bốc ra từ một căn nhà. Những âm thanh khóc than có thể nghe được rõ ràng. Nhìn kỹ hơn, cô có thể thấy một người đàn ông ốm yếu với đôi mắt trợn ngược nhìn lên đầu. Có nhiều tiếng thì thầm, và mọi người nói không được khóc. Người đàn ông dần dần ngừng thở và chết. Đột nhiên tất cả mọi người đều đứng về phía bên trái của ông ta, trong khi một số người khác chuẩn bị để chôn cất. "Than ôi!" cô kêu lên. "Đó là sự đau khổ của cái chết! Không thể tránh khỏi, đó là kết quả tất yếu của nghiệp xấu trong vòng luân hồi sinh tử. Cầu mong tôi và tất cả chúng sinh cha mẹ nhiều như hư không có thể làm cạn kiệt nghiệp của mình trong luân hồi và đạt được trạng thái tự do vĩnh viễn khỏi cái chết. Cầu mong trạng thái đại lạc bất nhiễm được thành tựu!" Khi đưa ra lời cầu nguyện này, trái tim cô cảm thấy thật nặng nề, và khi trở lại bên trong cung điện, cô đã bật khóc.

 

Thấy con gái khóc, hoàng hậu đã hỏi cô con gái yêu quý như trái tim bà về những gì đã xảy ra. “Con có bị đau hay mệt ở đâu không? Hay con bị ngã và bị đau?” Đầy yêu thương, bà vuốt ve, hôn cô và lau nước mắt cho cô. Sau đó, Đức Dakini nói: "  Than ôi! Hỡi mẹ yêu! Tâm thức này đã tái sinh trong hình thức các uẩn và các nguyên tố. Hôm nay con đã mạo hiểm leo lên nóc cung điện và lần đầu tiên nhìn thấy sự đau khổ của những nghiệp xấu mà con người phải chịu đựng trong thế giới này. Sự đau khổ của sinh, lão, bệnh, tử thật không thể tránh khỏi! Than ôi! Con còn không thể chịu đựng nổi ý nghĩ về nó nữa! Phụ nữ trong vòng sinh tử luân hồi bị cột chặt, tù túng và không có phương tiện để chấm dứt nghiệp của mình. Nó giống như tiếng đập thình thịch không ngừng của những con sóng. Tất cả những ai được sinh ra trong sự tồn tại hiện hữu đều phải trải qua đau khổ như thể họ là một nhóm người ngu muội nhẫn tâm! Bây giờ con đã biết sự khổ đau như vậy tồn tại, con không thể ở lại trong sự nhàn rỗi. Tuy nhiên như đã khảo sát, vòng sinh tử luân hồi là một thứ vô cùng khó để tìm ra lối thoát. Người ta không thể tránh được quá trình lão hóa. Không có cách nào để kéo dài tuổi thanh xuân hay ngăn chặn sự già yếu. Chúng ta giống như loài chim bị rớt xuống đất và không thể bay lên. Chúng ta phải tranh đấu như những người què quặt, chân tay chúng ta bất lực và co rút lại. Sự đau khổ này, dù đã khảo cứu, là không thể tránh được!

 

"  Bây giờ con phải tìm đường dẫn đến tự do. Do sức mạnh từ nghiệp quá khứ, nỗi đau đớn của bệnh tật, giống như phải chịu đựng bị đâm 100 lần bởi một thanh kiếm. Nếu không tin vào sự thật của nhân quả nghiệp báo, người ta sẽ tiếp tục nghĩ rằng trở ngại và đau khổ được áp đặt từ một số thế lực bên ngoài. Con phải giải thoát tất cả chúng sinh ra khỏi quan niệm lầm lạc mê lầm này! Chúng ta được sinh ra trong thế giới này, với từng ngày, tháng, năm qua đi, phải trải nghiệm sự cạn kiệt đời sống của mình. Không ai có khả năng trì hoãn sự khốn khổ của cái chết khi thời gian của họ đến. Mặc dù một người được bao bọc bởi người thân và bạn bè thân yêu, nhưng khi người ta phải đi vào hành lang hẹp của cái chết đơn độc lúc cuộc sống bị mất đi thì giống như một ngọn lửa từ ngọn nến thấp thoáng hay giống như một sợi bấc bị kéo ra khỏi đèn bơ, chúng sẽ tắt ngúm. Ngay cả cha mẹ, người thân và bạn bè cũng không thể cho chúng ta nơi nương náu hoặc bảo vệ chúng ta thoát khỏi cuộc hành trình đơn độc đi xuống những nẻo đường hẹp của bardo[40]. Cho đến khi nghiệp đã tận, tất cả những đau khổ chúng ta phải chịu đựng là quá sức tưởng tượng. Khi cái chết đến, thật quá muộn để cảm thấy ân hận. Sự ân hận và nuối tiếc của chúng ta sau đó phải được phơi bày trước chính Thần Chết[41]. Con tự hỏi đến khi nào thì sự kiện tất yếu này sẽ xảy ra với con? Con không thể giúp đỡ mà khóc than một cách không kiểm soát được trong sự vô ích cho điều kiện của mình. Khi chúng ta không đánh giá cao cơ hội này thì cuộc sống sẽ trôi đi như sự bùng nổ của cơn gió. Con sẽ suy nghĩ về điều này cho đến khi con thậm chí không thể ở lại trên giường ngủ do cường độ của nỗi sợ hãi và mong đợi của mình. Bây giờ suy nghĩ duy nhất của con là phải càng nhanh càng tốt đi đến nơi nào mà con có thể thực hành Phật Pháp thiêng liêng. O Hỡi cha mẹ của lòng thiện tâm vĩ đại, xin ban cho con sự cho phép của mẹ!"

 

Nghe con gái mình bộc bạch, hoàng hậu đầy sợ hãi và lo lắng. "  Con gái,"  bà trả lời,

"  Con  như đôi mắt và trái tim mẹ. Không dễ dàng để xem xét việc gửi con đi đâu đó để thực hành Pháp. Con còn trẻ, ít va chạm và cực kỳ quyến rũ. Nếu con gặp những kẻ hư hỏng, thì thật khó khăn để con theo đuổi Phật Pháp. Sẽ không tốt hơn nếu con ở lại đây trong cung điện và thực hành Pháp sao?”

 

Mandarava trả lời: "  Mẹ ơi, xin hãy lắng nghe! Con không quan tâm tới những hiện tượng bình phàm của thế giới này. Con muốn gặp một bậc hướng đạo tâm linh, người có thể ban cho con những chỉ dẫn cần thiết. Khi con đã nhận được chúng, con sẽ nỗ lực thực hành chúng cho đến khi con đạt được giải thoát. Thật là khó khăn cho con để hình dung xem làm thế nào con có thể thực hiện và nhận ra ý nghĩa bên trong của thực hành nếu con còn ở lại trong cung điện – vạn pháp trong vòng luân hồi sinh tử là lừa dối! Nếu con một mình, con sẽ được tự do để hạnh phúc hay buồn bã như mình muốn. O hỡi cha và mẹ, nếu cha mẹ nhìn lên con với lòng từ ái và bi mẫn, xin cho con được phép làm vậy!"

 

Hoàng hậu vô cùng bối rối. Bà ngay lập tức đã đi tới gặp nhà vua và nói với ông tất cả những gì đã xảy ra. Nhà vua trả lời: "  Con gái chúng ta còn trẻ và dễ kích động. Điều gì có thể khiến nó có những suy nghĩ như vậy nhỉ? Nó còn quá trẻ và chưa trưởng thành, sẽ khó khăn cho nó để thực hành Phật Pháp. Ta không thể cho phép nó ra đi một mình như vậy. Mặt khác, nếu gửi cho nó đi cùng với một đoàn tùy tùng, thì nó sẽ khó khăn để thực hiện mục tiêu của mình. Không vấn đề gì! Con gái chúng ta phải ở lại trong cung điện! Nó sẽ không dừng lại với ý tưởng này lâu đâu. Tâm trí non trẻ và dễ kích động của nó sẽ thay đổi như những đám mây trôi qua mặt trời. Sự nhiệt huyết của nó, mặc dù lớn lao lúc đầu, nhưng như đầu của một con cá bảy màu, nó sẽ suy giảm vào lúc cuối, giống như chiếc đuôi hẹp của cá bảy màu. Tuy nhiên, theo lời chân thực của bậc tiên tri linh thánh, thì nếu nó gặp được một vị thầy tâm linh, thì nó sẽ dấn thân vào con đường Phật Pháp".

 

Hoàng hậu quay trở lại với con gái mình và nói: "  O hỡi Mandarava, mối bận tâm duy nhất từ người mẹ này của con, hãy lắng nghe những gì cha đã nói, và con sẽ hài lòng. Chúng ta không thể để con đi đến một nơi mà chúng ta không thể thấy và chăm sóc con. Nhưng miễn là ý định của con vẫn như vậy, thì con có thể ở lại trong cung điện và thực hành Phật Pháp theo tâm nguyện của mình. Con gái, Ta – người mẹ của con, sẽ phục vụ mọi nhu cầu con cần!"  Khi nghe điều này, Mandarava nghĩ, "  Sự tồn tại của ta là nhờ lòng tốt của cha mẹ,"  và do đó cô trả lời rằng mình sẽ vâng lời.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 17 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

*

Kể lại nỗi buồn và sự ác cảm mạnh mẽ của ngài với vòng luân hồi sinh tử  

và thỉnh cầu của ngài với cha mẹ mình để được phép theo đuổi con đường Giáo Pháp.     

 

18. Hoàn Thiện Các Môn Khoa Học Bên Ngoài 

 

Từ đó công chúa ở lại trong gian trên cung điện, đắm mình trong tất cả các lĩnh vực của văn học và các tác phẩm theo chỉ dẫn của bậc hiền triết xuất sắc Kamalashri. Cô học cho đến khi hoàn toàn hiểu được 5 bộ chính, 8 bộ phụ và 100 bản văn nhánh bổ sung. Sau đó, cô đã làm chủ được ngôn ngữ của miền đông và tây Ấn Độ, Oddiyana, Maruta, Nepal, Raksasa, Dakini, tất cả các vùng biên giới, Sinhala và Yangchen Opa, cộng với tiếng nói và chữ viết của vương quốc Shambhala cùng nhiều ngôn ngữ khác. Không chỉ làm chủ ngôn ngữ, mà cô còn học tiếng địa phương một cách hoàn hảo. Cô đã trở thành một học giả không có đối thủ.

 

Kẻ dị giáo Atashi đã đi vào con đường Phật Pháp và chính ông đã trở thành một vị thầy tâm linh. Ông được mời đến cung điện. Công chúa đã nghiên cứu mười đối tượng phi-Phật pháp như thơ ca, logic, luận lý và ngữ pháp. Cô nghiên cứu những kinh điển vĩ đại như Kinh Định Vương và những cuốn khác. Cô thọ nhận được tất cả những giáo lý cùng những trao truyền từ những lời dạy của Đức Phật. Và cô quán chiếu chúng một cách triệt để. Vào thời điểm đó, cô phát triển sự hiểu biết hoàn hảo của 25 bộ kinh. Cô cũng học tất cả số kinh văn đó để biết về các chủ đề của tụng niệm và những giai điệu tâm linh.

 

Một hôm, khi công chúa đang nhìn ra ngoài từ cửa sổ cung điện, cô đã thấy một đám đông lớn phụ nữ ở hàng rào phía Nam. Một người nữ xinh đẹp ngồi trên đầu, nói chuyện với cả nhóm. Cô cầm một nhánh cây Arura và đang giải thích nhiều phẩm chất của loại cây. Một người nữ khác ngồi trên một cái cây đã bác bỏ cô, cô ta nói rằng ngoại trừ vị đắng của nó ra thì Arura không hề có những phẩm chất đáng kể nào. Người nữ xinh đẹp trả lời: "Arura là hạt giống căn nguyên, và nó như viên ngọc quý giá bằng vàng ròng của các loại cây. Nó đã được ban phước bởi Đức Phật. A là viên ngọc bất sinh của sự thuần khiết hoàn hảo. Ru là lời giải thích thông suốt về những bệnh tật có ảnh hưởng đến chúng sinh. Ra là quả trái của lòng từ bi. 8 cạnh của cây tượng trưng cho 8 cấp độ con đường của các bậc thánh trí. 8 mặt tượng trưng cho sự thanh lọc 8 mê đắm. Gốc rễ tốt tượng trưng cho hiện tượng vạn pháp hiện hữu có thể được dập tắt! Đầu mở rộng chỉ ra những phẩm chất cao quý rộng mở. Vỏ bên ngoài se, cay và đắng giúp loại bỏ tất cả các loại chất độc. Vỏ bên trong chua giúp loại trừ tất cả các bệnh tật. Đây là một chất liệu làm hoan hỷ tất cả các đấng chiến thắng. Thân trong cùng của cây trống rỗng, chỉ ra rằng ý nghĩa tuyệt đối của tất cả các pháp tương thuộc là sự trống rỗng. Thân cây rộng và vỏ cây được xếp lớp, chỉ ra rằng các pháp trong luân hồi cần phải được dần dần loại bỏ. Những bông hoa phong phú tượng trưng cho một thực tế rằng trí tuệ thấm nhập khắp tất cả các pháp. Trong nhiều cách thế này, cây Arura hiện thân cho những phẩm tánh cao cả, phi phàm và có nhiều dược tính!"

 

Khi được hỏi về giá trị của cây, cô trả lời rằng, nếu bán ra, nó sẽ có giá trị như vàng ròng, nếu người ta có vàng mà không trân quý nó như sự giàu có, thì đây là một dấu hiệu của sự hiểu biết hạn hẹp. Khi nghe điều này, Mandarava biết rằng đó là lúc để mình nghiên cứu khoa học về y dược. Cô bắt đầu cùng một lúc. Dược sĩ Ratna được mời vào cung điện để trở thành giảng viên. Đầu tiên, cô thực hiện một cuộc khảo sát kỹ lưỡng của các tantra (mật điển) y học. Sau đó, cô đã học trong bốn mùa, 11 thay đổi trong năm nguyên tố, 21.600 nguồn năng lượng thiết yếu và tất cả mọi văn bản gốc, nhánh tương ứng, bao gồm cả bộ Bốn Chu Kỳ Mẹ và Con, 7 Gốc phi thường, và v.v... Những nghiên cứu của cô được mở rộng triệt để và rốt ráo. Đối với các ngành khoa học về thời tiết, cô nghiên cứu ánh sáng, mây, độ ẩm, các hạt nguyên tử, màu sắc cùng vòng chu kỳ thủy triều. Cô nghiên cứu 18 tantra trong tất cả sự liên hệ về chủ đề này. Cô cũng học các nguyên nhân, điều kiện và quá trình phát triển của thai nhi trong bụng mẹ. Katitsa và các bản văn khác giải thích các nội tạng đặc và rỗng được khảo cứu. Cô hoàn toàn thấu hiểu tất cả 100 chương của tantra gốc. Sau đó, cô đã học các tantra về những chỉ dẫn những thực hành thành tựu tương ứng. Những kinh văn khác về chủ đề y học mà cô đã nghiên cứu bao gồm 500 Kinh Văn Phụ Trợ của Các Bậc Thánh Nhân, Kinh Văn Y Học Ajita trong 100 chương, và 5 văn bản về sự buông bỏ. Cô trở thành một học giả vĩ đại về y học.

 

Một buổi sáng sớm, khi cô đi lên đỉnh cung điện, cô nhìn thấy nhiều người từ nhiều nền văn hóa tập trung ở khu vườn phía tây. Trong số đó có một tu sĩ nghèo cầm một cây gậy. Ông tên là Arnapa. Nhiều người bắt đầu hỏi ông câu hỏi. Một số người không thể hình dung ra ông đang nói gì; một số người khác hiểu ông rất rõ ràng. Những cuộc thảo luận tiếp tục dẫn đến sự nhầm lẫn nhiều hơn, và rõ ràng là không đi tới đâu.

 

Một cô gái trẻ đã hỏi người tu sĩ nơi ông tu tập để phát triển kiến thức của mình. Ông trả lời rằng ông đã nghiên cứu hầu như tất cả các môn học, nhưng cụ thể là ông đã thể hiện nhiều trang trong một văn bản chiêm tinh của cô, giải thích rằng ông nghiên cứu vấn đề này một cách chi tiết, cụ thể. Ông nói với cô gái rằng nếu cô là người thông minh, cô cũng nên nghiên cứu theo cách này. Cô gái trả lời rằng đây là những điều cô đã biết. Cô đã nghiên cứu triệt để chu kỳ của bốn mùa, sự tương ứng trong 12 tháng với nam giới và nữ giới, vòng chu kỳ 24 giờ trong ngày, sự tan rã của thời gian, và làm thế nào chu kỳ của 21.600 hơi thở hoàn tất. Cô tiếp tục nói rằng cô cũng đã nghiên cứu các chu kỳ trắng và đen của khoa chiêm tinh[42] trong sự trọn vẹn của chúng.

 

Tất cả điều này không làm vừa lòng nhà sư. Ông lên án cô gái vì đã nói năng huyên thuyên như kẻ ba hoa. Ông cáo buộc cô làm sai lệch sự hiểu biết của mình và thổi phồng lời nói mình lên quá nhiều, đó là bằng chứng rằng cô không thể nào làm chủ được những chủ đề như vậy. Trước lời sỉ nhục của ông, cô gái trẻ trả lời: "Những hướng dẫn bí truyền về khoa chiêm tinh cũng giống như một kho tàng như ý. Làm sao một người không có trình độ như ông lại biết về nó được? Bên trong văn bản trí tuệ của Đức Sarasvati , có những hướng dẫn đặc biệt về khoa chiêm tinh, trong đó làm rõ những kết quả nghiệp báo từ chân lý tương đối, trong khi mật điển Kalachakra thảo luận về chủ đề của chân lý tuyệt đối bất biến. Văn bản trí tuệ của Đức Sarasvati này du dương tựa âm thanh của cây đàn vina. Từng phần của nó đẹp như một vũ điệu nghệ thuật trên trang giấy. Luận thuyết tuyệt vời này làm sáng tỏ cả điều tuyệt vời lẫn tiêu cực và lừng danh trong hàng ngàn cách biểu đạt. Nó là một vật trang hoàng cho những tâm thức may mắn, diễm phúc nhất, nếu một người không có sự bảo vệ, lang thang dễ bị tổn thương trong tình trạng ảo tưởng, thì hãy chỉ đơn giản liên hệ với những kinh văn giàu có vĩ đại này để hoàn thiện trí tuệ nguyên sơ siêu việt. Sau tất cả, đây không phải là học thuyết quý giá của Đức Phật hay sao?" Sau khi cô nói vậy, vị sư trở nên tức giận và đáp: " Ai biết được nếu giáo lý của Đức Phật sẽ được trao cho một người như cô?" Sau đó, ông ta nhanh chóng bỏ đi.

 

Mandarava sau đó nói với hoàng hậu những gì cô đã thấy và nghe. "Trong khu vườn phía tây của cung điện, nhiều người đã tụ tập. Trong số đó có một trinh nữ trẻ trung. Những phẩm chất của cô rất đáng kinh ngạc mà con cảm thấy có một ước muốn mạnh mẽ gặp cô ấy." Hoàng hậu đã cho phép cô, và Mandarava đã ngay lập tức đã tìm thấy cô gái. Khi gặp cô gái, Mandarava nói, "Cô là một cô gái cực kỳ thông minh. Ai là cha mẹ cô, giai cấp của cô là gì, và vì sao cô lại đến đây?" Cô gái trả lời: "Cha tôi là Righe Sawalha. Mẹ tôi là Lhamo Yukye. Dòng dõi của tôi là dòng dõi các vị thần Mingpo Dawa. Tôi 16 tuổi, và tên tôi là Palmo Shonu. Tôi 17 tuổi, tôi sống ở vùng phía tây xứ Zahor, gần thành phố Vườn Cam Lồ".

 

Mandarava thỉnh cầu cô gái dạy cho mình mọi thứ cô biết. Cô gái trả lời: "Mặc dù sự tu tập Pháp của tôi yếu kém, nhưng tôi đã có cơ hội nghiên cứu văn học thiêng liêng về chủ đề chiêm tinh từ cha tôi. Tôi đã đạt được một ý thức mạnh mẽ về sự tự tin trong các nghiên cứu của mình. Nhưng, bên cạnh đó, tôi biết rất ít. Nữ thần, thực sự nghi ngờ khi tôi là một ứng viên thích hợp để có thể trở thành thầy cô. Tuy nhiên nếu cô tha thiết, tôi sẽ làm hết sức mình để trao truyền cho cô những gì tôi có thể."

 

Mandarava trở về với hoàng hậu. "Hỡi con gái trong trái tim ta," hoàng  hậu nói "Con đã nói chuyện với ai vậy?" Mandarava trả lời: "Thưa mẹ, có một cô gái tuyệt vời, cô là con gái của Rigche Sawalha, thuộc dòng dõi thần linh. Tên cô là Palmo Shonu. Cô đã tranh luận với một nhà sư về chủ đề chiêm tinh học và đã đánh bại ông. Cô có sự huân tập trước đó trong các kinh văn và được học cao trong khoa chiêm tinh. Con thỉnh cầu cô ấy là thầy của con về chiêm tinh."  Hoàng hậu đã trả lời là bà nghĩ rằng nhà vua sẽ không bao giờ cho phép một người bình thường hướng dẫn cho con gái mình, và có thể sẽ tốt hơn nếu họ mời một vị học giả về khoa chiêm tinh đến cung điện để thay thế. Mandarava trả lời: "Các vị thầy nam giới thì rất nghiêm khắc và độc đoán, rất khó để học hỏi từ họ. Con muốn có một cô giáo, những người sẽ nhẹ nhàng hơn."

 

Sau đó, hoàng hậu đi gặp nhà vua để thưa chuyện. Bà nói với ông rằng Mandarava có mong muốn nghiên cứu khoa chiêm tinh như thế nào và cô có ý nguyện mời người nữ trẻ này dạy cho mình. Quả nhiên, nhà vua cảm thấy mạnh mẽ rằng người dạy cho công chúa phải ngang bằng với cô trong vai vế và giai cấp. Ông đã quyết định mời một bậc linh thánh đến cung điện để thỉnh ý. Sau khi kiểm tra cẩn thận, bậc linh thánh tuyên bố rằng người con gái của Rigche Dawalha là một hóa thân của một Dakini và rằng sẽ rất tốt khi cô ở lại vĩnh viễn bên công chúa Mandarava. Cô có định mệnh để cuối cùng trở thành đệ tử chính của Mandarava. Sau lời tiên tri này, cô gái Palmo Shonu đã được mời đến hoàng cung. Cô trở thành một thành viên trong đoàn tùy tùng của Mandarava và cô đã dạy cho công chúa tất cả mọi thứ cô biết về chiêm tinh học. Sau một thời gian, Palmo đã thọ nhận những giới nguyện tu sĩ và vẫn ở cùng với Mandarava sau đó.

 

Vào lúc này, có nhiều kẻ dị giáo trong xứ Ấn, do đó nhà vua đã ra lệnh cho Mandarava nghiên cứu nghệ thuật luận lý logic. Ông thỉnh cầu vị thầy trước đây của cô là Atashi trở lại dạy biện chứng cho cả Mandarava và Palmo. Ông là một bậc thầy cả về giáo lý ngoại và nội ngũ minh. Mandarava đã nghiên cứu cho đến khi những phẩm chất cao quý của cô vượt trội hơn bất kỳ ai khác. Cô cũng đã học nghệ thuật và công xảo minh cùng huyền thuật. Làm chủ từng bộ môn khoa học đã tồn tại ở Ấn Độ vào thời điểm đó, cô trở thành một học giả không có đối thủ.  

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 18 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể về cách ngài hoàn thiện những bộ môn khoa học bên ngoài  

       

19. Giải Thoát Kẻ Dị Giáo Kyabsal Nagpo 

 

Sau đó, một trong những bậc thầy dị giáo nổi tiếng nhất đã du hành đến đất nước Ấn Độ, Gautala. Hắn đã rất thiện xảo trong nghệ thuật tranh luận đến nỗi không một học giả Phật Giáo nào có thể đánh bại hắn. Vị vua Phật Giáo của xứ đó, đức vua Charj, trở nên bị xáo trộn bởi sự hiện diện của hắn ta trong vương quốc. Tuy nhiên, khi bậc thầy vĩ đại Drime Yeshe tiết lộ một tiên tri quan trọng về Đức Dorje Phagmo nhà vua đã rất đỗi vui mừng.

 

Lời tiên tri tuyên bố rằng, như kết quả của những lời cầu nguyện tiêu cực, vị thầy dị giáo lừng danh được biết đến như là Kyabsel Nagpo, trên thực tế là một hóa thân của một con quỷ. Lực lượng từ những lời cầu nguyện tiêu cực của hắn mạnh mẽ đến mức không ai có thể đánh bại hắn trong khả năng biện tài. Những năng lực kỳ diệu của hắn phát triển đến mức những người khác không thể đuổi kịp. Theo lời tiên tri, chỉ có một người mới có năng lực phá vỡ những khát vọng nghiệp tiêu cực này. Người đó được tìm thấy trong vùng phía Đông Bengal, và cô là Công Chúa đáng kính của xứ Zahor, bậc Dakini trí tuệ nguyên sơ Mandarava. Vào lúc 13 tuổi, Mandarava đã tu tập và làm chủ hoàn toàn tất cả các ngành khoa học - cô là một Dakini hóa thân, không bị nhiễm ô do ảnh hưởng của tử cung thai tạng. Lời tiên tri nói rằng cô là một bậc hiển lộ những năng lực kỳ diệu vĩ đại và rằng bất kỳ ai muốn nhận được những ân phước từ Đức Dorje Pagmo thì nên có mối liên hệ với cô.

 

Khi nghe được lời tiên tri này, Đức Vua Charje cùng các bộ trưởng của ông đã triệu tập và ngay lập tức biên một lá thư thỉnh mời để gửi đến vị vua xứ Zahor. Bức thư nói: "O hỡi đức vua xứ Zahor, sở hữu quyền năng to lớn, sự giàu mạnh và quyền lực, những hoạt động của kẻ dị giáo Kyabsel Nagpo đã trở nên giống như một ngọn lửa độc hại. Quan điểm tiêu cực của hắn thiêu đốt các giáo lý Phật Pháp của 5 bậc thầy ở Gautala.  Hành xử của hắn ta giống như một khối lửa phiền não bùng cháy. Theo lời tiên tri về Đức Dakini, thuốc giải độc chỉ đủ mạnh để dập tắt ngọn lửa của mình là cam lồ năng lực đến từ Đức Công Chúa Mandarava, con gái ngài. Xin ngài, từ lòng thiện tâm lớn lao của mình, hãy gửi cô ấy tới cho chúng tôi càng sớm càng tốt!"

 

Bức thư này đã được chuyển tới nhà vua xứ Zahor, và nhà vua, hoàng hậu cùng các bộ trưởng, tất cả đã tụ tập lại để thảo luận. Sau đó, họ báo cho Mandarava về nội dung bức thư. Cô đồng ý rằng mình phải ngay lập tức đi tới xứ Gautala. Được trang hoàng trong trang phục tốt nhất, Mandarava lên đường cùng đoàn tùy tùng của mình.

 

Khi tới nơi, nhà vua Charje, các bộ trưởng của ông, đoàn tùy tùng cùng toàn bộ vương quốc chào đón cô với sự kính trọng và tôn vinh lớn lao. 5 tên dị giáo nổi bật nhất đã cùng tụ hội để tranh luận với Mandarava. Cô dễ dàng đánh bại họ và chiến thắng của cô được công bố toàn khắp.


Sau đó, Kyabsel Nagpo năng lực đích thân tiếp cận và thách thức cô tranh luận về ý nghĩa bên trong của 6 luận thuyết, quan điểm sai lầm. Cô chấp nhận thách thức của hắn và tiếp tục đánh bại hắn một cách dễ dàng. Sau đó hắn đã chế nhạo, gọi cô là một người nữ với một cái miệng khôn khéo, kẻ mặc nhầm trang phục của một người mang những đặc tính cao quý. Hắn nói, hơn nữa, nếu những tin đồn về khả năng kỳ diệu của cô là đúng, thì hắn thách thức cô biểu lộ chúng.

 

Cô chấp nhận thách thức, và, khi hắn đột nhiên bay vào không trung, Mandarava đã kết ấn đe dọa, và hắn ta đã bị rơi xuống từ bầu trời như một hòn đá. Vẫn tin rằng mình có thể đánh bại cô, hắn tạo ra một cơn bão lớn của mưa đá và thiên thạch, với chín torma thiên thạch.[43] Vị Dakini bắt một thế ấn và mưa đá cùng mưa sấm sét đều tan biến ở ngay nơi chúng hiện ra. Vẫn tin rằng còn có thể thắng được cô, kẻ dị giáo đã đi bộ qua sông Hằng nhẹ nhàng như một chú chim. Đức Dakini liền vỗ tay, và lập tức hắn bị chìm nghỉm trong nước như thể một hòn đá. Sau đó xuất hiện lại, hắn vẫn gan lì, dụ dỗ cô tranh  đấu với hắn bằng cách tuyên bố rằng mình còn nhiều năng lực kỳ diệu khác. Đột nhiên 6 kẻ dị giáo hóa thành 8 con sư tử tuyết, những ngọn lửa hung bạo phóng ra từ miệng chúng, và các luồng gió đỏ được phun ra từ lỗ mũi chúng. Những con sư tử tuyết gầm lên, "Chúng tao sẽ tiêu diệt mày, người nữ ma thuật kia." Tất cả đều nhảy chồm chồm trước Mandarava, cảnh tượng này khiến nhà vua và tất cả đoàn tùy tùng của ông đều thở hổn hển trong sợ hãi. Vào lúc đó, Đức Dakini hét lên một âm HUM duy nhất. Tám con sư tử tuyết đều bị giảm kích thước xuống thành chó. Một lần nữa, 6 kẻ dị giáo xuất hiện.

 

Bỗng nhiên, một cơn mưa xối xả chất độc trút xuống trên nhà vua và đoàn tùy tùng của ông. Đức Dakini liền thực hiện thực hành tịnh hóa hơi thở, ngay lập tức, cô làm đảo chiều cơn mưa độc dược, khiến nó trừ khử ngay 3 xứ sở dị giáo. Tên thầy dị giáo vẫn ngoan cố chế nhạo Đức Dakini, hắn nói với cô là không đủ để hiển lộ năng lực của cô chỉ bằng cách ngồi đó, nếu cô thực sự là một nhà huyền thuật, cô phải chứng minh rằng mình có thể bay. Khi nói điều này, hắn đã biến hóa ra một cây giáo đe dọa, từ đó một cơn mưa mũi tên xuất hiện. Đức Dakini bèn bay vút vào không gian, bắt được mũi tên trong tay và ban phước cho chúng, rồi gửi chúng trở lại về phía con quỷ, nơi chúng lao vào những kẻ dị giáo. Gào khóc vì đau đớn, chúng rơi xuống từ bầu trời, và khi rơi xuống đất, chúng đều bất tỉnh và trút hơi thở cuối cùng. Với hành động kỳ diệu cuối cùng, những kẻ dị giáo đã hoàn toàn bị đánh bại. Tất cả những người theo chúng còn lại đều được đưa vào con đường Phật Pháp.

 

Sau đó Đức Dakini trở nên lừng lẫy với thánh hiệu "Nữ anh hùng thuần hóa những kẻ dị giáo một cách kỳ diệu". Nhà vua cùng tất cả thần dân của ông đã cúng dường lên cô. Ở lại thêm một thời gian trong vương quốc của họ, Mandarava đã nghiên cứu Tứ Diệu Đế và phát nguyện Bồ tát với bậc thầy Drime Yeshe. Cuối cùng cô trở về vương quốc của mình ở Zahor và tiếp tục nghiên cứu Phật Pháp dưới sự chăm sóc cao quý của cha mẹ mình.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 19 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách Mandarava đánh bại và giải thoát 

kẻ dị giáo Kyabsel Nagpo cùng những kẻ đi theo hắn.     

20. Dẫn Dắt 300 Người Nữ Tôn Quý Đến Với Pháp 

 

Mỗi ngày một lần, vua xứ Zahoor thường đi lên đỉnh cung điện, ở đó ông quan sát những hoạt động diễn ra bên ngoài cánh cổng hoàng cung. Ông thường xem những cuộc thi đấu khác nhau đang diễn ra và đánh giá từng môn thể thao. Nếu yêu thích môn nào, ông sẽ ca ngợi nó, và nếu không thích nó, ông sẽ chê bai nó. Tất cả thần dân của vương quốc đều buộc phải chấp hành kỷ luật nghiêm ngặt dưới con mắt thận trọng của ông. Trong suốt thời gian này, hoàng hậu với gia đình và đoàn tùy tùng của bà tắm rửa và sau đó mạo hiểm đi ra bên ngoài ranh giới cung điện, trang điểm thêm quần áo đẹp và đồ trang sức.

 

Một ngày nọ, Mandarava muốn ra ngoài đi dạo. Cô bảo nhóm những cô gái tùy tùng của mình là họ có muốn đi cùng không. Họ trả lời là muốn, và tất cả đã chuẩn bị cùng nhau lên đường trong một chuyến đi dài. Sau khi đi qua một khu rừng rậm rạp, họ đến một chiếc hồ lớn giữa một ngọn núi và thung lũng. Mandarava bắt đầu trực tiếp đi đến đầu hồ nước. Sau đó, cô sắp xếp nhóm của mình như sau: "Những cô gái trẻ đã quyết định đi cùng tôi tới đây, hãy lắng nghe những gì tôi nói. Điều gì trong thế giới này của chúng ta mang đến cho các bạn niềm vui? Các bạn thực sự mong muốn thực hiện điều gì? Hãy trả lời?"

 

Những người nữ trả lời: "Mong ước lớn lao nhất của chúng tôi là được trở thành giống như cô, hỡi nữ thần Mandarava. Chúng tôi mong ước được ở trong giai cấp quý tộc, thừa hưởng sự giàu có và hoàng tộc. Nếu chúng tôi kết hôn, chúng tôi chỉ mong muốn kết hôn với một hoàng tử thuộc gia đình hoàng gia và sống hạnh phúc mãi mãi về sau trong cung điện lớn lao với mái vòm chín tầng!"

 

Sau khi nghe điều này, Mandarava đã bảo họ hãy lắng nghe cẩn thận: "Mỗi người trong các bạn nên quán xét tâm thức chính mình, hãy xem làm thế nào mà các bạn đã lãng phí cuộc đời của mình với những nhu cầu và mong muốn. Hỡi những cô gái vô tư, hãy giữ vững tâm thức các bạn! Chúng ta, những người nữ đã thiết lập những hạt giống của vòng luân hồi sinh tử với khao khát như vậy đằng sau những thú vui tầm thường. Dù cho các bạn có thể có sắc đẹp đến thế nào thì tuổi thanh xuân và vẻ đẹp của các bạn cũng là ảo huyễn. Bởi ngay cả những điều kiện nhỏ nhất cũng có thể khiến các bạn rơi vào cõi thấp: Đầu óc và đôi mắt các bạn, cả hai đều quá mục nát tới nỗi các bạn thậm chí không thể thấy sự cần thiết của Giáo Pháp quý báu! Các bạn có thể dễ dàng bị thuyết phục và dụ dỗ bởi những người đồng hành tiêu cực, những người sẽ dẫn các bạn vào địa ngục. Các bạn sẽ bỏ lại thân thể của mình và thậm chí cả cuộc đời các bạn cho người chồng của mình, nhưng sau một thời gian, các bạn sẽ mất kiểm soát và bắt đầu không ngừng tranh cãi, cãi vã lẫn nhau, và các bạn sẽ trải nghiệm đau khổ thậm chí còn lớn hơn những cư dân của vương quốc bán thiên atula đầy ganh tị. Nỗi đau khổ của sinh tử thật ngoài sức tưởng tượng của các bạn.

        

"  Hãy xem xét những cách thức mà nghiệp quả mang lại quả trái. Tất cả mọi nguồn lực, sự giàu mạnh và những của cải của thế giới này thì tựa như một ảo ảnh hay một giấc mơ, thực sự chúng không chút tồn tại. Vẻ đẹp và mọi nguồn lực thì tựa như một cầu vồng tan biến trong không gian. Mặc dù chúng có mặt lúc này, nhưng chúng không bao giờ có thể là vĩnh viễn cả. Một cung điện chín tầng được trang hoàng với năm viên ngọc báu thì tự bản nó đã là một ảo ảnh huyễn hóa rồi vì nó đã tiềm ẩn nguyên nhân cho sự sụp đổ. Tuổi trẻ và sắc đẹp thì tựa một bông hoa mùa hạ, không thể chịu đựng nổi sự tấn công của tuổi già và bị phá hủy bởi màn sương giá đầu tiên. Lụa là đắt tiền và đồ trang sức thì cũng giống như những giọt sương trên cỏ non. Mặc dù hiện diện lúc này, nhưng chúng biến mất ngay lập tức với những cơn gió mạnh đầu tiên. Tất cả mọi cuộc tụ họp của người thân, bạn bè và tùy tùng thì giống như những lãng khách trong một cái chợ. Một chốc lát họ tụ tập, rồi một thời khắc kế tiếp họ chắc chắn sẽ chia rời. Bản chất cuộc đời chính các bạn cũng tựa như một ngọn nến đang cố gắng chịu đựng trước một cơn gió mạnh: không có cách nào để xác định được là khi nào nó sẽ bị dập tắt cả, và nó cần phải được bảo vệ thật cẩn trọng. Quyền lực và danh tiếng thì tựa như một tiếng gầm sấm sét trên bầu trời: có thể nghe thấy một lúc, nhưng rồi chúng cũng đều trở thành một tiếng vọng vô nghĩa. Tuy nhiên các bạn hãy nhìn vào nó, tất cả điều này còn ít cần thiết hơn một đống mảnh vụn vỡ nữa.

 

"  Nguyên nhân của sự hoại diệt tâm thức là sự theo đuổi vô ích những nhận thức vô nghĩa và nhầm lẫn. Sự đau khổ của việc sinh ra trong thế giới này thì giống như bị giam cầm trong một nhà tù có hàng rào sắt. Việc tái sinh không ngừng dứt trong các cảnh giới hiện tồn còn tồi tệ hơn việc ở lại trong 18 tầng địa ngục. Sự đau khổ của tuổi già thì giống như một con chim già cỗi vĩ đại bị mất đi bộ lông của mình: Tuổi trẻ, nhân phẩm và sức mạnh đều không tránh khỏi việc suy giảm. Các bạn thậm chí còn không thể trốn thoát với cái giá của một cây kim. Sự đau khổ của bệnh tật giống như rơi vào một hầm lửa. Thậm chí còn không có nổi một cơ hội nào cho một phút giây hạnh phúc khi nó cảm thấy như thịt và xương đang bị rút ra. Sự đau khổ của cái chết thì giống như một tảng thiên thạch lớn rơi xuống từ bầu trời: không ai có thể giúp ích gì cho các bạn, và hoàn toàn không có cách nào trốn thoát cả. Sự đau khổ trong bardo thì giống như bị bao quanh bởi một đội quân thù địch.

 

"  Không có phương pháp nào có thể hữu dụng, trừ việc tích tập công đức. Than ôi! Những thiếu nữ trẻ trung, các bạn phải suy nghĩ thật chín chắn! Chỗ ở và những nguồn lực của các bạn đang có chỉ là sự lừa dối của Ma Vương Mara, nó chỉ dẫn các bạn đến sự si mê thêm nữa. Những người thân và bạn bè của các bạn đều là ma quân hộ tống các bạn. Tất cả những ràng buộc này đều là những chiếc còng trói chặt các bạn vào vòng sinh tử luân hồi. Những thú vui tạm thời của các bạn, những khoảnh khắc hạnh phúc thoáng qua của các bạn, tất cả rốt cuộc đều chỉ là nguyên nhân cho lễ kỷ niệm của đao phủ. Ngay cả thân thể thương quý của các bạn cũng chỉ đơn thuần là một bình chứa đầy chất thải ô trược. Nếu các bạn không kiên trì trong việc cúng dường tới các đấng chiến thắng, thì rồi việc trang điểm và xức dầu thơm lên cái bình chứa bất tịnh này cũng chỉ là một hành động ảo tưởng. Thân bất tịnh là sản phẩm của sự mơ hồ, lầm lạc nên nó không thể vượt qua được tình trạng khó khăn của nghiệp báo này. Đây là kết quả của sự yêu mến và bám chấp vào chính cơ thể mình. Thân thể các bạn đang sở hữu rồi sẽ tan rã. Dù trong bất cứ cách thế nào các bạn khảo sát nó, thì nó đều không có gì là thật hay đúng cả. Tất cả những gì thuộc về thế gian này đều là nguyên nhân gây ra sự lầm lạc, mơ hồ.

 

"  Bằng cách suy nghĩ theo hướng này, các bạn sẽ xoay chuyển tâm mình hướng tới Giáo Pháp quý báu như con đường của mình. Không chút bối rối, các bạn sẽ kiên định với sự rõ ràng, sáng tỏ nhờ sử dụng ba cửa của mình[44]nhằm thực hiện điều đó một cách lợi lạc. Hỡi những thiếu nữ trẻ, hãy xem xét cuộc đời tương lai của các bạn! Sau đó hãy đi vào truyền thống tâm linh này, đó là con đường của Mandarava".

 

Sau khi nhận được chỉ dẫn riêng của cô, tất cả bọn họ đều phát Bồ tát nguyện để được giải thoát. Sau đó, từng người một trong số họ đều duy trì con đường đức hạnh, mang đức hạnh và điều thiện lành đến cho vương quốc. Lúc này trên con đường Phật Pháp, họ dần dần xây dựng lên một ngôi đền, và Mandarava dạy họ kinh sách của ba thừa.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 20 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách ngài dẫn dắt 300 thiếu nữ cao quý  đi tới con đường Giáo Pháp     

21. Cái Chết Của Hoàng Tử Pawode 

 

Mandarava, người con gái của chư thần, tiếp tục hy sinh bản thân chỉ vì hạnh phúc của chúng sinh và thực hiện lợi ích cho họ theo ý định giác ngộ của cô. Cô thể hiện sự hào phóng với những người yếu kém và thiếu thốn bằng hạnh bố thí và bất cứ thứ gì được thỉnh cầu, cô đều tìm cách đáp ứng. Cô không bao giờ hành xử chính mình trong một cách thế không thích hợp. Lời nói cô nói ra luôn làm hài lòng mọi người, hành xử của cô luôn hài hòa với bất cứ ai cô gặp. Vẻ mặt cô lúc nào cũng an bình và chu đáo; cô luôn bày tỏ lòng nhân ái tới những người có vị trí thấp hơn mình. Cô nhìn lên những hành vi tiêu cực của người khác với sự quan tâm bi mẫn. Cô có niềm tin bất biến, sự tôn kính cùng lòng sùng mộ lớn lao đối với những vị thầy tâm linh của mình. Ngoài ra, cô cũng biểu hiện sự tôn kính lớn lao dành cho cha mẹ mình, nhà vua và hoàng hậu, và cô luôn luôn tán thán những người đã tích tập công đức và đức hạnh lớn lao. Ngay cả những đặc tính yếu kém nhất của mình, cô cũng tận dụng tối đa tiềm năng của chúng. Cô thực sự vô tư trong thái độ của mình đối với tất cả mọi người, cho dù người đó là cao hay thấp. Và cô luôn luôn vui vẻ và cẩn trọng trong bất cứ điều gì mình làm. Với sự sáng suốt và thiện xảo, cô luôn biểu hiện sự tôn trọng lớn lao dành cho những đối tượng tôn kính và xứng đáng được cúng dường, trong khi chính bản thân cô cũng có một kho tàng những phẩm tánh vinh quang, cao thượng. Cô đã hoàn toàn từ bỏ tâm thức bám luyến và tham dục, và thậm chí nếu một phẩm chất đức hạnh là nhỏ hay thứ yếu, thì cô cũng sẽ nắm bắt lấy nó, tán thán giá trị của nó và hoan hỷ trong sự tích tập nó. Niềm tin và sự tự tin cá nhân của cô không chút do dự, xao động cũng không tầm thường. Cô luôn theo đuổi con đường thuần khiết và - tùy thuộc theo sức mạnh cùng khả năng tu tập của mình với nó. Sự nỗ lực nhiệt huyết của cô duy trì không chút lay chuyển khi cô tận lực dâng hiến hết bản thân mình trong sự thực hành. Bằng cách này, những phẩm tánh cao quý của cô đã trở thành lớn lao không thể nghĩ bàn. Trong thực tế, không ai có thể tranh đua được với đức hạnh của cô.

 

Một ngày cô đến gặp vua cha của mình, cô thỉnh cầu ông lắng nghe những lời tôn kính cô dâng lên. "Kye ma! Người cha đầy kinh ngạc vô thượng của thiện tâm vĩ đại, sức mạnh và quyền lực của cha tương đương với một bậc Chuyển luân thánh vương). Hoạt động của những bậc thừa kế chư Phật là đức hạnh tuyệt diệu được tán thán bởi tất cả những đấng giác ngộ. Nghĩ về đức hạnh như vậy, con khao khát được dấn thân vào đạo hạnh của các bậc linh thánh. Con sẽ không bao giờ ở lại trong vũng lầy của vòng luân hồi sinh tử. Ước nguyện duy nhất của con là được thọ giới nguyện xuất gia và đắp y áo Tăng đoàn. Bằng cách duy trì giới luật với những lời nguyện đức hạnh, con dự định đi vào cánh cửa Pháp Luân đã được xoay chuyển và sống cuộc đời của mình trong phạm vi một tu viện."

 

Sau khi lắng nghe những lời nói từ trái tim cô, nhà vua vẫn không cho phép cô theo đuổi con đường đích thực của mình. Thay vào đó, ông nói với cô là hãy dành thời gian ban ngày để phục vụ và tham gia vào những yêu cầu của mẹ mình. Và cô đã thực hiện đúng như cha yêu cầu và trở thành một người phụng sự theo cách này. Vào ban đêm, cô cố gắng không ngủ để kiên trì trong thực hành Pháp của mình.

 

Rồi một ngày, người con trai duy nhất của gia đình hoàng gia là Hoàng Tử Pawode bất ngờ qua đời. Nhà vua và hoàng hậu tan nát cõi lòng và bị rơi vào tình trạng đau thương dữ dội. Cố gắng vượt qua nỗi đau, nhà vua chạm đầu mình vào thi thể của người con trai, ông buồn đau thốt lên: "Than ôi! Thật đau đớn xiết bao khi mất đi người con trai duy nhất của mình! Trước đó, ta đã là một vị vua với công đức vĩ đại! Ta sở hữu tài sản và những ưu thế lớn mạnh, và ta đã có một đứa con trai cùng 3 người con gái. Ta yêu thương và trân quý chúng còn hơn cả đôi mắt và con tim chính mình. Nghiệp quả sinh tử mang lại bất hạnh làm sao và thật khó khăn làm sao! Tại sao điều này lại có thể đã xảy ra với ta chứ? Bây giờ chúng ta, những người cha mẹ phải chịu đau khổ nhiều nhất. Ta cảm thấy như thể trái tim mình bị căng ra và ném mạnh trên mặt đất. Than ôi! Ta sẽ làm gì với thân thể với một lồng ngực trống rỗng khi sinh lực thiết yếu của nó đã bị xé nát như  thế này đây? Ta cảm thấy dương như đôi mắt mình đã rơi xuống mặt đất. Với những phần thân thể quan trọng nhất của mình đã bị mất đi, làm sao ta có thể tiếp tục sống đây? Khi một thanh kiếm sắc bén chặt đứt cánh tay ra khỏi thân thể, cái gì còn lại để làm với các uẩn đây? Nếu không có hai chân, làm sao ta đi được đây? Mặc dù cung điện này có 9 tầng mái vòm và nó lộng lẫy vượt mức suy tưởng, nhưng có ích gì nữa khi không còn con trai của ta ở trong nó nữa? Tất cả mọi của cải, thuận cảnh và những đối tượng hưởng thụ ta đều có đủ cả, nhưng không còn ai kế vị nữa, ai sẽ giúp ta vượt qua tất cả những điều này bây giờ? Có nhiều gia nhân và thần dân để cai trị và duy trì, nhưng không có một người thừa kế, đất nước này sẽ trở thành gì đây? Con trai ta, con cũng giống như trái tim chính ta vậy, con đã ra đi vĩnh viễn rồi. Cha mẹ con phải làm gì bây giờ khi không có con đây? Than ôi, ta quá đau buồn, không thể tin được". Than thở đầy thương tâm như vậy, nhà vua gục ngã và khóc như mưa không thể kiểm soát.

 

Sau đó, hoàng hậu cũng khóc lên trong đau khổ: "Than ôi! Nỗi buồn đau của ta cảm nghiệm thật không thể chịu đựng nổi! Nó cũng giống như trái tim trong lồng ngực ta bị cắt đứt! Điều gì có thể là nguyên nhân cho quá trình chín mùi nghiệp như thế này chứ? Làm sao mà con trai chúng ta lại trở thành một đối tượng của lòng thương tiếc như vậy? Nó là hậu quả khủng khiếp do nghiệp chướng của chúng ta, hay một lực lượng tiêu cực nào khác đã làm việc này đây? Con trai chúng ta, người tựa như đôi mắt của chính ta, đã biến mất trước ta như một cầu vồng tan biến vào không gian. Ta nghĩ  gì đây khi bị bỏ rơi trong một cách như vậy? Con trai ta - tinh hoa thuần khiết trong trái tim ta – đã bỏ ta mà đi, người mẹ già của con, với một lồng ngực tan nát, trống rỗng. Không gì khác phải làm ngoài việc kết liễu cuộc đời của chính ta cả!" Khóc than những lời đau đớn này, bà ngất lịm đi.

 

Mandarava đi đến chỗ hoàng hậu và hồi sinh cho bà bằng cách thổi lên bà. Khi hoàng hậu tỉnh lại, Mandarava đã thỉnh cầu cả nhà vua và hoàng hậu hãy lắng nghe những gì con gái mình nói:

 

"  Trong thế giới này của chúng ta, không có gì là thường hằng và vĩnh viễn cả. Cuối cùng, tất cả những thứ được sinh ra rồi cũng sẽ phải hoại diệt. Ngay cả chính cái bình chứa bên ngoài là vũ trụ cũng sẽ phải bị hủy hoại. Tất cả chúng sinh được sinh ra trong thế gian này cuối cùng rồi cũng sẽ phải chết. Mọi cuộc họp mặt rồi cũng tới lúc phải phân ly, cũng giống như tất cả mọi tích lũy đều cũng phải đến hồi cạn kiệt. Cuối cùng, tất cả tuổi thanh xuân cũng sẽ giảm sút, và tất cả những gì được tạo ra rồi cũng sẽ lại bị phá hủy. Thậm chí ngay cả thân kim cương của Đức Phật, cũng không thể tồn tại mãi mãi trong thế giới này, Ngài đã minh chứng sự cần thiết phải siêu vượt lên để đi vào niết bàn.

 

"  Dù cho công đức nhà vua có vĩ đại thế nào, thì khi chết, nhà vua cũng phải chết trong đơn độc. Cha mẹ phải có niềm tin bền bỉ vào sự chín mùi của nghiệp, vì đây là bản chất cốt yếu của mọi sự, không có ngoại lệ nào, và nó chỉ cho chúng ta thấy mối quan hệ tương duyên phụ thuộc qua lại lẫn nhau của mọi hiện tượng vạn pháp. Hãy thấy nỗi đau và sự than khóc của cha mẹ là không có chút lợi ích nào cả. O hỡi cha mẹ, xin hãy hiểu được bản chất huyễn ảo của mọi hiện tượng phức tạp! Hãy thấu hiểu và tin rằng là không thể cho chính mình hay một ai khác có thể làm được bất kỳ điều gì trước cái chết của một người. Vì vậy, cha mẹ phải vượt qua đối tượng đau khổ của mình. Xin cha mẹ, cha mẹ thiện tâm vĩ đại của con, xin chấp nhận những lời khuyên này từ con gái của cha mẹ."

 

Sau khi nghe điều này, cả nhà vua và hoàng hậu đều thấy nhẹ nhàng và một chút an dịu từ đau khổ của mình. Họ trả lời rằng sẽ làm hết sức mình để đưa ý nghĩa những lời cô nói vào trái tim mình. 

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 21 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách Mandarava an ủi cha mẹ mình, nhà vua và hoàng hậu, trước cái chết của người con trai duy nhất của họ là Hoàng tử Pawode, và cách cô xua tan nỗi đau của họ nhờ Giáo Pháp.        

22. Đặt 500 Người Nữ Trên Con Đường Giải Thoát 

 

Trong năm sau đó, vương quốc xứ Zahor đã rơi vào thời kỳ khó khăn như bể nước vĩ đại lay động đến điểm mốc bùng nổ, không thể chịu đựng được những đợt gió mùa xối xả không ngừng dứt. Con sông lay động đến nỗi người dân thậm chí không thể đi trên nó bằng thuyền hoặc không thể băng qua những cây cầu bắc qua nó. Xứ sở trở nên bị tràn ngập trong nước. Tất cả những loài cá dạt vào bờ. Khi mưa lũ ứ đọng, nó trở nên bị ô nhiễm tới mức khó có đủ nước sạch để uống một tách trà. Nước mặn ngập úng toàn bộ đất đai. Ngoài ra, thời tiết trở nên xáo trộn, hệ quả là sét và mưa đá chiếm ưu thế. Những căn bệnh mới dần nảy sinh, và người dân bị mắc nhiều loại bệnh tật khác nhau.

 

Nỗi thất vọng và sự tức giận ngày càng gia tăng, mở đường cho cuộc tranh cãi nơi biên ải khiến chiến tranh nổ ra. Vua Anga xứ Bheta và vua xứ Zahor bắt đầu giao chiến với nhau. Những trận đánh khốc liệt xảy ra sau đó. Họ tiến hành chiến tranh ở biên giới hai nước bằng cách ném bom và truy sát nhau với các loại vũ khí mạnh mẽ. Những trận chiến trở nên khó chịu khi chúng lây lan như lửa cháy qua mọi thung lũng và mọi vùng miền của hai vùng đất. Điều này tất nhiên, làm tăng cường sự giận dữ và gây hấn vốn đang tồn tại. Mọi người bắt đầu giết hại lẫn nhau không chút thương tiếc.

 

Khi hận thù giữa hai nước leo thang đến sự cùng cực, người chị gái của chư thần Mandarava đã can thiệp bằng cách nói chuyện với vua cha mình, cô nói: "Kye ma! O hỡi đức vua giàu có và quyền lực vĩ đại lớn lao! Cha đã cực thiện xảo trong việc duy trì một nhà nước theo nề luật Giáo Pháp tôn quý. Vì vậy, con muốn biết là những hành động đáng hổ thẹn này xảy ra là do mệnh lệnh của cha hay từ các vị bộ trưởng? Ai sẽ chịu trách nhiệm cho các nghiệp xấu nặng nề đang dần tích luỹ? Ai có thể kiên nhẫn chịu đựng những tác động chín mùi của nghiệp khi cướp đoạt đi mạng sống những người khác? Thật hoàn toàn lầm lạc với những ai có thể đã tích tập nghiệp nặng vượt mức đo đếm! Cha có thể dành một chút thời gian để quán sát rằng với nghiệp quả như vậy nó sẽ chắc chắn khiến cha tiếp tục luẩn quẩn, vòng vo trong vòng tròn sinh tử? Hỡi vua cha, xin hãy xem xét ngay bây giờ một cách nào đó để đảo ngược ác nghiệp tiêu cực này. Là con gái của cha, con sẽ làm bất cứ điều gì cha ra lệnh cho con!"

 

Sau khi nghe lời cô nói, nhà vua hiểu rằng ông phải dùng một cách nào đó để giảng hòa với vua xứ Bheta. Và ông đã quyết định soạn một lá thư được đích thân Mandarava viết bằng mực vàng ròng. Những sứ giả của ông đã chuyển nó đi cùng với nhiều đồ trang sức cùng những cống phẩm quý giá tới nhà vua phía bên kia. Nhận được lá thư, vua xứ Bheta đã đọc lên như sau: "Hỡi đức vua vĩ đại, bậc duy trì và gìn giữ tất cả những gì được phú bẩm! Cuộc chiến giữa Bheta và Zahor thì giống như việc trải qua những đau khổ từ các cõi thấp ngay tại đây trong cõi người. Nguyện những tia sáng trắng sáng, mát dịu của mặt trăng nhanh chóng soi sáng bóng tối hận thù trong hai xứ sở này."

 

Khi vua xứ Bheta đọc xong bức thư, ông chỉ thị cho tướng quân Kari cùng đoàn tùy tùng gửi lại một bức thư do chính ông viết cho các binh sĩ trên chiến trường. Nội dung của nó như sau: "Vua xứ Zahor, các bộ trưởng của ông cùng toàn bộ đội quân của ông đã quay về với tình thương yêu bi mẫn từ trận chiến vô nghĩa này và kỷ niệm lễ ăn mừng chiến thắng nhờ phát huy Phật Pháp tôn quý! Hãy thu hồi vũ khí của các bạn và quay trở lại với người thân, với quê nhà riêng của các bạn! Hãy giương cao lá cờ chiến thắng của tâm thức bất nhiễm và xả bỏ cho nhau mọi chuyện! Cầu mong hòa bình và hạnh phúc được thắng lợi! Đây là mệnh lệnh của đức vua!"  Khi tuyên bố này được đọc, đa số tất cả mọi người đều hoan hỷ.

 

Sau đó, nhà vua xứ Bheta đọc to một lá thư khác bằng vàng ròng được gửi đến cho ông: "Hỡi đức vua hoàng kim quả cảm xứ Bheta với các bộ trưởng, quyến thuộc cùng đoàn tùy tùng của mình, bậc cai trị hùng mạnh và giàu có của một vương quốc với những thần dân vĩ đại! Biểu hiện chữ nhẫn to lớn, tâm ngài đã xoay chuyển từ ý niệm tranh đấu, và những tia sáng trắng thuần khiết từ những hoạt động thần kỳ của ngài được hiển hiện một cách rạng ngời. Nhờ mệnh lệnh của ngài, các loại vũ khí có thể làm hủy hoại chúng dân ngài đã được thu hồi lại, và an lạc được chiếm ưu thế trong mọi phương hướng!"

 

Nghe nội dung lá thư này, tất cả mọi người đều đồng tình và cảm nhận sự tôn kính sâu sắc. Quân đội cởi bỏ mũ giáp, và hòa bình được thiết lập lại như luật lệ của mảnh đất. Dần dần hai nước phục hồi lại sức mạnh của họ trên con đường chân lý sâu xa, và những lời nói hòa hảo dần chiếm ưu thế.

 

Người chị của chư thần Mandarava nói rằng cơ hội cho hạnh phúc thật sự giờ đây đã đến. Từ đó trở đi, Mandarava nhận lấy trách nhiệm dẫn dắt vô lượng chúng sinh trên con đường đức hạnh bằng cách xoay chuyển họ từ việc sát sinh hay thực hiện bất kỳ hành vi nào trong 10 điều phi đức hạnh[45].

 

Một ngày, cùng với một nhóm những người bạn đồng đạo đức hạnh, Mandarava ra ngoài đi dạo trong một vườn hoa xinh xắn. Bỗng nhiên một nữ thần xinh đẹp mê ly tới gần và hỏi họ là ai.

 

Mandarava đáp:

 

"Kye ma! Hỡi người con gái của các vị thần, ngài mang nụ cười đẹp rạng ngời chiếu sáng cả khu vườn này, được trang hoàng với trang sức lộng lẫy chói ngời cùng ánh sáng rạng rỡ! Giống như một bông hoa sen, làn da ngài hồng hào, sáng mịn. Tựa như mặt trời và mặt trăng, đôi mắt ngài lúng liếng, hấp dẫn. Bộ ngực ngài đầy đặn, gợi cảm như một thiếu nữ 16 tuổi, trong khi lòng bàn tay ngài mềm mại như cánh hoa Utpala. Vòng eo thon thả của ngài tinh tế với phong thái thật quyến rũ. Đôi chân ngài mềm dẻo, mịn màng tựa cánh hoa sen. Khuôn mặt ngài tựa một mạn đà la bất nhiễm tự khởi nguyên với những hảo tướng chính và phụ. Lúc này mandala thân giác ngộ đáng kinh ngạc cuả ngài đã thực sự xuất hiện ở đây trước chúng tôi, xin hãy cho chúng tôi biết: Ngài đã đến từ đâu, thuộc đẳng cấp nào, và ai là cha mẹ ngài? Tại sao ngài lại đột nhiên xuất hiện ở đây? Xin hãy làm xoa dịu cơn khát tò mò của chúng tôi bằng cách ban cơn mưa phun tỏa vĩ đại từ khẩu ngữ thần tiên của ngài lên chúng tôi."

 

Vị Dakini sau đó trả lời: "E ma ho! Hỡi Dakini vĩ đại, con gái vua xứ Zahor! Mandarava thuộc đẳng cấp vô thượng, xin hãy lắng nghe! Ta không có cha, được sinh ra từ một bông hoa sen. Mẹ ta là bậc trì giữ đại lạc Dhateshvari, thuộc cõi giới chân lý. Ta, người nữ này, là phối ngẫu vô thượng Pandaravasini. Là vị phối ngẫu đến từ cõi Tây Phương Cực Lạc Sukhavati, một cách tự nhiên ta là một Dakini  thuộc Liên Hoa Bộ. Gia đình ta thuộc cấp độ trí tuệ nguyên sơ diệu quan sát trí. Ta đã đến đây để trao cho cô một vài giáo huấn cốt tủy và phát lộ cho cô một phần tiên tri về cuộc đời cô. Ta là một Dakini phát xuất từ cùng nền tảng giống như chính cô vậy. Trong bản tánh của chân lý tối hậu không có đặc tính nào của đến và đi cả."

 

Sau đó Mandarava đảnh lễ cô gái, và trong một giai điệu đầy tôn kính và sùng mộ, cô dâng lên lời thỉnh cầu sau: "E ma ho! Hỡi vị Dakini trí tuệ nguyên sơ, xin để tâm đến tôi! Tôi được sinh ra từ một tử cung thai tạng phàm tục. Tôi sở hữu một kho công đức trí tuệ nguyên sơ và kho công đức thông thường tuyệt diệu. Đẳng cấp của tôi thuộc gia đình hoàng gia xứ Zahor. Tôi được sinh ra ở xứ Bengal trong thân nữ. Bất lực, tôi là một tạo vật thấp kém, bị dẫn đi trong cõi giới hoạt động sinh tử. Sau đó nằm dưới năng lực mơ hồ về những nhận thức lừa dối, tôi phải tiếp tục trắng tay trên hành trình vô nghĩa này và chỉ có được quả chín mùi hoàn toàn trong tam độc[46]. O hỡi Dakini trí tuệ nguyên sơ, xin hãy mau chóng ôm lấy tôi với lòng từ ái và bi mẫn của ngài! Xin ban sự quy y và nương tựa cho tôi, Mandarava, người đã không được bảo vệ! Xin ban cho tôi sự mặc khải chứa đựng trong khẩu giác ngộ của ngài. Xin bảo vệ tôi khỏi việc rơi vào con đường nguy hiểm của tà kiến. Xin nhanh chóng đưa tôi vượt qua đại dương luân hồi sinh tử này. Xin đừng bao giờ để tôi rơi vào tay đao phủ của những nhận thức mê lầm. Ngài, hỡi nữ thần, một người tiếp theo bước chân thực sự của những đấng chiến thắng cùng những bậc thừa kế của các Ngài. Tôi không có nguồn quy y và bảo vệ nào khác ngoài ngài. Xin hãy xoay chuyển tâm Mandarava đến với con đường thanh tịnh của Giáo Pháp. Xin gạn lọc mọi chướng ngại bên ngoài, bên trong và bí mật. Hỡi người mẹ tôn kính, xin liên tục giữ lấy tôi với lòng từ bi tinh thuần cao quý."  Tất cả những thiếu nữ trong nhóm của Mandarava cũng đều thỉnh cầu như vậy.

 

Sau đó, âm thanh du dương từ khẩu ngữ vị Dakini có thể được nghe thấy: "Kye ma ho! Người nữ định mệnh tốt lành vĩ đại giữa loài người, Mandarava, ta sẽ trao cho cô ân phước từ ba con đường của ta  về thân, khẩu, tâm để tâm cô có thể kiên định trong thực hành Giáo Pháp thuần tịnh. Nhà vua sẽ tìm kiếm trong 4 phương 8 hướng nhằm tìm ra một người nam phù hợp để kết hôn với cô. Nhưng cô cần phải nhận ra rằng nếu cô chỉ xem xét tới những ý nguyện của cha mẹ mình, thì điều này chỉ đơn thuần mang lại cho cô nghiệp lực luẩn quẩn trong vòng luân hồi. Cô phải mặc áo giáp nhẫn nhục. Mặc dù cha mẹ cô sẽ buộc cô phải kết hôn, nhưng cô phải luôn luôn nhận thức về luật nhân quả. Tất cả các cô, những thiếu nữ đã tụ tập ở đây như những người bạn đồng hành hòa hợp phải thể nhập và đi trên con đường của chân lý, con đường dẫn đến sự xác quyết giải thoát. Hóa thân trí tuệ nguyên sơ vĩ đại của Đức Phật thứ hai chính là vị thầy tâm linh mà cô phải lắng nghe và đi theo nhờ nguyện lực từ trước đây. Khi có chướng ngại, cơn gió không ngừng nghỉ từ những suy nghĩ bóp méo và nghiệp tiêu cực sẽ thổi lấn tới, hãy cầu nguyện nhất tâm với đức tin và lòng sùng mộ tới những thân tướng giác ngộ của chư Phật. Những che chướng ma quỷ sẽ ngay lập tức được đảo ngược ở ngay nơi chúng sinh ra. Hãy nhận lãnh quán đảnh bất tử và đạt được giải thoát ra khỏi nỗi sợ hãi sinh tử, cô sẽ trở thành sự nối kết giác ngộ tuyệt hảo trong 7 đại lục. Cô sẽ có được tất cả những phẩm chất giác ngộ cao quý của chư Phật. Với sự cạn kiệt nghiệp lực của mình, cô sẽ được dẫn đến cảnh giới hóa thân. Cuối cùng, cô sẽ tan hòa bất khả phân vào trong không gian của bà mẹ vĩ đại."

 

Nói xong những lời này, vị nữ thần tan hòa vào không gian. Mandarava nghĩ bản thân mình thật may mắn, cô đã có công đức lớn lao để gặp trực tiếp một vị Dakini như vậy. Cô biết rằng các uẩn và các nguyên tố của mình đã được tịnh hóa đến điểm để cô có công đức lớn lao nhận được những chỉ dẫn trực tiếp như vậy. Cô nhận ra rằng Mara Ma Vương, trở ngại từ nhận thức mê lầm, là tên đao phủ đích thực. Cô đã nguyện rằng nếu kẻ lừa dối còn đến dụ dỗ cô, cô sẽ không bao giờ rơi vào nó. Cô cảm tưởng như thể cô đã gặp được Đức Phật thực sự, và cô cam kết chính mình sẽ hoàn thành sự giác ngộ ngay trong đời này.

 

Sau đó cô đã dạy Phật Pháp cho hội nhóm phụ nữ đã tụ tập ở đó: "Kye! Hỡi những người bạn của tôi, xin lắng nghe thật chăm chú! Những cơ hội để biết đến hạnh phúc thực sự trong thế giới này thì cực kỳ hiếm hoi. Những thú vui sinh tử giống như mật ong với loài ong mật: do bám chấp và bị thu hút với mật ong, mà cuối cùng loài ong mật có thể đánh mất đi cuộc sống của nó. Khi những suy nghĩ vô tâm được sử dụng, các đối tượng ham muốn trong sinh tử, một đại dương độc dược, là nguyên nhân cho sự thất bại và bất hạnh của chính mình. Giống như một đứa trẻ không sáng suốt, thân thể một người bị phá hủy theo đúng nghĩa đen trong chiều sâu của hầm lửa từ sự tích lũy nghiệp tiêu cực. Những người ngốc ngếch sẽ vào hầm lửa này và rơi vào chiều sâu của nó, từ đó sự giải thoát không thể xảy ra. Trong đại dương những thú vui luân hồi sinh tử này, nó không thể mang lại sự  thỏa mãn. Một người liên tục bị phân tâm bởi những con sóng mạnh mẽ, hỗn loạn từ những tích lũy tiêu cực. Các hoạt động luân hồi thì giống như bị lạc vào một khu rừng lưỡi dao cạo sắc bén vĩ đại: nếu một người di chuyển mà không quan sát, thân thể họ sẽ ngay lập tức bị tiêu hủy! Bên trong hàng rào sắt của vòng luân hồi, một người liên tục nghe thấy lời khuyến khích hãy tiếp tục lừa dối bản thân. Trong vòng luân hồi sinh tử, một bánh xe của các loại vũ khí khác nhau luôn xoay chuyển không ngừng, một người liên tục bị chèn ép trong một trạng thái ngất lịm, thờ ơ, nơi mà thời gian bị lãng phí và mục đích thực sự của một người không bao giờ được hoàn thành cả!

 

"  Khi các bạn trực tiếp đeo đuổi duyên nghiệp này, các bạn giống như một người mù mong muốn cơ quan thị giác của mình sẽ hoạt động trở lại. Tuy nhiên, mong muốn này có đáp ứng được mục đích gì không khi nó không thể trở thành hiện thực? Thay vào đó, các bạn phải xem xét những pháp môn nào sẽ cho phép các bạn kiên trì trong việc theo đuổi mục tiêu của mình và để đạt được tự do khỏi tình trạng khó khăn này. Đừng tiết lộ những lời tiên tri của vị Dakini này cho người khác. Hãy nhận ra rằng nếu các bạn nói với họ, hậu quả đáng tiếc sẽ xảy ra do sự phá vỡ mệnh lệnh của Dakini. Đừng kết bạn với những người đồng hành vô tâm, và thay vào đó hãy chỉ nỗ lực với sự thực hành Pháp. O hỡi những người bạn của tôi, cuối cùng các bạn sẽ có được niềm an lạc tuyệt đối!"

 

Cô đã khuyên họ như vậy, và tất cả những người nữ trẻ đều vui mừng. Họ cam kết bản thân mình với con đường Phật Pháp, và họ đã bắt tay vào việc hoàn thành mục tiêu của mình. 

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 22 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

* 

Kể lại cách Mandarava can thiệp nhằm kết thúc một cuộc chiến tranh và ngài đã thiết lập 500 người nữ may mắn trên con đường giải thoát.    

23. Nhục Thân Thiêng Liêng của Một Vị Bồ Tát 

 

Từ đó trở về sau, tiếng tăm lừng lẫy của Công Chúa Mandarava lan tỏa trong khắp bốn phương và trong khắp tất cả các vương quốc lân cận. Mọi người đều nhìn cô với sự ngưỡng mộ, và những mong đợi của họ với cô rất cao. Một ngày, nhà vua Viharadhara nói với hoàng hậu: "Kye! Người con gái vô thượng đáng ngạc nhiên này của chúng ta đã cho thấy tấm lòng lớn lao hướng về cha mẹ. Với những phẩm chất, cá tính và vẻ đẹp vượt trội của mình, thì chỉ cần ngắm nhìn nó cũng là không đủ. Tất cả các vương quốc trong mười phương đều muốn nó trở thành hoàng hậu của họ. Nếu chúng ta gả nó cho 1 ai đó, chúng ta sẽ phải gánh chịu sự thịnh nộ từ những người khác. Nếu chúng ta để nó đi, điều đó sẽ mang lại những chướng ngại tới việc thực hành Pháp của nó.Cho dù thế nào chúng ta cũng phải đối mặt với một cuộc xung đột. Có lẽ sẽ là thích hợp nhất nếu con gái chúng ta thọ giới xuất gia."

 

Sau khi lắng nghe một cách cẩn thận, hoàng hậu nghĩ thầm trong tâm. "Kye! O hỡi Đại Vương, bậc thiên tử, thần nghĩ rằng đó là một ý tưởng tuyệt vời. Con gái chúng ta không có mối quan tâm nào khác ngoài Giáo Pháp. Với những yêu thương và thiện tâm từ trái tim nó, nó chỉ xem xem làm thế nào mình có thể giúp đỡ, dẫn dắt tất cả chúng sinh tới con đường Phật Pháp và đi tới trạng thái giải thoát. Bản thân thần cũng đã hứa sẽ làm theo lời khuyên của nó. Vậy nên tốt hơn là giữ nó lại gần bên chúng ta, dù cho thế nào!"

 

Cả nhà vua và hoàng hậu đều quyết định rằng dù cho thế nào, họ cũng sẽ không gửi Mandarava vào tay người khác. Dù cho thế nào họ cũng sẽ giữ cô, cô chỉ cần quan tâm đến Phật Pháp. Nhà vua quyết định xoa dịu các vị vua từ các xứ khác bằng cách tặng họ thật nhiều của cải và làm họ hài lòng, Mandarava sẽ được toàn quyền tự do cá nhân. Bằng cách này, ngay cả khi Mandarava không thọ giới nguyện xuất gia, cô vẫn có thể tiếp tục theo đuổi việc tu tập của mình và không ai có thể đổ lỗi cho nhà vua cùng hoàng hậu. Nhà vua và hoàng hậu đều cảm thấy rằng nếu họ cũng thực hành Pháp – thì dù là khó khăn với họ - nhưng những người khác theo thời gian cũng sẽ theo gương của họ. Quyết định của họ là cuối cùng, và mọi sự được lắng xuống một thời gian.

 

Một hôm, khi nhà vua chuẩn bị dùng bữa, ông phát hiện ra rằng không có thịt trong bữa ăn của mình. Thật khó để đánh bắt cá ở các sông lớn, và thịt không còn sẵn có ngoài chợ. Vì vậy, hoàng hậu đã gửi Mandarava đi ra ngoài tìm một chút thịt cho cha cô. Mandarava đã tìm kiếm khắp làng nhưng không thành công. Trong khi trở về nhà tay không, cô đi qua một cái xác người, nhợt nhạt và sưng lên, nằm trên đỉnh một ngọn đồi. Cô đã cắt tay chân tử thi này và mang chúng về nhà với cô. Cô nói với hoàng hậu là cô đã tìm thấy một chút thịt, và hoàng hậu rất vui mừng.

 

Hoàng hậu chuẩn bị kỹ thịt, ướp nước dùng để nó trở nên màu sắc và phong phú. Thêm vào một số thảo dược làm mềm, sau đó bà bày nó như một cúng dường cho nhà vua. Vua dùng thịt và nước dùng, và thân thể ông bỗng trở nên nhẹ nhàng và hạnh phúc đến nỗi ông đột nhiên bay bổng lên. Hoảng sợ, ông cho gọi cho hoàng hậu đến ngay. Khi hoàng hậu đến trước mặt mình, nhà vua đột nhiên trở nên tức giận, ông cho bắt giam bà, và,cầm một con dao nhọn, ông đọa sẽ đâm bà. Hoàng hậu vô cùng hoảng sợ. Trong cơn giận dữ của mình, nhà vua nói: "Ở đâu bà có chỗ thịt này? Hãy trả lời trung thực. Bà có cố gắng đầu độc ta hay làm một điều gì đó khủng khiếp không? Hãy trả lời ta! Thân thể ta đã trở nên nhẹ hơn bao giờ hết! Nếu bà không nói cho ta biết sự thật, ta sẽ giáng bà xuống thành người hầu!"

 

Hoàng hậu trả lời: "Những miếng thịt này đã được mang về từ thị trấn do con gái chúng ta, thần đã bảo con gái ra ngoài tìm về cho ngài. Thần không biết từ đâu mà con gái chúng ta đã có được nó, vì vậy bệ hạ phải hỏi con gái chúng ta xem sao." Nhà vua truyền cho các đầy tớ mang Mandarava tới ngay lập tức. Khi cô đến, ông cáo buộc cô cho ông ăn thịt bất tịnh và bị tẩm độc, vì cơ thể ông cảm thấy kỳ lạ khác thường. La mắng cô, ông nhấn mạnh rằng cô phải nói cho ông sự thật. Ông nắm lấy cổ và ném cô xuống, rồi vung vẩy con dao của mình trên khuôn mặt cô.

 

Sững sờ và chết lặng, Mandarava trả lời rằng thịt không hề bị tẩm độc. Mẹ cô đã bảo cô đến thị trấn để có được một chút thịt, và trên đường về nhà, sau khi không tìm thấy được bất kỳ chút thịt hay cá nào bán ngoài chợ, cô đã đi qua một xác người xanh xao và phình lên trên đường trong cơn mưa. Cô đã lấy vừa đủ thịt từ chân tay của thi thể và dâng nó lên cùng với một số thảo dược làm mềm, cô cùng với hoàng hậu đã nấu món này. Nói tới đây bỗng nhiên cô bật khóc, cô nói rằng mình đã làm tổn hại tới cha, làm ông buồn phiền và rằng hành động của cô đã thực sự làm hỏng tất cả.

 

Lúc đó, nhà vua đã biết rằng đây là thịt của một bậc thánh giả đã đầu thai 7 lần liên tiếp. Ngài ra lệnh cho mang phần còn lại của thi thể đến ngay lập tức. Mandarava đã tức tốc đến đó. Nhanh chóng cô bọc hài cốt của xác chết trong những miếng lụa, cô mang tất cả tới cung điện. Trên đường đi, cô đã phải đối mặt với một số dân làng, những người nhận ra cô và hỏi lý do khiến cô vi hành ra ngoài cung điện. Cô trả lời rằng mình ra ngoài tìm mua thực phẩm.

 

Mandarava trình lên tất cả những gì còn lại của tử thi cho vua cha, và ông đã rất ngạc nhiên rằng người con gái vô song của mình đã thực sự không làm gì sai cả. Không nghi ngờ gì nữa, đây quả thật là thịt của một bậc thánh giả đã 7 lần tái sinh liên tiếp. Rồi theo chỉ dẫn của nhà vua, Mandarava đã làm khô lại phần thịt cùng tất cả những bộ phận khác cơ thể, tịnh hóa chúng với trầm hương cùng các chất liệu tương tự. Các chất liệu quý giá sau đó được đặt trong một chiếc bình nạm ngọc, rồi họ lưu giữ và tôn vinh thánh tích này với lòng sùng mộ. 


Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 23 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

* 

Kể lại cách cô đã phát hiện ra nhục thân thiêng liêng của một vị bồ tát, 

Bậc đã 7 lần tái sinh liên tiếp, và làm thế nào, nhờ những nỗ lực của mình, 

Chất liệu thiêng liêng này đã trở thành một nền tảng cho sự cúng dường và sùng mộ.        

24. Một Linh Kiến Về Đức Kim Cương Tát Đỏa Vajrasattva 

 

Không muốn chờ đợi lâu hơn, các vua chúa và các bộ trưởng từ tất cả các đất nước lân cận đều đã tụ tập lực lượng, cố gắng giành phần thắng hòng có được Công Chúa Mandarava trở thành hoàng hậu của mình. Các vị vua đã đến là: Vua Bhitota xứ Oddiyana; Vua Trigna Trighata xứ Kashmir; Vua Shanka Kotali xứ Bheta; Vua Dharmavata xứ Murum; Vua Singha Sutitra xứ Chaje; Vua Indradam xứ Kuluta; Vua Sukhahi xứ Yangpachen; Vua Hasabid xứ Mangadha; Vua Udughi xứ Shambhala; Vua Gagana xứ Togar; Vua Mudra Bhudani xứ Ngatug; Vua Dhahimune xứ Sinpo; Vua Sartasumtibha xứ Nepal; Vua Bhatato xứ Shang Shung; Vua Thalihangti xứ Ba Tư; Vua Trushangden xứ Gesar; Vua Mokyau Ching xứ Trung Hoa; Vua Dharmakosala xứ Ấn Độ; Vua Shangtsen Mayi xứ Tây Tạng, cùng những người khác.

 

Mỗi vị vua đã đến cùng với các bộ trưởng chính với đoàn tùy tùng của họ. Mang nhiều sản vật phong phú cùng những món ăn ngon, họ tụ tập lại ở xứ Zahor. Mỗi vị đều được trang hoàng trong trang phục bản xứ riêng, sự phô diễn lộng lẫy của họ thực sự phủ kín xứ Zahor. Mỗi phái viên kính cẩn hỏi về Công Chúa Mandarava và trình lên vua xứ Zahor một lá thư viết bằng mực vàng ròng, hỏi cưới con gái của nhà vua. Họ rất muốn có được cô bằng bất cứ sự giàu có hay vinh quang vượt mức so sánh nào.

 

Nhà vua, hoàng hậu và các bộ trưởng Zahor đã cùng tụ họp để thảo luận về bản tánh siêu tuyệt của Công Chúa Mandarava. Trong thành tựu tâm linh, không ai có thể vượt qua được những phẩm tánh của cô. Cô là một người nữ tựa báu vật trang hoàng vô thượng của thế gian. Mặc dù trẻ trung và xinh đẹp, nhưng cô vô song trong sự thiện xảo, năng lực và cực kỳ hiểu biết. Khi mới sinh ra, cô đã mang những dấu hiệu đầy ngạc nhiên hoàn toàn không thể diễn tả hết: không ai tái sinh theo cách bình phàm có thể so sánh với cô được. Cô rất hiếu kính cha mẹ, luôn tôn trọng lời nói của họ hơn tất cả những người khác. Cô có vẻ đẹp và sự tái sinh tuyệt diệu của một vị Dakini. Danh tiếng tôn quý của cô trùm khắp mười phương. Ngay cả người mù và người què cũng hỏi thăm tới vị công chúa này. Đức hạnh trước đây trong quá khứ của cô vĩ đại và đức hạnh hiện tại của cô bất nhiễm. Vì vậy, từ sự yêu mến của nhà vua, cha cô, ý nghĩ rằng sẽ gả cô đi với ai khác sẽ là thất bại lớn nhất của ông. Cũng vậy, cô quá quý giá với hoàng hậu, mẹ mình  đến nỗi nếu mất cô thì bà chẳng khác gì là đánh mất đi đôi mắt hay trái tim của mình. Tuy nhiên, rất nhiều vị vua từ rất nhiều vương quốc đã tụ hội tại đây cùng lúc. Để cô đi với một ai đó thì sẽ làm những người khác nổi giận. Để xoa dịu họ bằng cách hứa gả cho họ một cô gái trẻ khác sẽ thực sự rất khó khăn. Biết rằng bất cứ điều gì mình làm sẽ có thể trở thành nguồn gốc cho sự xung đột, nhà vua rơi vào một trạng thái vô cùng khó xử. Ba lần, ông đã cho gặp các sứ giả để thảo luận về tình huống khó xử này; Cuối cùng, ông đã yêu cầu họ để cho biết ý kiến riêng của mình.

 

Sau đó, hoàng hậu nói: "O hỡi đại vương của chúng thần! Đôi khi đưa những suy nghĩ vào lời nói không giúp giải quyết được một vấn đề như vậy! Cũng không phải là cách luôn đưa chúng ta đến một quyết định đúng đắn! Quá nhiều suy tư về một tình thế khó khăn như vậy có thể đưa chúng ta đến một trạng thái loạn tâm sâu hơn. Ngài có đồng ý rằng không ích lợi gì khi phải quá thúc ép hoặc đưa đẩy như vậy? Chúng ta hãy rút ra khỏi cuộc luận đàm, lý luận và tiếp xúc quá mức này! Ngài sẽ không thể quyết định trong những tình huống như vậy. O hỡi đức vua, xin đưa mình ra khỏi vấn đề này. Đừng thu hồi thêm khoản nợ khi nó có thể được hoàn trả. Đừng chấp nhận những lễ vật từ các vương quốc khác mà chỉ để nhằm xoa dịu họ. Nếu ngài thực thi các quy tắc một cách nghiêm minh, thì tất cả mọi vấn đề của ngài sẽ được giải quyết. Nếu ngài đối xử với tất cả các sứ giả một cách bình đẳng và tôn trọng, thì cuối cùng họ sẽ hài lòng. Đừng đưa ra nhiều lời hứa mà khó có thể giữ chúng, hoặc nếu không, khó khăn sẽ xảy đến cho ngài. Chúng ta hãy hỏi ý con gái tuyệt diệu của mình xem con nó muốn gì. Nếu con nó lựa chọn sinh tử, chúng ta hãy cho phép nó đi đến nơi nào nó ưng. Nếu con nó chọn Pháp, nó sẽ ở trên con đường Giáo Pháp như một nữ hoàng. Có lẽ là khôn ngoan và đúng đắn khi thỉnh hỏi ý kiến của các vị thần hoặc một bậc linh thánh nào đó. Bất cứ điều gì các bậc hiền triết linh thánh tham vấn, chúng ta nên hành xử tùy thuận theo."

 

Sau khi hoàng hậu nói xong, bộ trưởng Trignadzin nói, "Thưa hoàng hậu, ngài định đề nghị gì về những xứ sở khác này? Ngài nên so sánh từng đề xuất của họ và dâng công chúa cho ứng viên nào phù hợp nhất."

 

Sau đó, Bộ trưởng xứ Oddiyana tuyên bố: "Tôi đã đến đây dưới mệnh lệnh của đức vua tôi. Nhiều của cải đã được thu thập để cầu hôn người con gái của chư thần. Nhiều bức thư đã được gửi đi, trong đó nêu rõ số lượng phẩm vật mà mỗi vị vua sẵn sàng dâng lên. Bây giờ nhà vua và bộ trưởng của mình phải quyết định những gì cần làm. Nếu quyết định của ngài đã được quyết, nó sẽ được tôn trọng một cách thích đáng. Nếu ngài lừa dối chúng tôi bằng việc thương thảo quá nhiều, tôi sẽ không tin lời nói của ngài. Nhà vua và bộ trưởng của xứ Zahor nên giữ sự cởi mở và chu đáo."

 

Sau đó, bộ trưởng đến từ Trung Quốc nói lên quan điểm của mình: "Lời nói gió bay. Bất kể những gì được nói ra, thì những phẩm chất cao quý của nhà vua là không thể diễn tả. Thật khó khăn để đưa ra một quyết định là để Công Chúa Mandarava chọn một ai đó và từ chối những người khác. Theo tôi, O hỡi hoàng hậu, nó tùy thuộc vào việc thỉnh ý vua Zahor ra một quyết định chắc chắn và chấp nhận bất cứ điều gì có thể."

 

Sau đó, Bộ trưởng xứ Bheta tên là Karshita, nói: "  Mặc dù đức vua Zahor có kiến thức sâu sắc về Phật Pháp đức hạnh và phi đức hạnh, nhưng khi bàn về mặt thế tục thì vương quốc chúng tôi có thể đánh bại hệ thống chính trị của ông. Con đường của Mandarava rõ ràng là thuộc về Phật Pháp".

 

Tiếp đó Palasiddhi, bộ trưởng đại diện cho vua xứ Gesar, nói: "  Theo tôi, Công Chúa xứ Zahor Mandarava có một số lợi ích chính trị, nhưng không lượng vàng bạc trang sức hay sự giàu có có thể có thể đo lường được giá trị của cô. Vua xứ Zahor đã lừa dối trong việc bảo vệ cô cho mình. Nếu không, ngài chỉ cần đơn giản dâng Mandarava cho vương quốc chúng tôi!"

 

Sau đó Nidzu, bộ trưởng xứ Kashmir, nói, "Thưa đức vua của những dấu hiệu vật chất vĩ đại tôn quý, nếu ngài nghĩ rằng công chúa có khả năng vận hành một vương quốc, thì hãy đưa ra quyết định của ngài dựa trên phẩm vật nào là nhất. Nếu ngài không muốn gả cô đi, thì hãy đừng chấp nhận bất kỳ phẩm vật giàu có nào. Không có gì phải nói thêm".

 

Sau đó, Bộ trưởng Kartrari của Ba Tư đã nói: "Để chúng ta duy trì mối quan hệ tốt đẹp với ngài, hỡi đức vua, ngài phải quyết đoán. Nếu ngài không thể quyết định, thì sau đó sẽ là lúc chúng tôi chuẩn bị quân đội cho 1 trận chiến. Sau khi phải đối mặt với một vị vua như ngài, bậc sở hữu của cải, sự cao quý và quyền lực lớn lao, tôi không thể trở về vương quốc Ba Tư với bàn tay trắng được."

 

Sau đó, Simha, bộ trưởng xứ Maru, tuyên bố: "Cho phép mẹ cô đưa ra quyết định là trò tiêu khiển không hề chắc chắn và đầy mơ hồ. Quyết định đến từ nhà vua mới vững chắc và ổn định. Không cần phải nghe thêm lời nói vô căn cứ này. Chúng ta hãy hỏi chính công chúa xem cô thích gì. Nếu chúng ta tiếp tục lưỡng lự thế này thì tất cả mọi thứ cuối cùng sẽ biến thành thảm họa. Tốt hơn là hãy đưa ra quyết định dựa trên những gì chính bản thân công chúa mong muốn, như vậy tình hình mới thuận lợi và dễ chịu."

 

Kế đó Yagantha, bộ trưởng đến từ Tây Tạng, lên tiếng: "O hỡi đức vua Zahor, người đi theo sau lời nói của một người phụ nữ. Với rất nhiều ý tưởng sẵn có, ngài phải biết rằng chúng tôi sẽ giữ ngài lại chịu trách nhiệm tới cuối cùng. Vua Tây Tạng thì vô cùng khôn ngoan trong chính trị, và ông khát khao lớn lao để có được cô công chúa với những phẩm chất cao quý này. Trong thực tế, nếu ngài không gả cô cho ông, mạng sống của tôi sẽ gặp nguy hiểm. Mạng tôi nằm trong tay của ngài đó."

 

Sau đó, bộ trưởng xứ Yangpachen nói, "Chỉ có nhà vua là nên được bàn bạc về vấn đề này. Nhà vua nên bàn với công chúa, và họ nên đưa ra lựa chọn cùng nhau." Mọi người đều đồng ý điều này, và họ đã bày tỏ cảm nghĩ của mình cho nhà vua, hoàng hậu cùng các bộ trưởng của Zahor, những người đã tập hợp tất cả những người của vương quốc lại với nhau. Vua cho hoàng hậu triệu hồi Công Chúa Mandarava để cô có thể đưa ra yêu cầu về những gì mình muốn. Mọi người đều đồng ý rằng công chúa nên chọn nơi cô sẽ đi. Mandarava được đưa ra trước cha mẹ mình, và toàn bộ tình hình được giải thích cặn kẽ với cô. Khi họ nói với cô rằng họ sẽ gả cô cho người nào mà cô muốn, họ cũng giải thích rằng tất cả của cải, sự giàu có, tùy tùng và những người bạn vẫn đồng hành cùng cô cũng sẽ vẫn đi cùng cô như cô mong muốn.


Cô được cho biết rằng trong vùng đất Ấn Độ, Phật Pháp được chiếm ưu thế. Trong vùng đất Trung Hoa, giải trí và niềm vui được tràn lấp. Trong vùng đất Gesar, tình bạn hữu là vô địch, trong khi ở các vùng đất Oddiyana, di sản tổ tiên xuất sắc và cao thượng. Trong vùng đất Shambhala, Phật Pháp, sự giàu có, thịnh vượng được hưởng thụ. Trong vùng đất Bheto, có quyền lực vĩ đại; ở Ba Tư, có sự giàu mạnh. Còn xứ Tây Tạng được biết đến với sự xuất sắc về nghệ thuật bắn cung, đất nước Kashmir là vẻ đẹp của con người. Cuối cùng, họ thỉnh cầu cô hãy nói cho họ biết nơi cô thích.

 

Mandarava suy nghĩ một lúc, rồi cô kết luận rằng nếu sống cuộc đời của một người phụ nữ bình phàm, không tu tập thì cô sẽ không bao giờ có được hạnh phúc. Nhận thấy rằng tất cả những điều này đều do những nhân duyên trước đây dẫn dắt, cô đã xác quyết rằng – dù cho có phải trả giá bằng cả cuộc đời mình – thì cô cũng phải theo đuổi chỉ duy nhất con đường Phật Pháp. Đặt tất cả sự tự tin của mình trong lời tiên tri được đưa ra bởi vị Dakini, cô đã đưa ra câu trả lời sau: "Kye ma! Hỡi người cha duy nhất của con, người đã ngã lòng dưới sức mạnh của người người khác, xin hãy lắng nghe con! Mặc dù con khát khao mong muốn được làm 1 điều, chỉ khi cha hỏi, con mới xin trả lời, lần này con sẽ không đi đến một xứ sở nào khác với bất kỳ ai cả. Con sẽ dành trọn đời mình chỉ cho con đường Phật Pháp. Nếu không có sự tự do để thực hành Pháp, con sẽ đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời này, rồi tha thiết dâng lên những lời cầu nguyện để được tiếp tục sinh ra ở một vùng đất nơi con có thể được thực hành Pháp không chút gián đoạn."

 

Sau đó, nhà vua trả lời: "  Dù cho bất kỳ vương quốc hay gia đình nào con chọn, thì cũng rõ ràng rằng con sẽ không ở lại đó. Hãy để ta nghĩ thêm trong 3 ngày sau đó ta sẽ cho con câu trả lời".  Mặc dù nhà vua đã nói vậy, nhưng Mandarava tuyên bố:

 

"  Dù cho bao lâu cha nói sẽ suy nghĩ, thì tâm con đã cố định. Con sẽ chỉ theo đuổi con đường Phật Pháp. Nhờ công đức cha đã tích lũy trong các kiếp trước đây mà con đã được sinh ra là con gái cha. Giờ đây con có cơ hội, nếu con không thực hành Pháp Bảo, thì tinh túy của lần tái sinh này sẽ bị đổ nát và mất đi. Pháp đã được tuyên thuyết ở Ấn Độ, nhưng cơ hội để thực hành lại rất hiếm hoi. Con sẽ không bao giờ kết hôn vì lợi ích cho giai cấp hay tầng lớp nào. Trong mọi trường hợp, cuộc sống của một gia chủ thường chỉ là một nguyên nhân cho sự tái sinh trong các cõi thấp. Con giống như một chú nai bị thương, chỉ hy vọng được chết, để được giải phóng khỏi đau khổ của nó. O hỡi cha của con, xin hãy hiểu cho mong ước cuối cùng của con."

 

Mặc dù Mandarava đã nói rất rõ ràng về ý định của mình, nhưng nhà vua vẫn cố gắng ngăn cản cô. Ông ra lệnh cho các gia nhân không để cô đi ra ngoài bức tường cung điện. Sau một thời gian, công chúa suy xụp trong đau khổ, và trong giây phút hoàn toàn tuyệt vọng, Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa Vajrasattva đột nhiên xuất hiện trong không gian trước mặt cô. Ngài nói: "  Kye ma! Hỡi trinh nữ Mandarava, không chút lầm lỗi! Đừng bám luyến vào vòng luân hồi sinh tử. Hãy tự do khỏi nỗi tuyệt vọng. Đừng bao giờ quay đầu lại! Hãy khơi dậy sự xác quyết và lòng can đảm trong niềm tin của con! Là một trong những người phải thực hiện hai lợi ích vĩ đại, con là một người nữ như một đại dương những phẩm tánh tôn quý!"  Sau khi nhận được lời khuyên này, cam kết của Mandarava với Phật Pháp không bao giờ rời khỏi trái tim cô. 

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 24 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách Mandarava được tìm kiếm bởi các xứ sở trong khắp các phương trời, 

Cách ngài thể hiện sự không bám luyến vào vòng sinh tử luân hồi, 

và linh ảnh của ngài về Đức Vajrasattva, 

Ngài đã nhắc nhở cô về lời tiên tri cô đã nắm giữ.          

25. Thọ Giới và Huân Tập Trong Giáo Pháp 

 

Mandarava đã chạy trốn khỏi cung điện. Trong một khoảng thời gian, cô đã tìm nơi trú ẩn trong một khu vườn với những bông hoa màu đỏ ở gần đó. Semshogma, người hầu gái đã ở lại với cô, trong khi những người khác được bố trí trong khu vực xung quanh để canh gác.

 

Một ngày nọ, Mandarava cởi bỏ tất cả trang sức của mình và cắt vụn những bộ y phục tơ lụa của cô với một con dao, cô thực hiện những lời cầu nguyện để được tự do với những trang phục không cần thiết như vậy trong tương lai. Người hầu gái Semshogma đã đi gặp nhà vua để trình báo tin này. Nhà vua không hài lòng. Ông cảm thấy rằng nếu con gái mình không làm theo những nguyên tắc mình đặt ra thì những khó khăn trong tương lai có thể phát sinh với sự theo đuổi Phật Pháp của cô. Nhận thấy mình không thể làm được gì, nhà vua đã cho tập hợp tất cả các vị vua cùng các sứ giả của họ. Ông phân phát một lượng lớn của cải tới họ và gửi họ về con đường riêng của mỗi người, ông báo với họ rằng công chúa đã tuyên bố sẽ chỉ đi theo con đường Thánh Pháp.

 

Sáng hôm sau, công chúa đã đến gặp một vị Bồ Tát, với niềm tin nhất tâm, cô dâng lên lời cầu nguyện này: "  E ma! Hỡi Đại Bồ Tát, bậc nhiếp chính của chư Phật! Mặc dù con đã không cắt đứt những mối liên hệ của mình với vòng luân hồi, nhưng niềm tin của con nơi Pháp không chút thay đổi. Những vị vua từ mọi phương trời đã tụ tập lại để giành chiến thắng nhằm có được tay con trong cuộc hôn nhân. Vua cha của con đã bị lừa dối và dụ dỗ bởi những cúng phẩm giàu có của họ. Ông đã cấm con theo đuổi con đường Phật Pháp, con không có lựa chọn nào khác là phải bỏ trốn đến khu rừng này và từ bỏ mọi điều kiện của mình. Những tôi tớ của con, đang theo dõi điều này, họ đã trở về bẩm báo quyết định của con với nhà vua. Con đã nghe nói rằng những tin tức này cuối cùng cũng làm hài lòng những người cầu hôn từ nhiều phương trời. Bây giờ con xin thỉnh cầu ngài, xin ban cho con những giới nguyện".

 

Bồ tát trả lời: "Tuyệt hảo! Công Chúa Mandarava, những ý định cao cả của con là kết quả từ sự thức tỉnh những khát vọng trong quá khứ. Trong quá khứ, con đã lắng nghe Thánh Pháp trong sự hiện diện của Đức Phật. Vào thời điểm đó, tên con là Singmo Gangadevi , và ta là một trong 5 vị A La Hán chính trong tập hội của Đức Phật. Con đã viên mãn con đường 37 nhánh54, nên giờ đây con đã được tái sinh thành con gái vua xứ Zahor. Đừng để bị gắn kết vào vòng luân hồi. Hãy gợi nhớ lại những nối kết Pháp của con trong quá khứ! Hãy đến phía trước, và ta sẽ thọ giới cho con. Nhờ thọ nhận và trì giữ trọn vẹn giới luật biệt biệt giải thoát giới (giải thoát cá nhân) và tu tập Bồ Tát đạo, con sẽ sớm trở thành một đệ tử của Đức Phật thứ hai, Đức Liên Hoa Sinh Padmasambhava. Công đức như vậy sẽ khiến con phải trở thành một bậc thủ hộ  tôn quý của tất cả chúng sinh." Sau khi thực hiện lời tiên đoán này, ngài đã ban truyền giới nguyện cho cô, và cô đã nhận được Pháp danh Bồ Tát giới là Yeshe Zangmo.

                                                          

54 37 nhánh giác ngộ là 37 phẩm chất cao quý được phát triển trên con đường giải thoát. Chúng bao gồm tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ pháp như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi của và bát chánh đạo.

 

Cùng lúc đó, nhà vua nói với các bộ trưởng của mình phải xác định được nơi trú ẩn cùng những hành động của Công Chúa Mandarava. Họ đi vào rừng, ở đó họ thấy cô thực sự đã được thọ giới nguyện. Họ vội vã trở về bẩm báo tin này cho nhà vua. Khi họ nói với ông rằng con gái ông đã thọ giới trong sự hiện diện của đại tu viện trưởng, nhà vua cảm thấy sẽ khó khăn cho con gái mình phải trì giữ những thệ nguyện trong khi được bao quanh bởi một số ít tùy tùng. Và rồi ông đã ra lệnh cho tất cả 500 tùy tùng cũng được thọ giới. Ông bảo các bộ trưởng của mình hãy để mắt tới công chúa và thông báo cho ông cùng những người khác về mệnh lệnh của ông. Tất cả phải xem đó là mong muốn của nhà vua và phải được chu toàn.

 

Các bộ trưởng tập hợp tất cả các tùy tùng lại cùng nhau, họ thông báo mệnh lệnh của nhà vua rằng những người tham dự với Mandarava đều phải được thọ giới nguyện trên cùng một con đường mà cô đã chọn. Nhà vua cũng cảnh báo họ rằng nếu họ phá vỡ thệ nguyện thì sẽ có sự trừng phạt. Những người tùy tùng sau đó đi tới trước đại tu viện trưởng cùng bậc giáo thọ và khẩn cầu: "  Ema! Đại tu viện trưởng thì giống như Đức Phật! Chúng con là những tùy tùng của Công Chúa Mandarava, và đây là mệnh lệnh của nhà vua chúng con, ngài nói rằng chúng con hãy đến với ngài để thọ nhận những giới nguyện! Nhờ lòng từ mẫn của ngài, xin hãy ban những ân phước thọ trì lên chúng con."  Như vậy, 500 người tùy tùng đã thọ nhận giới nguyện và Pháp danh mới.

 

Cung điện mới của Mandarava được xây dựng bên trong một khu vườn xinh đẹp bao quanh khoảng một dặm từ cung điện của nhà vua. Một bức tượng Đức Phật đã được dựng lên, và Bồ Tát Tu Viện Trưởng đã đến ba lần để ban phước cho bức tượng. 5 vòng bảo vệ được bao quanh nội khu trong cùng, nơi công chúa cư ngụ. Mỗi vòng bảo vệ có 100 tùy tùng. Các lối vào ở phía đông và phía nam được đặt dưới sự bảo vệ cẩn mật, và các hướng còn lại được đóng chặt. 20 tùy tùng được chỉ định để bảo vệ những lối vào, và người dân không được phép bén mảng bên ngoài những cánh cổng.

 

Mỗi ngày từ đó về sau, Mandarava đều tinh tấn nghiên cứu kinh điển biệt biệt giải thoát giới. Cô đặc biệt khởi sự truyền thống nhập thất trong suốt 3 tháng mùa đông để thực hành thần chú; 3 tháng mùa xuân thiền định về ý nghĩa của các Kinh điển và Luận giảng; 3 tháng mùa hè trong đại định; và 3 tháng mùa thu thực hiện các thực hành phát Bồ Đề tâm hàng ngày. Sự thực hành Thánh Pháp của cô liên tục suốt cả ngày lẫn đêm. 

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 25 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại những thệ nguyện của ngài với Giáo Pháp, đã khiến ngài thọ nhận những giới nguyện

và tu tập trong Giáo Pháp Kinh Thừa.

26. Gặp Đức Minh Sư Liên Hoa Sinh Padmasambhava

  

Thời gian đã đến để Đức Kim Cương Sư Padmasambhava thuần phục vương quốc Zahor, gồm cả Đức Công Chúa Mandarava cùng tập hội của cô. Ánh sáng phát tỏa ra từ trái tim Ngài và đi vào ba cửa của Mandarava cùng tập hội của cô, điều này đã ban những ân phước thâm sâu cho họ.

 

Đêm đó Mandarava đã có giấc mộng sau đây: Trong không gian trước cô, bên trong một sự rộng mở của các tia sáng ngũ sắc, xuất hiện một bông hoa bằng vàng ròng với một nhụy hoa màu đỏ. Trên bông hoa xuất hiện một hóa thân của một vị Phật. Cô đảnh lễ và khẩn cầu với lòng sùng mộ. Sau đó vị Phật này nói: "  O hỡi trinh nữ của những phẩm tánh cao quý toàn hảo, Công Chúa Mandarava, ta là một hóa thân của Đức Quán Âm Avalokiteshvara. Ngày mai, vào ngày mùng 10 tháng Thân, hãy đi đến đỉnh đồi cỏ để gặp Ta. Ta sẽ ban cho cô những huấn thị trực chỉ mang lại sự giải thoát trong một đời."  Dứt lời, Ngài liền tan biến vào hư không.

 

Mandarava thức dậy khỏi giấc mộng, cô ngây ngất trước viễn cảnh về cuộc gặp gỡ với một hóa thân siêu phàm như vậy. Sáng hôm sau, trong khi ban bài giảng Pháp của mình, cô đã nói với 500 tùy tùng đang tụ tập ở đó: "  E ma! Tối qua tôi đã có một giấc mộng đáng chú ý nhất. Hôm nay chúng ta sẽ ra ngoài đi dạo và gặp gỡ một bậc giác ngộ, Ngài sẽ ban cho chúng ta những huấn thị trực chỉ mang lại sự giải thoát ngay trong một đời." Mandarava cùng đoàn tùy tùng đức hạnh của cô đã đi đến đồi cỏ nơi đã được trang trí với hoa thơm như trầm hương. Đột nhiên, trong không gian trước họ, xuất hiện Đấng Vajra Guru Padmasambhava (Đạo Sư Kim Cương Liên Hoa Sinh), từ Ngài tỏa ra ánh sáng cầu vồng kỳ diệu. Vào thời điểm họ thấy Ngài, Mandarava cùng đoàn tùy tùng của cô đã bị chinh phục với đức tin không thể lay chuyển. Công chúa nói: "  E ma ho! Bậc trưởng tử tâm yếu vòng vương miện quý báu của chư Phật trong ba thời! Sau khi hoàn mãn định mệnh của mình, Ngài hoạt động chỉ vì hạnh phúc cho những người khác. Với chiếc móc câu bi mẫn từ ái của mình, Ngài liên tục đăm đăm nhìn lên tất cả chúng sinh hữu tình, Ngài nuôi dưỡng tất cả mọi người với liều thuốc yêu thương vô hạn của mình. Thị hiện sắc diện rạng rỡ, hoan hỷ, Ngài đưa tất cả chúng con đi đến bến bờ giải thoát trên con thuyền buông xả. Nhìn lên những người như chúng con, những kẻ mù lòa và lạc lối, những kẻ không thể thấy đường! Chúng con khẩn xin Ngài giáng lâm tới cung điện của chúng con và xin Ngài xoay chuyển Pháp Luân!"

 

Đạo Sư hứa sẽ đến. Mandarava cùng tập hội của cô nhanh chóng trở về cung điện để chuẩn bị cho sự giáng lâm của Ngài. Một số chuẩn bị bên ngoài, những người khác chuẩn bị bên trong. Một số bố trí, bày biện tọa cụ thuyết giảng, trong khi những người khác chuẩn bị đồ ăn. Một số khác dâng hương. Khi tất cả những công tác chuẩn bị đã được hoàn tất, Đạo Sư xuất hiện. Họ đóng cửa và niêm phong các cửa ra vào, và Đạo Sư an tọa trên ngai tòa của mình. Họ dâng lên ngũ bảo, các loại lương khô, ngũ cốc, rượu gạo, rượu vang cùng đồ uống để làm dịu cơn khát của Ngài. Dâng lên tất cả những chất liệu này như một lời cúng dường mandala tới Đạo Sư, Mandarava khẩn cầu: "  Ema! Một Đấng như Ngài, với khuôn mặt chói ngời đại diện cho chư Phật trong ba thời, Ngài có thể được sinh ra ở đâu? Đâu có thể là đẳng cấp và tầng lớp của song thân Ngài? O hỡi Đấng tôn quý, xin ban lên chúng con cam lồ Thánh ngôn của Ngài!"

 

Sau đó, Đạo Sư trả lời: "  E ma! Trinh nữ Mandarava xinh đẹp đến kinh ngạc, hỡi cô gái quyến rũ sự chú tâm! Ta không có cha - nơi sinh ra Ta là bản tánh trống rỗng của chân lý. Tử cung thai tạng mẹ Ta là trí tuệ trống rỗng. Ta sinh khởi bên trong một bông hoa sen ở giữa hồ Dhanakosha. Ta đến từ gia đình tự do khỏi giới hạn của cả hai cực biên tồn tại và tịch tĩnh. Bản thân Ta đại diện cho thành tựu tâm linh phúc lạc tự sinh.

 

"  Trong cảnh giới siêu phàm nơi tâm thức chúng sinh được thuần hóa, một vị Phật xuất hiện đáp ứng những nhu cầu của mỗi và từng chúng sinh một. Mặc dù các hóa thân có tên gọi và cách thức xuất hiện khác nhau trong suốt 3 thời, nhưng một cách  tối hậu các vị là bất nhị. Trong quá khứ , Đức Phật Vô Lượng Quang Amitabha đã tạo ra núi Potala (Phổ Đà), tịnh độ của Đức Quán Âm Avalokiteshvara. Đức Avalokiteshvara sau đó đã hóa hiện như Liên Hoa Sinh Padmasambhava trong Hồ Dhanakosha. Trong khối cầu pháp giới chân lý, Ngài là Đức Phật nguyên thủy Phổ Hiền Samantabhadra; Trong Cảnh Giới Dàn Trận Dày Đặc, Ngài là Đức Phật Kim Cang Trì Vajradhara; và ở ngai kim cương Bồ Đề Đạo Tràng Bodhgaya, Ngài là Đấng giác ngộ, Đức Thế Tôn.

 

Ta cũng là sự hiện diện tự nhiên, hiện hữu bất khả phân như người sinh ra trong hoa sen, Padmasambhava. Những ân phước bất khả tư nghị phát sinh nhằm đáp ứng với nhu cầu của chúng sinh hóa hiện xa hơn nữa như 8 vị Phật nam cùng 8 phối ngẫu của các Ngài, 8 nơi chốn và 8 điểm năng lực tối thượng, 8 chốn mộ địa thực hành, cùng 8 hóa thân Đạo Sư, đó là những phô diễn thuần tịnh của 8 nhóm ý thức. Ngoài ra còn có các hóa hiện của 8 vị Minh Sư Kim Cương và 8 hóa thân, 8 Đấng Vinh Quang và 8 vị Heruka thành tựu, 8 thành tựu to lớn của hợp nhất và giải thoát viên mãn, 8 Tantra của giai đoạn tiếp cận, cũng như 8 khía cạnh hoạt động giác ngộ kỳ diệu. 8 vị Phật này đã viên mãn cả 2 tích tập cùng tất cả những phẩm tánh cao quý trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Với những bậc thừa kế tối thượng, các vị cũng biểu hiện từ chính nền tảng này, những hóa thân bất khả tư nghị hiện diện trong suốt 3 thời quá khứ, hiện tại và vị lai, các ngài luôn giương cao lá cờ chiến thắng của giáo lý trong khắp mười phương."

 

Nghe những lời nói của Ngài, Mandarava cùng tập hội của cô vui mừng khôn xiết. Dưới sự hướng dẫn của Đạo Sư, họ bắt đầu tu tập cả ngày lẫn đêm trong Giáo Pháp Mật chú. Họ được chỉ dạy 3 Tantra ngoại: Kriya, Charya, Yoga, và 3 Tantra cao nhất: Cha, mẹ, bất nhị. Họ cũng nghiên cứu 100 cấp của thừa thần chú bí mật. Phù hợp với những phân loại này của Tantra nội, họ đã thọ nhận được những chỉ dạy về trạng thái phát sinh với sự tỉ mỉ, cũng như hàng ngàn Tantra chính đối với các kinh mạch năng lượng, khí năng thiết yếu và những chất dịch. Họ đã nhận được tất cả những lời dạy chính yếu trong sự toàn bộ của chúng trên con đường mật chú.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 26 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

* 

Kể lại cách theo lời tiên tri, 

Mandarava đã gặp Bậc Đạo Sư Kim Cương Padmasambhava  

và cách ngài nhận được những trạng thái trao truyền tâm linh.      

27. Thuần Phục Nhà Vua Với Phép Lạ 

 

Sau đó, Bậc Đạo Sư Kim Cương cũng đã rất hài lòng với sự tiến bộ về giáo lý sau khi chúng được trao truyền cho Công Chúa cùng đoàn tùy tùng, nhưng một điềm xấu đã xảy ra. Một người chăn bò không thiện ý đã bắt gặp bọn họ trong khi đang ở trong trạng thái hỷ lạc vô biên lúc thọ nhận giáo lý từ Đạo Sư Liên Hoa Sinh và đang ăn mừng nhân dịp này. Trong khi người chăn bò trở về nhà, ông ta đã nghe thấy nhiều người dân trong làng ca ngợi về Công Chúa Mandarava cùng những người nữ đi theo cô. Sau đó, ông ta bắt đầu bàn tán vu khống về những gì mình đã chứng kiến, và tất nhiên từ 1 đồn 10, các tin đồn ngày càng lan truyền xa hơn. Cuối cùng chúng cũng đến tai các ngoại bộ trưởng trong cung điện nhà vua. Sau đó, nó được truyền đến các bộ trưởng nội các, tiếp tục, nó đến tai các hoàng hậu. Hoàng hậu trẻ tuổi nhất sau đó đã đi đến gặp nhà vua và nói, "Cô con gái Mandarava của ông hiện đang sống với một người đàn ông thế tục với một cái đầu cạo trọc kìa"

 

Khi nghe điều này, nhà vua đã trở nên rất tức giận và mắng hoàng hậu trẻ kia về những lời vu khống của cô:  "  Những gì cô đã nói thật ngu ngốc và điên rồ. Miệng cô như một nhà chứa tiêu cực. Một người nữ như cô, những kẻ thèm khát xì xào những lời lẽ dối trá như vậy thì không có gì tệ hơn một con quỷ. Con gái ta, Công Chúa Mandarava đã được thọ giới trong sự hiện diện của đại tu viện trưởng. Nó đã không có sự bám luyến tới bất kỳ vị vua nào, những người đã đến để nắm lấy bàn tay nó từ mọi nơi. Không thể nào có chuyện nó lại quan tâm tới việc ở lại với một người đàn ông bình phàm được. Câu chuyện này không thể tin được! Thậm chí nếu nó là điều cần xem xét, thì nó cũng là không thể một cách vật lý vì nó sống ở giữa 5 cánh quân được bao bọc với 5 vòng 500 tùy tùng cư ngụ ở đó. Ai có thể vượt qua họ mà không bị chú ý được? Ngay cả nếu một người trong số họ có dấu kín một sự xâm nhập bí mật, thì chắc chắn tất cả những người khác sẽ không thể giữ im lặng được! Ta yêu cầu cô cho ta biết ai đã bắt đầu tin đồn này! Hãy tìm ra người này và mang hắn lại đây cho ta!"

 

Hoàng hậu quay trở lại tìm 7 bộ trưởng nội các. Họ đã đi tới gặp các ngoại bộ trưởng là những người mà họ đã nghe được tin đồn. Trong sự vô vọng, họ đã không tìm ra được nguồn gốc của tin tức vu khống luẩn quẩn này. Các bộ trưởng chính sau đó trở về với nhà vua và không thể thực hiện được yêu cầu của nhà vua. Nhà vua rất tức giận. Ông khiển trách họ và cảnh báo họ hãy giữ im lặng về những suy nghĩ của mình trong tương lai. Ông nhắc họ rằng có nhiều người quan trọng có khát khao lớn với công chúa và các vị vua lân bang sẽ trở nên tức giận, rồi ông đã cho tất cả bọn họ vào sau song sắt.

 

Thu gom nhiều của cải, ông đã ra lệnh cho tất cả thần dân trong vương quốc Zahor tụ họp lại. Sau đó, với sự hiện diện của tất cả các thần dân, ông đã thông báo như sau: "  Kye ho! Hỡi những cư dân của vương quốc Zahor, hãy lắng nghe cho kỹ! Công Chúa Mandarava đã từ bỏ cuộc sống bình phàm để theo đuổi con đường Phật Pháp. Đã có tin đồn rằng công chúa đang sống cùng với một tăng sĩ trẻ. Ai đã nói rằng mình đã chứng kiến điều này thì nên bước ra phía trước, và tiền thưởng cùng sự giàu mạnh ở đây sẽ là của người đó".  Bất chấp lời đề nghị đầy kinh ngạc này, không một người nào dám đứng ra để nhận phần thưởng cả. Tin tức được công bố này lan tỏa ngày càng xa hơn. Các vị vua từ các nước lân cận đã cho gửi gián điệp tới để tìm hiểu xem đó có phải là sự thật hay không, họ dò hỏi từng nơi ở của công chúa. Nhưng không thể phát hiện ra được điều gì bất thường, cuối cùng họ đành trở về đất nước mình.

 

Sau đó, những người vợ của những người bị nhà vua cầm tù đã đi đến gặp người chăn bò và cho hắn ta rất nhiều tiền để hắn lên tiếng. Họ mua chuộc bằng đủ cách để hắn ta nói với nhà vua ngay lập tức rằng mình là một trong những người đã nhìn thấy người đàn ông trẻ ở cùng công chúa. Người chăn bò đi ra thị trấn. Trên đường đi, hắn gặp phải 9 dấu hiệu khó chịu. Khi đến giữa chợ, hắn lớn tiếng thu hút dân làng, "  Kye! Hãy nghe tôi nói, hỡi tất cả thần dân của vương quốc! Tôi là một trong những người sẽ nhận được những phần thưởng được ban bởi nhà vua chúng ta! Tôi là người đã tận mắt nhìn thấy Mandarava ở cùng một người đàn ông trẻ. Các vị có thể kiểm chứng và tự mình chứng kiến để xem lời nói của tôi là đúng hay sai."  Nói xong, hắn vơ lấy phần thưởng của mình và trở về nhà với đám gia súc của hắn.

 

Nghe tin, nhà vua lập tức ra lệnh cho các bộ trưởng của mình đi đến cung điện của Mandarava để điều tra. Tuy nhiên hoàng hậu nhấn mạnh rằng bà nên đi và do đó nó đã được quyết định. Khi hoàng hậu đến, bà đã bị từ chối không cho vào và ngất ngay tại chỗ. Tin tức này sau đó đến tai nhà vua. Cảm thấy bị xúc phạm, ông ra lệnh hoàng hậu trở lại với ông ngay và họ đã phá cửa vào cung điện của Mandarava và mang người đàn ông hiện diện trong đó tới cho nhà vua ngay lập tức.

 

Các bộ trưởng tuân theo mệnh lệnh, nhưng khi họ bước vào phòng trong cung điện, vô cùng ngạc nhiên, họ đã thấy một người đàn ông trẻ lộng lẫy ngồi trên ngai báu. Thân người đó là một hình ảnh cực kỳ nhân ái, mê say tỏa ra ánh sáng chói lọi. Công Chúa Mandarava cùng tập hội của cô đều ngồi trên sàn nhà trước mặt ông, lòng bàn tay họ chắp lại trong sự tôn kính khi họ cẩn trọng lắng nghe, tiếp thu từng lời nói của người đó. Không thể thực hiện được mệnh lệnh của nhà vua, các bộ trưởng trở lại để trình báo những gì họ đã thấy: "  Kye ma! Người đàn ông ẩn sĩ ở cùng công chúa và hội chúng không phải là người bình thường! Hoặc đó là một người con trai của thần tài bảo có hoặc là con trai của Vua Trời Brahma Phạm Thiên. Nếu không, vị đó phải là một vị Phật hóa thân vào thế giới con người. Khi chúng thần thấy vị đó là thầy tâm linh của công chúa, chúng thần không thể cắt ngang họ. Điều quan trọng là phải xem xét một cách cẩn trọng trước khi phản ứng. Đó là có thể là một sai lầm khi thực hiện điều gì đó liên quan đến vị này, không thể đảo ngược nghiệp tiêu cực có thể bị tích luỹ. Sự tích tập này có thể là khó để tịnh hóa hay sám hối".

 

Nghe họ nói, nhà vua cảm thấy bị xúc phạm. Ông nhảy dựng lên từ ngai vàng của mình. "  Các bộ trưởng các ông sẵn sàng phá vỡ luật pháp mà ta đã ban hành sao!


Bất kỳ người đàn ông bình phàm nào làm nhục con gái ta như thế này đều phải bị trừng phạt thích đáng. Hãy tóm lấy tên du đãng hạ cấp này, trói hắn lại và thiêu sống hắn trên một giàn gỗ tala. Còn với Mandarava, nó từ chối đi theo một gia đình danh giá theo mong muốn của ta, và bây giờ nó lại ở cùng một tên du đãng lang thang tầm thường. Hãy ném nó vào một hố đen đầy gai, nơi nó sẽ ở lại trong 25 năm làm người mà không nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Đặt hai tùy tùng chính của nó trong bóng tối và 500 tùy tùng còn lại trong xà lim! Hãy chắc chắn rằng họ thậm chí không bao giờ còn được nghe thấy âm thanh của một người nam nào."  Sau khi ra lệnh này, các bộ trưởng trước đây bị vào song sắt liền được thả.

 

Tin tức về tất cả điều này lan đi khắp các nước chung biên giới. Họ rất tức giận vì vua Zahor đã lừa dối họ và bọn họ bắt đầu chuẩn bị quân đội gây chiến. Công Chúa Mandarava và hai tùy tùng chính của cô đã bị bắt và trừng phạt theo lệnh của nhà vua. Công chúa quá đỗi quẫn trí về những gì các bộ trưởng đã làm với vị Đạo Sư quý báu đến nỗi cô hạ nhục họ ở trước tất cả các tùy tùng của mình: "  Các ngươi không sợ những tích lũy nghiệp tiêu cực mạnh mẽ như vậy sao, những điều khiến các ngươi tái sinh vô hạn trong các cõi địa ngục thấp nhất?" Nhưng họ không thể làm gì khác.

 

Trong khi đó, Bậc Đạo Sư Kim Cương đã phô diễn những năng lực kỳ diệu giác ngộ của mình. Nhiều vị thần đã xuất hiện trong không gian, và những cơn mưa như những vòi hoa sen đột ngột trút xuống. Giàn thiêu đã trở thành một hồ nước với dầu mè. Ở trung tâm chiếc hồ, một bông hoa sen khổng lồ kỳ diệu hé nở được bao quanh bởi nhiều cầu vồng và những đám mây sừng sững. Nhà vua, các bộ trưởng và tất cả mọi người trong vương quốc đều có thể nghe thấy rõ những lời cát tường cùng những ca khúc vang dội khắp không gian. Toàn bộ chiếc hồ và những bông hoa của nó giờ đây được bao quanh bởi một vòng lửa. Ngự tại trung tâm hoa sen là Đức Kim Cương Đạo Sư Padmasambhava như một cậu bé 8 tuổi, với tất cả những dấu hiệu hoàn hảo. Một ngọn lửa bình thường sẽ cháy trong 7 ngày mà không để lại dấu vết của khói. Nhưng những gì hiển hiện của ngọn lửa này thì vẫn còn! Không khí tràn ngập với những cầu vồng, âm thanh các nhạc cụ và mùi hương trầm tinh khiết.

 

Mọi người sau đó biết rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, người đàn ông trẻ này thực sự là một hóa thân Phật. Nhà vua đã gặp gỡ tất cả các bộ trưởng của mình. Sau đó, ông đã gửi bộ trưởng đầu lĩnh là Choden đến hiện trường, nơi vị bộ trưởng này đã vô cùng kinh ngạc khi trông thấy ngọn lửa được chuyển hóa và chiếc hồ tuyệt đẹp với hoa sen nở rộ. Trên hoa sen ngự vị Kim Cương Đạo Sư vĩ đại, sự xuất hiện kỳ diệu kinh ngạc của Ngài giống như Đức Phật Vô Lượng Quang Amitabha vậy. Xung quanh Ngài là 5 thiếu nữ, mỗi vị xinh đẹp như Mandarava và giữ 5 món cúng dường. Thấm nhuần với đức tin sâu sa, ông vội chạy về trình báo lại tất cả những điều này cho nhà vua.

 

Ngay lập tức nhà vua cùng đoàn tùy tùng của mình đi tới để tận mắt chứng kiến sự việc này. Bất cứ nơi nào ông nhìn đăm đăm vào bốn hướng, thì tất cả cái ông có thể thấy được đều ánh sáng sáng tỏ. Ông sững sờ không nói nên lời. Vào lúc đó, Đức Padmasambhava trẻ trung kinh ngạc, nói với ông: "  Có phải vị vua tiêu cực cuối cùng đã tới không? Ông đã cố gắng thiêu sống vị Đạo Sư mang bản tánh của chư Phật trong ba thời? Có phải nhà vua với sự gắn kết to lớn vào sự lừa gạt của thế gian này, người đã áp đặt luật lệ dựa trên những ảo tưởng vô nghĩa, cuối cùng đã đến? Có phải nhà vua với cảm giác lớn nhất của niềm tự cao tự đại dâng lên, người gây hậu quả chiến tranh trên người con gái vô tội của mình, cuối cùng đã gia nhập cùng chúng ta? Gốc rễ ngũ dục là vô minh. Có phải vị vua tiêu cực thiếu sáng suốt trong lúc này và trong tương lai cuối cùng đã tới không? Có phải vị vua với ý định lừa dối chúng sinh, vị vua ma quỷ vô đạo đức cùng quân tướng vô đạo đức cuối cùng cũng đã tới?"

 

Sau lời Đạo Sư nói, nhà vua đã quá quẫn trí với sự ân hận đến nỗi ông ngã lăn xuống bất tỉnh. Sau đó, khi tỉnh lại, ông than thở: "  Làm sao tôi lại có thể có suy nghĩ về sự tích lũy nghiệp xấu như thế này chứ? Mặc dù con gái tôi đã tìm thấy một vị Phật sống, nhưng tôi đã ý thức về điều này với tà kiến! Oh, làm sao tôi có thể nghĩ tiêu cực như vậy? Kye ma! Kye hu!"  Ông than khóc trong tuyệt vọng và bắt đầu kéo tóc mình ra, vò đầu bứt tai trong khi lăn lộn và đập thân mình trên mặt đất trong một cảm xúc hỗn độn. 

 

Các bộ trưởng chính lấp đầy với sự hối hận và bắt đầu bày tỏ niềm hối tiếc sâu sa của mình. Trong sự gượng ép, họ khẩn cầu vị lãnh tụ của họ là nhà vua: "  Xin lắng nghe, hỡi vị vua vĩ đại, chúa tể của loài người! Mặc dù chúng thần đã cảnh báo ngài rằng hãy thẩm tra người thanh niên này kĩ càng hơn, nhưng nó là vô ích. Bây giờ ngài phải đưa ra lời sám hối, cúng dường cùng những lời khẩn cầu."  Lần này, nhà vua đã nghe theo lời khuyên tâm huyết của bọn họ. Người dân xứ Zahor đã được yêu cầu tới, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay tín ngưỡng. Vô số người đã đến để làm chứng. Nhà vua đứng dậy giữa họ và bắt đầu dâng lên nhiều đảnh lễ trọn vẹn tới Đạo Sư Liên Hoa Sinh Padmasambhava. Với giọng nói đầy ân hận, ông run rẩy đưa ra lời cầu khẩn này:

 

"  Kye ma! O hỡi vị Phật trong ba thời, xin lắng nghe con! Sự hối hận lúc này trong con khiến con cảm thấy như tim mình thật không thể chịu đựng nổi. Khi con cố gắng hỏa thiêu một Đấng như Ngài trong những ngọn lửa cháy nóng nhất, Ngài đã biến lửa thành một chiếc hồ dầu mè. Sau đó, ở trung tâm chiếc hồ kỳ diệu này, Ngài đã xuất hiện trong sự vinh quang trọn vẹn, ngự trên nhụy một bông hoa sen nở rộ. O hỡi đấng thuần khiết không chút lầm lỗi, bậc minh sư biến hóa, con xin đảnh lễ và dâng lên lời tán thán Ngài, Đấng Padmasambhava tự sinh bất tử! Con xin công khai sám hối với sự ân hận sâu sa và với sự hối tiếc về bất kỳ tổn hại nào mà con đã mang đến thân giác ngộ thiêng liêng của Ngài! Và con cầu mong lòng nhẫn chịu của Ngài cho những lỗi lầm của con! Con cúi mình dâng lên Ngài vương quốc của con, và con cầu nguyện rằng Ngài sẽ chấp nhận nó ngay lúc này. Con, nhà vua Indra Vicharadhara, sẽ vẫn đi theo Ngài, và con cầu nguyện rằng Ngài sẽ xua tan vô minh trong tâm thức chúng sinh! Lúc này xin hãy đến ngự trong cung điện của con".


Khi nhà vua dâng lên cúng dường và thỉnh cầu này, tất cả mọi người hiện diện ở đó đều có thể nhìn thấy các vị chư thiên, long thần, dakini, các hóa thân của Đạo Sư cùng chư Phật ở trong những cuộn mây lớn với nhiều cầu vồng. Sau đó, những âm thanh dễ chịu của một cây đàn vina hay có thể được nghe thấy, cùng những lời tán dương: "  Hrih! Xin tán thán thân Đức Padmasambhava vĩ đại, thân tự do và không bị nhiễm ô bởi sự bất tịnh" Nhiều lời tán thán như vậy có thể được nghe rõ ràng.


Sau đó tất cả mọi sự đều tan biến vào hư không, và người dân trong vương quốc đều tràn đầy sự tín tâm cùng lòng sùng mộ.

 

Đích thân vị Đạo Sư Kim Cương vĩ đại nói: "  E ma ho! O hỡi vị vua vĩ đại và hội chúng các thần dân của ngài, hãy chú tâm! Ta là bản tánh của chư Phật trong ba thời! Không bị nhiễm ô bởi tử cung thai tạng, Ta có nguồn gốc tự sinh từ một bông hoa sen. Nền tảng của Ta cũng giống như bản chất của hư không, không bị ảnh hưởng bởi hạnh phúc hay bất mãn. Thân Ta bất nhiễm trong bản tánh và không thể bị tổn hại bởi hỏa đại. Các hoạt động tích lũy thiện nghiệp và ác nghiệp không ảnh hưởng đến Ta một chút nào, nhưng chúng sinh chắc chắn sẽ có những sai lầm do nhận thức mơ hồ. O hỡi nhà vua, những phẩm chất cao quý của ngài giống như Núi Tu Di, vĩ đại nhất trên những ngọn núi. Tất cả điều này đã xảy ra để chỉ dẫn Ngài đến với con đường của Đức Phật. O này nhà vua, đừng ngã lòng! Ta chấp nhận lời đề nghị của ngài. Bây giờ Ta sẽ đến cung điện như ngài thỉnh cầu."

 

Nhà vua tràn ngập niềm vui. Ông ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng phải khởi hành cùng một lúc tới cung điện và mang nhiều áo gấm lụa là, y phục, vương miện mới nhất, tốt nhất của mình ra. Ông cũng ra lệnh cho họ trở về với 7 cỗ xe thượng hạng nhất được trang trí với những lá cờ và biểu ngữ chiến thắng khác nhau. Họ nhanh chóng rời đi để thực hiện mong muốn của nhà vua. Khi họ trở về, một ngai vàng gấm lụa đã được chuẩn bị trên cỗ xe ngựa lộng lẫy nhất, và vị Đạo Sư Kim Cương ngự trên ngai tòa của mình, được bao quanh bởi những lá cờ chiến thắng và biểu ngữ cát tường. Sau đó nhà vua dâng lên từng món cúng dường với y phục thổ cẩm tới vị minh sư, Ngài cẩn thận đặt chúng trên từng đĩa. Ông cũng đội vương miện và hài nhà vua. Sau đó, đích thân nhà vua treo ách xe ngựa quanh cổ mình và thay cho những con ngựa, ông bắt đầu kéo cỗ xe đến cung điện. Điều này được chứng kiến bởi tất cả những người dân trong vương quốc, họ vây quanh chiếc xe ngựa trong một cuộc diễu hành lớn, dâng lên những lễ lạy không ngừng nghỉ và cầu nguyện với đức tin nhiệt thành, sùng mộ Khi đến cung điện, vị Đạo Sư Kim Cương vĩ đại bước vào những căn phòng bên trong và bắt đầu ngự trên ngai vàng được nạm 7 viên ngọc quý. 

Samaya 


Điều này hoàn thành chương 27 [47] về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

* 

Kể lại cách Mandarava đã gặp Đạo Sư Padmasambhava, 

Thọ nhận các Pháp, và làm thế nào, từ những lời vu khống ác ý, nhà vua lại có để được chinh phục nhờ phương tiện kỳ diệu.       

28. Tự Do Khỏi Ngục Tù

  

Sau đó, nhà vua cho gọi Công Chúa Mandarava tới. Khi các bộ trưởng đi tới để mở cửa hố nơi cô bị ném vào, họ nói với cô về những phép lạ huyền diệu mà vị Đạo Sư Kim Cương vĩ đại đã thực hiện. Đưa cho cô lá thư viết bằng mực vàng ròng của nhà vua cho triệu cô đến cung điện, họ cầu xin, van nài cô chấp nhận. Nhưng cô vẫn im lặng.

 

Khi các bộ trưởng quay trở lại không thành công, sau đó nhà vua nói với hoàng hậu hãy đi và thuyết phục Mandarava đến cùng mọi người. Hoàng hậu thu gom những bộ y phục lụa của công chúa, hy vọng rằng cô sẽ mặc chúng và quay trở lại. Khi gặp con gái, bà đã xin cô xem xét lại, Mandarava trả lời: "  Dù cho bất cứ vấn đề gì xảy ra thì con đã dự định ở lại đây trong suốt khoảng thời gian 25 năm con người. Con sẽ không bao giờ không làm theo lệnh của vua cha. Tuy nhiên, cha mẹ chỉ có một người con gái như con. Làm sao cha lại có thể làm như vậy với Đạo Sư của con, Ngài là vị Phật đích thực trong 3 thời?"  Sau đó Mandarava òa khóc và ngã vào vòng tay mẹ mình. Cả hai đều bật khóc không thể kiểm soát.

 

Trong một thời gian ngắn, tất cả những người nữ ở xứ Zahor cũng bắt đầu khóc, và nhà vua lo sợ rằng công chúa đã qua đời. Ông vội vã đi tới hầm giam. Ông thấy an tâm vì con gái mình vẫn còn sống, và ông cầu xin cô hãy trở về hoàng cung để xem những gì đã xảy ra. Vỡ òa trong nước mắt, ông nói: "O hỡi con gái, ta không bao giờ có ý định tạo ra một trở ngại cho Giáo Pháp của con như vậy. Cha đã cảm thấy hối hận sâu sa vì những gì mình đã làm. Nghĩ về bản thân mình như vậy, giờ đây ta đã vô cùng suy xụp. Hành xử vô nghĩa của ta đã mang đến đau buồn cho con như vậy, hãy tha thứ cho ta". Sau đó, ông nắm lấy tay cô và hôn cô, và mẹ cô vuốt ve, dỗ dành cô.

 

Khi cô đồng ý cùng họ trở về hoàng cung, cả nhà vua và hoàng hậu đều khóc. Mandarava đã được gặp lại với vị Đạo Sư Kim Cương, cô phủ phục đảnh lễ trước Ngài khi Ngài lau nước mắt cho cô. Cô tán thán Ngài với bài ca sùng mộ chân thành này:

 

"  Ngài, Đấng Giác Ngộ, đã đến lục địa phi đức hạnh này. Vô úy và năng lực, Ngài đã đến cùng với sự không kỳ vọng cũng không e ngại. Hiện thân của các hoạt động giác ngộ kỳ diệu, cầu mong có được may mắn cát tường từ ánh sáng rực rỡ không ngừng dứt trước sự phô diễn giác ngộ của Ngài! Được sinh ra từ hoa sen, thân Ngài là một dải ánh sáng rạng rỡ trắng và đỏ. Ngài được điểm tô với những dấu hiệu cao cả tuyệt diệu, và 32 tướng chính của Ngài nhìn thật rực rỡ làm sao. Những phẩm tánh tôn quý của Đức Phật sinh ra từ hoa sen trong 3 thời vượt khỏi mọi giới hạn tâm thức. Với đức tin sâu sa, con đảnh lễ trước Ngài – Đấng hiện thân như một với chư Phật trong 3 thời. Như hiện thân của niềm hỷ lạc với những dấu hiệu chính và phụ, sắc tướng Ngài cân đối toàn hảo vĩ đại tựa núi Tu Di Meru. Hình dáng tựa vị vua của tất cả các núi, Ngài có một vòm đầu như một tịnh bình; tóc Ngài đáng yêu như hoa ưu đàm nở rộ. Mũi Ngài hoàn hảo cân đối; Môi trên và dưới của Ngài tựa như những cánh hoa của một bông sen. Lưỡi Ngài dài, dày, có màu đỏ như một hoa sen. 50 chiếc răng sáng trắng được sắp xếp trên hàm răng Ngài, tựa như một dãy núi tuyết. Khuôn mặt Ngài bình yên. Cổ và cằm Ngài ánh lên với sức sống tươi trẻ. Âm thanh giọng nói Ngài rực rỡ tựa chim Kalapanga (Ca Lăng Tần Già) ở Tịnh Độ. Ria và bộ râu đen láy của Ngài tựa như lông của một chú gấu đen tuyệt đẹp. Nước da Ngài trắng hồng như một vỏ ốc xà cừ trắng tinh tế được thếp son. Cổ Ngài hoàn hảo mang hình dáng tựa một chiếc bình đẹp tinh tế. Xin tán dương sự hiện diện của Ngài! Tựa như loài sư tử tuyết vĩ đại sẵn đủ trong sự vinh quang trọn vẹn, vai Ngài rộng và uốn cong theo một tỷ lệ hoàn hảo. Các ngón chân và ngón tay Ngài dài và có màng mềm. Móng tay Ngài là những màu sắc của tinh thể đồng đỏ, rốn Ngài thu hút tựa thân cọng sen. Âm tàng Ngài cuốn hút và co gọn, hoàn toàn ẩn kín như của một chú voi hay ngựa. Bắp chân Ngài tựa chân một chú nai, và bàn chân sen của Ngài đầy đặn. Ngài du hành qua không gian trong một chớp nhoáng như một cầu vồng. Sự hiện diện ngày càng trẻ trung của Ngài nâng đỡ tứ chi khỏe mạnh, đầy đủ. Khi Ngài mỉm cười, sự thu hút của Ngài tỏa rạng không chút khiếm khuyết. Sự hiện diện của Ngài làm say đắm những ai ngắm nhìn, càng ngắm càng thấy không thấy đủ. Sự rạng ngời chói sáng của Ngài như một khối cầu ánh sáng. Xúc chạm vào làn da Ngài mang đến sự an lạc - kim cương cho tất cả mọi người. Ngài, Đức Padmasambhava, bậc hiển lộ những dấu hiệu siêu phàm tuyệt diệu này. Xin tán thán tới thân Phật hiển lộ 32 hảo tướng chính."  Cô đã lễ lạy và dâng lên lời tán thán này với lòng sùng mộ lớn lao.

 

Vị Đạo Sư Kim Cương đã rất hài lòng, và Ngài đáp lại lời công chúa: "  E ma! Thân quyến hiện tại của con không thể được gọi là quyến thuộc thân thương. Quyến thuộc thân thương đích thực là bậc dẫn đạo tâm linh quý giá, người dẫn dắt một ai đó trên con đường chân thực, người hiển lộ con đường đức hạnh và khiến một ai đó quay đầu lại với con đường tổn hại. Quyến thuộc máu mủ hiện tại của con giờ đây là những đối tượng của lòng từ bi và nhân ái, và những người thân thông thường sẽ chỉ khuyến khích con theo đuổi con đường tâm linh. Nhẩm tính nhiều ví dụ về điều này, và con sẽ thấy rõ ràng rằng điều này thực sự là chu kỳ hiện hữu của cuộc sống.

 

"  Không thể để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn vô tận của họ, con trở nên đau khổ không ngừng. Đây không phải là ý nghĩa của sự giàu có và mọi thừa hưởng ở tất cả. Những gì con cuối cùng tìm thấy là kho tàng giàu có thật sự. Sự giàu có với 7 cấp của các bậc thánh trí là sự giàu có không thể được tìm thấy ở bên ngoài. Ngoại trừ điều đó thì tất cả mọi nỗ lực khác nhằm đạt được và duy trì sự giàu có thường là nguyên nhân cho sự đau khổ. Đó là điều mà chúng ta gọi là sự giàu có không được tìm thấy trong sự tồn tại hay tịch tĩnh – thay vào đó sự giàu có được tìm thấy trong Phật tánh quý báu. Điều này không được thừa nhận rộng rãi, và không mấy ai nhận ra nó, điều này khiến nó bị lãng phí. Ngay cả khi nó được công nhận, thì thật lãng phí nếu nó không được duy trì. Thời gian đã đến để hiểu rằng những hoàn cảnh tiêu cực có thể được chuyển hóa thành năng lực và thành tựu tâm linh, và hoàn cảnh khiến ta tận dụng được chân lý này. Hãy tận dụng nghịch cảnh và những trở ngại như con đường!"  Chỉ bằng cách nghe lời nói của Ngài, Công Chúa Mandarava đã được giải thoát một cách tự nhiên.

 

Vua Vicharadhara sau đó dâng lên cho con gái mình thịt của một bậc linh thánh, một viên ngọc như ý cùng sự giàu có của vương quốc không chút ngoại trừ. Ông khẩn cầu Đạo Sư ban truyền những phẩm tánh cao quý của Ngài cho ông đến tận khi kết thúc cuộc đời. Ông thỉnh cầu Bậc Đạo Sư Kim Cương ở lại xứ Zahor cho đến khi tất cả mọi người đều được dẫn dắt đến thành quả. Trong 3 năm tiếp đó, Bậc Đạo Sư Kim Cương đã xoay chuyển Pháp Luân đại dương mênh mông những giáo lý của Đức Phật.

 

Khi các vị vua của các xứ khác nghe tin rằng Mandarava đã được dâng lên Đạo Sư Kim Cương, họ cảm thấy bị lừa dối và giận dữ chuẩn bị quân đội để gây chiến, ào ạt mạnh mẽ, họ tiến vào vương quốc Zahor từ bốn hướng. Thống lĩnh Mahabala đi vào Zahor qua một khe núi hẹp và chiếm giữ một số ngôi làng nhỏ. Bậc Đạo Sư Kim Cương đã can thiệp, Ngài sử dụng sức mạnh thần kỳ của mình chống lại những kẻ thù. Đặc biệt, Ngài đã phát lộ mạn đà la 8 Đấng Heruka, xoay ngược những kẻ xâm lược khiến tất cả bọn họ phải trở về đất nước của mình.

 

Bậc Đạo Sư Kim Cương đã triệu tập cùng với 360 bộ trưởng của vua, 5 hoàng hậu, 500 tùy tùng của Mandarava cùng 108 tăng sĩ trong tập hội của mình, và Ngài đã chuyển Pháp Luân cho họ. Ngài đã dạy 8 bộ phát lộ và thủ hộ thiêng liêng, 5 tantra phát lộ cô đọng cho Đại Viên Mãn, 4 bộ về  giáo lý Tâm Yếu, 5 tựa đề khác, 20 Tantra, 42 bộ huấn thị bí truyền.

 

Từng và mỗi một trong số các đệ tử của Ngài đều được đưa đến thành tựu, và 12 vị đã trở thành các Mahasiddhas (đại thành tựu giả)[48]. Tất cả đều được thiết lập bất thoái chuyển trên con đường tâm linh. Giáo lý của Đức Quán Tự Tại Quán Âm Avalokiteshvara lan rộng khắp xứ Zahor, và tất cả cư dân ở đây đều đem lại thành quả tu tập. Nhà vua đã loại bỏ tất cả những người dị giáo khỏi vương quốc, và sau đó như một người thừa kế của ông, Đức Đạo Sư Kim Cương Liên Hoa Sinh Padmasambhava đã ngự trên ngai vàng để cai trị toàn bộ vương quốc.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 28 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

*

Kể lại cách Mandarava được giải thoát khỏi ngục tù và cách Đức Guru Padmasambhava xoay chuyển Pháp Luân,

nhờ vậy đặt toàn bộ vương quốc Zahoor trên con đường Phật Pháp và trên mức độ cao cấp của thành tựu.     

29. Từ Bỏ Luân Hồi 

 

Bậc Đạo Sư Kim Cương đang chuẩn bị khởi hành đến hang động lừng danh Maratika để hoàn thành sự thành tựu bất tử. Mọi người đều khẩn xin Ngài đừng đi, nhưng không được. Sau đó, Ngài hát lên bài ca kim cương này tới Mandarava: "E ma ho! Con gái trẻ trung đầy kinh ngạc với thân chói lòa ánh sáng! Thân tướng xinh đẹp của con duyên dáng, dẻo dai và hoàn toàn cao cả. Đáng yêu với nụ cười rạng rỡ, không nhiễm ô bởi bất kỳ lầm lỗi nào, thân kim cương của con tựa như một bông hoa sen đáng yêu. Khi Ta nhìn lên con, người con gái trẻ trung với mọi dấu hiệu viên mãn, sự rạng rỡ từ sắc tướng trẻ trung, dễ chịu của con khiến tâm Ta say mê với vẻ đẹp lạ thường.

 

"  Bông hoa Mandarava trẻ trung này chỉ xuất hiện một lần. Hãy nghe Ta nói thật chú tâm, O hỡi công chúa của những phẩm tánh tôn quý. Trong đại dương đau khổ vô hạn của hiện hữu này, sự ám ảnh với luân hồi chỉ có thể mang lại những nỗi ám ảnh vô nghĩa hơn mà thôi. Bây giờ đã đến lúc để chuẩn bị cho một tương lai ý nghĩa. Hãy hoàn thành Pháp thiêng liêng, hỡi công chúa trẻ trung! Hoạt động thế tục thì bất tận. Sự hối hả, bận rộn vô nghĩa của hoạt động từ quá khứ là tất cả những gì có thể khiến ta hy vọng trong tương lai. Đây là lúc giải phóng bản thân mình ra khỏi hoạt động. Công chúa trẻ trung, hãy quán sát tâm chính con! Khi một người bị thống trị bởi sân hận, kẻ thù bị nắm giữ sai lầm từ bên ngoài. Điều này khiến bản thân và những người khác thất bại trong quá khứ, và đó là tất cả những gì có thể được trông mong trong tương lai. Đã đến lúc thuần hóa những ảo tưởng tinh thần của chính con. Công chúa trẻ trung, hãy đưa bản thân mình vào con đường! Bị lấn lướt bởi những ảo tưởng, không hổ thẹn trong những nguyên nhân của sinh tử và không thể phân biệt chúng, con còn có thể mong chờ gì nữa trong tương lai? Đã tới lúc để nhận ra sai lầm của tất cả điều này và tiếp tục trên con đường Giáo Pháp, không chút tán tâm.

 

"  Công chúa trẻ trung, hãy khơi nguồn trí tuệ của con! Bị lấn át bởi niềm tự mãn, giữ đường lối của một bà hoàng và ra lệnh cho những người khác, con sẽ luôn dậm chân tại chỗ. Đã đến lúc khảo sát và ra lệnh cho chính bản thân mình. Hỡi thiếu nữ trẻ trung, hãy nhận ra thiếu sót của con! Khi bị áp đảo bởi sự ganh tị, con đã chê bai và coi thường người khác. Sự cạnh tranh cho vị trí và quyền lực sẽ luôn chỉ là như vậy. Đã đến lúc đi theo con đường của các đấng chiến thắng.

 

"  Công chúa trẻ trung, hãy tu tập trong nhận thức thuần khiết! Trong đại dương vòng xoáy tích lũy ác nghiệp, những tái sinh bất thiện sẽ luôn là tất yếu. Đã đến lúc thiền định quán niệm về sắc tướng trống rỗng, rạng rỡ của chư tôn. Công chúa trẻ trung, hãy tinh tấn trên con đường của trạng thái phát sinh! Can dự vào những cuộc trò chuyện dựa trên sự mơ hồ là nguyên nhân cho sự gia tăng các ảo tưởng. Những ngôn từ nhàn rỗi bất tận của quá khứ sẽ chỉ lại lặp lại tương tự trong tương lai. Đã đến lúc để tụng niệm tinh hoa của âm thanh trống rỗng.


"  Công chúa trẻ trung, hãy làm phát sinh các chư tôn! Công chúa trẻ trung, hãy thiền định suy niệm về các giai đoạn phát sinh và hoàn thiện, con đường thâm sâu về pháp môn, đó là con đường bí mật của những bậc trì giữ giác tánh tinh thuần. Ta tự hỏi không biết con có được định mệnh may mắn để thể nhập vào con đường này hay không đây. Đã đến lúc để thiền định suy niệm về sự vô tri giác thanh tịnh, không biên kiến. Công chúa trẻ trung, hãy phát triển đức tin nhất tâm!"

 

Khi Mandarava nghe được những lời này, cô đã vô cùng xúc động và cô trả lời Ngài như sau: "  E ma ho! Đấng trẻ trung tôn quý, thật mãn nguyện khi được ngắm nhìn Ngài! Thân Ngài hoàn hảo cân đối trong mọi phương diện. Ngài sở hữu thân tướng vô thượng với những dấu hiệu viên mãn chính và phụ. Khi con càng ngắm nhìn Ngài dù cho là bao lâu đi nữa, con đều cảm thấy là không đủ. Khi con càng được lắng nghe khẩu ngữ kim cương du dương ý nghĩa của Ngài, con luôn cảm thấy muốn được nghe nữa, thêm nữa. Khi con cảm nhận sự vô hạn trong lòng từ bi và thiện lành của Ngài, tâm con không thể chịu đựng được khi phải rời xa Ngài

 

"  Từ giờ cho tới tới các kiếp sống tương lai, đấng siêu phàm, xin hãy luôn gìn giữ con trong sự săn sóc yêu thương,bi mẫn của Ngài. Bất cứ ai con gặp, bất cứ nơi nào con đến, cho dù xứ sở đó là tuyệt hảo hay không tuyệt hảo, tất cả những thể nghiệm đó đều như trong một thành thị mênh mông của những bậc cư ngụ tâm linh.

 

"  Khi cô gái này chết đi, cô ta sẽ không ở trong xứ sở của mình. Nơi nào có thể thật sự là vùng đất mẹ chân thực được tìm thấy đây? Cung điện châu báu này có thể là vô thượng, nhưng cũng giống như một bong bóng sắp vỡ tung, nó không thể tồn tại mãi.

 

"  Khi cô gái này chết đi, cô ta sẽ không còn có một ngôi nhà đầy đủ với người thân nữa. Nơi đâu là 1 cung điện trường cửu được tìm thấy đây? Mặc dù vua xứ Zahor, cha con, thuộc dòng dõi tuyệt hảo, nhưng cũng giống như những đám mây trôi trên bầu trời, ông sẽ không tồn tại mãi mãi được.

 

"  Khi cô gái này chết, sẽ không còn ngay cả tên của cha con. Ở đâu có thể tìm thấy một trú xứ tổ tiên vĩnh cửu của con đây? Mặc dù mẹ con, hoàng hậu, được sinh ra thuộc giai cấp gia đình cao nhất, nhưng trạng thái này, giống như một chỗ đứng cho phần còn lại giả tạm, nó không thể giữ vững mãi được.

 

"  Khi cô gái này đã chết đi, sẽ không có người bạn nào có thể thật sự chia sẻ nỗi đau buồn về thể nghiệm đó. Ở đâu có thể tìm được một người bạn vĩnh cửu như vậy đây? Mặc dù ngọc như ý là tuyệt hảo nhất trong tất các loại ngọc quý, nhưng nó không thể tồn tại mãi mãi.

 

"  Khi cô gái này chết, giống như sương mai đọng trên lá cỏ, không số tài sản nào có thể được mang theo với cô ấy. Có thể tìm thấy ở đâu định mệnh may mắn được vĩnh viễn giàu có đây? Ở chốn luân hồi này, một người liên tục bị tán tâm bởi các hoạt động thế tục. Một người bị ràng buộc bởi các lực lượng thắt chặt họ trong ngũ dục dựa trên bám luyến và sân hận. Bằng cách mua chuộc một hình thức không lành mạnh, sự bám luyến càng phát triển cho những người thân thuộc. Mải mê với những lời dối trá, vu khống và thốt ra những câu nói tầm thường dung tục, người ta không có thời gian để nhớ tới Pháp. Xin Ngài, với lòng từ ái vô hạn của mình, xin Ngài hãy bảo hộ con ra khỏi ác nghiệp này. Để chúng ta có thể không bao giờ rời chia tách, con khẩn xin Ngài, xin hãy đưa con đi cùng Ngài trên cuộc hành trình này. Xin hãy hiển lộ cho con con đường giáo lý Mật thừa quý giá"

 

Sau đó, Vị Đạo Sư Kim Cương trả lời: "  Con gái tín tâm, mặc dù con đã có định mệnh may mắn, nhưng để thực hành con đường bí mật, con cần phải có sự tinh tấn để thực hành trong bất kì khó khăn nào đến với bản thân mình và nhẫn nhục ngay cả với cái giá là cuộc đời con. Với một tâm thức nghĩ về tương lai và sẵn sàng chịu đựng gian khổ trong hiện tại, một người cần phải sẵn sàng vứt bỏ thân thể của thịt và máu này, nếu điều đó là cần thiết, để hoàn thành con đường bí mật!"

 

Mandarava trả lời: "  Con có niềm tin lớn lao, cái thấy thanh tịnh và lòng sùng mộ nhiệt thành không gián đoạn. Con khẩn cầu Ngài, xin hãy mang con đi theo Ngài trên cuộc hành trình này. Thậm chí nếu con phải ăn đất ăn đá để nuôi sống bản thân mình, con cũng sẽ làm!"

 

Sau đó, vị Đạo Sư nói: "  Than ôi! Sau đó Ta sẽ khởi hành về phía Đông. Con, cô gái trẻ, nên xoay người và hướng mặt về phía Đông. Hãy ở nguyên vị trí hiện tại của con. Cho đến khi chúng ta gặp lại nhau một lần nữa, dù cho bất kỳ sợ hãi nào con có thể gặp, hãy giữ vững phẩm hạnh can đảm của tri giác thanh tịnh."

 

Nói xong những lời này, Ngài bay lên trong không gian. Tất cả các Dakini từ cảnh giới Khechari đã đến hộ tống Ngài. Nhà Vua Zahor, các bộ trưởng, thần dân và hội chúng đều trải qua cảm giác buồn đau. Tràn đầy đau khổ và òa khóc không kiểm soát được, bọn họ thỉnh cầu Đạo Sư.

 

Ngày hôm sau, vào lúc tinh mơ, khi tất cả đều nhìn vào, Mandarava đã ra đi mà không chút mảy may bám luyến nào với nhà vua, thân quyến, tùy tùng, sự giàu có cùng tài sản. Cô vẫn an trụ trong tư thế thiền định, an tọa trong mạng lưới bảo hộ từ ái và bi mẫn của Đạo Sư Padmasambhava xứ Oddiyana. Cô đi qua không phải một, mà là hai hay ba thung lũng cùng các xứ sở, và đột nhiên cô thấy mình ở một vùng đất không có người ở. Nơi đó rất là đáng sợ, phẫn nộ và gồ ghề đến mức khó tin.

 

Trong suốt 3 ngày dài, cô vẫn bị mắc kẹt trong một khe núi hiểm trở không có thức ăn, thức uống và nơi trú ẩn. Cô đói khát và lạnh đến tận xương tủy. Tất cả những gì cô có thể nghe thấy được là những âm thanh kỳ lạ của nhiều loài chim và động vật nhiệt đới hoang dã. Cuối cùng, cô đã trèo qua một đỉnh núi, chỉ để thấy mình buộc phải rơi vào thêm một thung lũng khủng khiếp đổ sụp khác. Sau đó cô hoảng hốt và trong tình trạng khổ đau tuyệt vọng, cô đã đi vào chiều sâu tâm hồn mình, nơi mà lòng sùng mộ tự nhiên và nhiệt huyết của cô vẫn không hề bị ảnh hưởng. Cô khẩn thiết kêu lên trong tuyệt vọng: " Kye ma! Kye hu! Hỡi Bậc Đạo Sư Chúa Tể của Oddiyana! Đấng Đạo Sư hiển lộ con đường giải thoát! Xin hãy nhìn lên con ngay lúc này với lòng từ bi thương xót của Ngài! Đầu tiên, con đã đến đây trong xứ sở này ở phương Bắc. Kế đó, con đã bị nhấn chìm bởi một khu rừng rậm rạp đầy thú hoang. Tiếp đó, các âm thanh nước rơi xuống khe núi hiểm trở bịt kín tai con. Con sợ hãi vô cùng vì có thể con đang ở một xứ sở man rợ của loài ma quỷ ăn thịt người! O hỡi Đấng trẻ trung đầy ân phước, con có thể tìm thấy Ngài ở đâu bây giờ? Nếu không có Ngài, tâm con là đầy lay động và yếu ớt!

 

"  Đầu tiên, con ở đây trong một vùng đất không bóng người, cỏ cây hoang dại khiến từng cơn gió nhảy múa. Tiếp đó, có những âm thanh quạ kêu không ngừng ở trong rừng. Rồi, mặt trời bị che khuất bởi bóng tối của đêm đen. Con đang tự hỏi mình đã đi vào bardo giữa đời này và đời sau chăng? Ở đâu là một Đấng có tiếng nói du dương tựa như âm nhạc đến tai con đây? Phải chăng Ngài không thể nhìn thấy con lúc này, giờ đây tâm trí con tràn lấp sự buồn bã và lạnh lẽo rồi.

 

"  Đầu tiên, con đơn độc ở xứ sở này, không có dù chỉ một người bạn đồng hành  nào. Tiếp đó, nó giống như một bãi tha ma đầy ma quỷ ám. Rồi lại có những tiếng ồn ào kỳ lạ liên tục những sinh vật trong rừng. Dường như con đã đến thành thị của thần chết! Xin hãy nhanh chóng nhìn lên con lúc này với lòng thương xót, từ bi của Ngài! Xin giữ con trong trái tim Ngài, O hỡi Đấng Chúa Tể viên mãn của Pháp!"  Sau đó, cô đổ gục xuống đất trong nước mắt.

 

Thông qua sự toàn giác của mình, Đạo Sư Liên Hoa đã biết về hoàn cảnh trớ trêu của cô và Ngài đã đi đến gặp cô. Mandarava òa khóc trong sự hiện diện của Ngài, cảm thấy vô cùng biết ơn, cô đã ôm chặt lấy Ngài. Sau đó Ngài đã nói lên những lời này: "  Cam kết không sợ hãi của con về lòng dũng cảm đã thành cái gì đây khi lúc này mà con đang phải đối mặt trước một vùng đất độc ác và đáng sợ? Một hoàn cảnh khủng khiếp như thế này là chất xúc tác cho thực hành thực sự của một hành giả nhằm khơi bật ra mọi thứ. Những nghịch duyên là sự giàu mạnh đích thực cho một hành giả. Một nơi tối thượng cho thực hành như thế này là vị trí cao quý nhất cho việc thành tựu các Pháp sâu xa tột cùng. Một nơi đáng sợ, không thoải mái là lưỡi dao chặt đứt niệm tưởng lan man. Nền mộ địa tha ma phẫn nộ là môi trường mà nhờ đó cái thấy lừa dối của chủ nghĩa vĩnh cửu được phơi bày. Đất đai cằn cỗi là để khám phá ra bản tánh huyễn hóa, vùng đất đáng sợ là để khám phá ra Pháp thiêng liêng tột cùng. Những âm thanh rừng rú là lời giới thiệu vào Bardo. Buồn bã và hứng khởi, sự thật và dối trá – những thứ này là không tồn tại. Việc thực hành thực sự về lòng sùng mộ Đạo Sư là việc vun trồng không sụt giảm tín tâm nhiệt thành. Đây là nền tảng nghỉ ngơi, nơi cứu cánh cho Bardo được tìm thấy. Trong Bardo, những âm thanh đáng sợ giống như một ngàn con rồng gầm rú tựa như những âm thanh từ các sứ giả thần chết tới gần. Như một nhà kho tăm tối không thể được chiếu sáng trong một đại kiếp ánh sáng. Nó cũng giống như khi bị mắc kẹt trong một khu rừng dày đặc nơi tua tủa vũ khí sắc nhọn, với 8 con hẻm hẹp đến đáng sợ và 4 âm thanh phẫn nộ. Sự đau khổ là không thể chịu đựng được, vượt ngoài sức tưởng tượng!"

 

Ngay lập tức, những tiêu cực và che chướng của Mandarava được tịnh hóa sạch sẽ. Tất cả những phẩm chất cao quý phát triển trên con đường đã phát sinh trong tâm cô.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 29 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

* 

Kể lại cách, nhờ những chỉ dẫn giải thoát của bậc thầy,  

các dấu hiệu từ bỏ luân hồi của cô xuất hiện, 

và con đường Pháp đích thực được thấy.      

30. Thành Tựu Trường Thọ Trong Hang Maratika 

 

Sau đó, họ đã đi cùng nhau đi đến hang động Maratika, chốn năng lực linh thiêng nơi các mạn đà la bên ngoài, bên trong và bí mật được hoàn tất. Trong điều kiện các thuộc tính cao quý hoàn hảo, nơi này giống như một viên ngọc như ý vượt trội hơn bất kỳ nơi chốn thiêng liêng nào khác ở Ấn Độ dành cho thực hành khai ngộ tâm linh. Đạo Sư và vị phối ngẫu đã làm phát sinh mạn đà la của chư tôn, và công chúa đã cúng dường điều này lên bậc Đạo Sư Kim Cương: "Để bước vào con đường bí mật của mạn đà la kim cương, con xin dâng lên chính thân thể định mệnh lớn lao của mình như mạn đà la cúng dường."

 

Dâng lên thân thể và mạng sống của chính mình như vậy, Mandarava đã hát lên bài ca khẩn cầu Đạo Sư này: " Kye! O hỡi bậc trì giữ giác tánh nguyên sơ thuần tịnh vĩ đại Padmasambhava, nhân cơ hội quý báu này, khi Ngài đang chuẩn bị ban quán đảnh về con đường bí mật quý giá của những bậc trì minh vương, nhờ thiện tâm của Ngài, xin trao cho con những quán đảnh bên ngoài, bên trong và bí mật làm chín mùi và thuần thục."

 

Sau đó, từ hơi ấm nơi vầng trán của bậc Đạo Sư Kim Cương vĩ đại xuất hiện những ân phước, ban quán đảnh tịnh bình. Lần lượt theo thư tự, Ngài ban quán đảnh khẩu ngữ bí mật, điều đưa đến sự phát triển tất cả những phẩm tánh tôn quý, quán đảnh tâm pha lê nhằm đánh thức các chất dịch thiết yếu, và, để phát lộ bản tánh tinh ròng của thực tại như nó vốn là, quán đảnh biểu lộ tuyệt đối tâm. Ngài đã ban quán đảnh đại lạc để tịnh hóa, làm sạch các kinh mạch năng lượng, quán đảnh thực phẩm linh thánh trống rỗng để tịnh hóa, làm sạch những nguồn năng lượng quan trọng thiết yếu, quán đảnh mạn đà la kim cương cho con đường tu tập hợp nhất, và đại quán đảnh bí mật của thực hành hợp nhất thuần tịnh. Ngài đã ban quán đảnh 5 trí tuệ nguyên sơ giải thoát ngũ dục. Ngài đã ban quán đảnh Đạo Sư Kim Cương để hoàn thiện trạng thái trở thành một trì minh vương, bậc trì giữ Giác tánh thuần tịnh. Cuối cùng, Ngài đã ban lễ nhập môn điểm đạo hiển lộ con đường thuần tịnh quán đảnh.

 

Đã chín mùi từ tất cả các trao truyền như vậy, Mandarava đã đạt được những phẩm chất cao quý cần thiết để thực hiện các giai đoạn phát sinh và hoàn thiện. Sau khi thực hành trong 3 tháng, họ đã nhận được một linh ảnh rõ ràng về Đức Phật Vô Lượng Thọ Amitayus, và thành tựu trạng thái của một bậc trì minh vương bất tử. Đạo Sư tuyên bố rằng cô là một người trì giữ trụ cột định mệnh của Giác tánh nguyên sơ thuần tịnh và để loại bỏ bất kỳ trở ngại tới thành tựu của họ, cả hai nên thực hành Bổn Tôn Hayagriva Mã Đầu Minh Vương. Họ thực hành vòng giáo lý Hayagriva Mechar từ Tantra được gọi là Vở Kịch Vĩ Đại của Tinh Túy Liên Hoa và Kho Tàng Một Ngàn Chỉ Dẫn Thiết Yếu, một Tantra về sự kết hợp của Đức Hayagriva và Đức Vajravarahi. Theo giáo lý này, cả Đạo Sư và vị phối ngẫu đã có những linh ảnh rõ ràng về Đức Hayagriva, tiếng hí của đầu ngựa và âm HUM có thể được nghe thấy một cách rõ ràng xung quanh họ sau đó. Tại thời điểm này, tất cả các thế lực ma quỷ cản trở có thể phát sinh đều được trục xuất. Mandarava đã biên soạn một kho tàng gồm hơn một ngàn pháp môn trường thọ mở rộng và cô đọng, bao gồm những huấn thị chỉ thẳng vào điểm trọng yếu. Cả Đạo Sư và vị phối ngẫu đã trở nên tự do khỏi tiến trình sinh, lão, bệnh, tử, cho đến khi kết thúc thời kỳ của sự tồn tại đang diễn ra này. Họ đã xuất hiện trong hiện thân an lạc, từ đó họ tiếp tục thực hiện thực hành hợp nhất bí mật.

 

Khi bậc Đạo Sư Kim Cương hóa hiện bản thân mình trong thân tướng vị Guru hơi phẫn nộ của Phật bộ, công chúa cũng biến thân theo sau đó một cách phù hợp. Bằng cách đi vào vào mạn đà la thuần tịnh viên mãn của trí tuệ nguyên sơ, họ đã khám phá Giác tánh nguyên sơ của sự phô diễn kỳ diệu bất nhiễm. Họ đã đạt được khả năng vượt qua các nguyên tố bình phàm, với những năng lực như: để lại dấu vết trên nền chất rắn, hiển thị ánh sáng cầu vồng, và v.v… Sự hợp nhất giác ngộ của các Ngài khiến những bông hoa tự nhiên đi xuống từ bầu trời và thu hút, triệu thỉnh những vị thủ hộ bị ràng buộc của giáo lý bí mật. Những vị hộ thần này sau đó được giao nhiệm vụ đảm bảo rằng dòng truyền thừa pháp thành tựu trường thọ được bảo hộ. Ngay cả các vị chư thiên, long thần và các vị thần giữa loài người cùng hội chúng của họ cũng dâng lên tinh hoa đời sống của họ không chút do dự. Bậc Đạo Sư Kim Cương được biết đến như Đấng Liên Hoa Sinh Bất Tử, và Mandarava được biết đến như là Đấng Trì Minh Vương Dungmen Kanno bất tử, Cô Gái Ốc Xà Cừ Trắng. 

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 30 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

* 

Kể lại cách ngài nhận được chỉ dẫn thành tựu trường thọ ở hang động Maratika và cách ngài hoàn thành trạng thái  của một bậc trì minh vương bất tử.  

        

31. Hàng Phục Ngoại Đạo Ở Vương Quốc Kotala 

 

Sau đó, vị Đạo Sư Kim Cương biết rằng đã đến lúc để thuần phục tâm thức chúng sinh cư ngụ ở xứ Kotala. Khi Ngài đến đó, Nhà Vua Ratnashri của xứ Kotala và 5 tùy tùng thân cận của ông đang nghỉ ngơi trong một khu vườn thoáng mát gần cung điện.

 

Vị Đạo Sư Kim Cương sau đó bảo Mandarava ca lên một bài ca, và vì vậy cô đã hát: "  E ma! Ở đây, giữa Kotala trong khu vườn dễ chịu này, nơi nhà vua, các bộ trưởng cùng 5 tùy tùng với công đức tốt lành tụ hội, tôi thỉnh cầu các vị chú tâm tới những lời lẽ của bài ca này, mà tôi, kẻ lang thang phiêu bạt này, giờ sẽ hát. Nhờ nghiệp lực tuyệt hảo đã tích tập trong quá khứ, ngài vui hưởng sự tái sinh của một vị vua trong kiếp sống hiện tại. Là một người đàn ông giàu có và quyền lực vĩ đại, ngài dự định làm những gì để giảm bớt khổ đau cho dân nghèo, những người yếu đuối và vô vọng? Nếu lấy nhiều luật lệ áp đặt và kiểm soát làm giải pháp, thì sau đó làm thế nào ngài thực hiện được sự phân biệt giữa đâu là lợi và đâu là hại? Với tất cả sức mạnh, tùy tùng, đất đai và sự giàu mạnh của mình, đâu là nơi ngài thiết lập và truyền bá giáo lý thập thiện? Với tất cả sự vui chơi giải trí, các sự kiện đặc biệt cùng những nhạc cụ âm nhạc của các vị, bao nhiêu phần trong tâm ý các vị đã có thể nhận ra luật nhân quả? Mặc dù cung điện đẹp đẽ thoải mái này có thể thấy tất cả, nhưng đâu là nơi các bậc thầy, các bậc minh sư tâm linh cư ngụ? Mặc dù lợi ích chính trị của ngài rộng mở, nhưng ai đang phục vụ hay truyền bá giáo lý Đức Phật? Khi Đức Phật thứ hai giờ đây đã đến vương quốc của ngài, các vị gồm nhà vua và các bộ trưởng, các vị có đủ công đức để nhận ra Ngài không?"

 

Không phải chờ đến khi cô hát xong mà nhà vua và các bộ trưởng mới có thể thấy cô. Sau đó họ đã có thể nhìn thấy cả bậc Đạo Sư Kim Cương, người đã xuất hiện như một vị cư sĩ. Vị bộ trưởng trẻ tuổi nhất bước tới, quay lại đối diện với Ngài, rồi cất lên những lời này: "Kye ma ho! O hỡi hiện thân cho hóa thân, Ngài được trang hoàng với những phẩm tánh cao quý siêu phàm. Sự hiện diện sáng chói của Ngài vô cùng dễ chịu để ngắm nhìn. Ngài đồng hành cùng một nữ hành giả Pháp mà chúng tôi chưa bao giờ được thấy trước đây. Kẻ ăn mày này xin lời thứ lỗi từ Ngài, xin hãy cho tôi biết Ngài đến từ xứ sở nào. Ngài định thực hiện điều gì ở đây? Từ nơi đây, nơi nào sẽ là điểm đến tiếp theo của Ngài? Xin ban cho tôi một câu trả lời chân thực về những nghi nan của mình."

 

Mandarava trả lời: "  E ma ho! Vị thầy tâm linh vĩ đại này được sinh ra từ Hồ Dhanakosha. Ngài là một bậc hoàn toàn giác ngộ với tất cả những đặc tính đầy kinh ngạc. Ngài được biết đến như là Đạo Sư Padmasambhava Liên Hoa Sinh. Bản tánh tinh yếu của Ngài giống như của chư Phật trong ba thời. Tôi là Công Chúa Mandarava đến từ xứ Zahor. Ngay lúc này chúng tôi vừa trở về từ hang động Maratika. Chúng ta sắp đi tới một hang núi cô tịch khác để tiếp tục kỳ nhập thất của mình."


Nhà vua cùng đoàn tùy tùng của ông nhanh chóng trở về nhà, họ gọi các thành viên gia đình của họ lại và nói: "Kye! Vị thầy tâm linh của xứ sở Zahor đã đến vương quốc chúng ta. Ngài được biết đến như là Đại Sư Liên Hoa Sinh, Padmasambhava. Chúng tôi đã nghe nói rằng thậm chí ngay cả tứ đại cũng không thể làm tổn hại tới Ngài và những năng lực thần diệu của Ngài vô cùng cao cả. Hôm nay, Ngài đã đến vương quốc chúng ta, cùng với Đức Công Chúa Mandarava. Các Ngài nói với chúng tôi các Ngài sẽ đến một hang núi cao để nhập thất. Chúng ta hãy cùng chuẩn bị cung điện, một tòa ngồi giảng Pháp và hãy lấp đầy không gian với những dải lụa chiến thắng, những âm thanh nhạc cụ, trầm hương..."  Các bộ trưởng ngoại và nội cùng hội chúng vội vã làm công tác chuẩn bị thích hợp. Khi mọi thứ đã sẵn sàng, tất cả bọn họ đều cùng với nhà vua đi tới thỉnh mời và hộ tống Đạo Sư về cung điện. Bậc Đạo Sư Kim Cương bắt đầu ngự trên ngai sư tử tuyết tuyệt diệu, và Mandarava an tọa bên cạnh Ngài trên ghế lụa thổ cẩm.

 

Sau đó, nhà hiền triết Ramadhani, một người đàn ông linh thánh đáng kính, một bậc cố vấn tâm linh cho nhà vua, đã bày tỏ với Đạo Sư: "  Kye! Ngài lừng danh là vị đại học giả xứ Oddiyana, một hóa thân lưu xuất không bị ảnh hưởng bởi hỏa đại, chúng tôi đã nghe nói rằng Ngài là một hóa thân tự do khỏi luyến chấp, nhưng Ngài vẫn đồng hành cùng với công chúa, người đã chọn vị trí không xứng đáng như bề tôi phụng sự cho Ngài. Chúng tôi cũng biết rằng các vị vua từ khắp nơi đã cố gắng để giành chiến thắng hòng có được cô, nhưng cô đã từ chối tất cả, quyết định đeo đuổi con đường Phật Pháp. Phẩm chất nào cho phép Ngài hội đủ điều kiện để giành chiến thắng trở thành người đồng hành của cô? Theo tôi thì sẽ là thông thái để Ngài hoặc cô ấy một mình ở lại vương quốc này hay nơi nào đó. O hỡi hóa thân lưu xuất, cô gái này là nguyên nhân cho nhiều sự nghi ngờ nơi Ngài." Sau khi người đàn ông linh thánh nói, nhà vua thỉnh cầu Đạo Sư ở lại như đối tượng quy y của ông và xin Ngài hãy để cho Mandarava trở về xứ sở của cô. Sau đó, Đạo Sư nói với họ:

 

"  Kye ma! Hỡi người đàn ông linh thánh đức hạnh, Ramadhani, Ta là bản tánh của chư Phật trong ba thời. Cũng như sự sắp xếp không gian là không thể thay đổi, thật khó để Ta suy nghĩ một cách trẻ con, với nhiều định kiến. Công Chúa là một Dakini thuộc Kim Cương Bộ đã hoàn thành trạng thái bất tử. Dù cho tình thế có tuyệt hảo đến như thế nào, dù ở bất kỳ vương quốc nào thì nó vẫn là nơi vướng mắc trong thế tục. Cô không bao giờ có thể sống theo cách như vậy, vì vậy cô đã để lại tất cả ở phía sau để đeo đuổi con đường Phật Pháp. Quay lưng lại với tất cả các vương quốc, cô đã nhận lấy sứ mệnh thuần hóa tâm thức chúng sinh hữu tình.

 

"  Khẩu ngữ của ông là kết quả của sự mơ hồ lừa dối. Đạo Sư Liên Hoa Sinh, kẻ giống như một con sư tử tuyết, có khả năng sống trên đỉnh một ngọn núi tuyết. Hoàn toàn xác quyết, Ta sẽ không bao giờ yếu đuối và nghĩ rằng băng giá là kẻ thù. Đạo Sư Liên Hoa Sinh tựa như một chú chim công tuyệt diệu. Mặc dù chế độ ăn uống của Ta bao gồm cả các chất độc, nhưng nó làm tăng cường sự rực rỡ cho làn da của Ta. Hoàn toàn xác quyết, Ta sẽ không bao giờ yếu đuối và coi thực phẩm của mình là độc hại. Đạo Sư Liên Hoa Sinh tựa như một con rồng lam ngọc, an trụ trong không gian như bậc có chủ quyền trên bốn nguyên tố. Hoàn toàn xác quyết, Ta sẽ không bao giờ yếu đuối và ngã xuống khi nghe một tiếng động lớn. Đạo Sư Liên Hoa Sinh tựa như đại dương. Sự nhẫn chịu của Ta chiếm ưu thế trên tất cả những gì là thanh tịnh hay bất tịnh. Với xác quyết trọn vẹn, Ta biết bản tánh của mọi khẩu ngữ đều như một âm vang. Đạo Sư Liên Hoa Sinh tựa như nền đất. Chấp nhận tất cả, Ta vô tư trước thiện, ác. Hoàn toàn xác quyết, Ta thấy rằng tất cả các khái niệm mâu thuẫn là sự chống đối thực sự. Đạo Sư Liên Hoa Sinh tựa như Kim Súy Điểu Garuda vĩ đại, bản chất của nó là sự viên mãn nguyên thủy với 6 phô diễn tuyệt hảo. Xác quyết trọn vẹn, ở giữa bất kỳ loài chim nào, Ta không bao giờ bị suy yếu do năng lực của chúng. Đạo Sư Liên Hoa sinh ra tựa như phong đại, không ngừng chuyển động trong không gian. Hoàn toàn xác quyết, Ta không bao giờ bị đe dọa bởi những trở ngại từ những kẻ nhận thức hạn hẹp. Đạo Sư Liên Hoa sinh là bậc thủ hộ mật chú trên con đường hợpp nhất giữa trí tuệ và phương tiện. Hoàn toàn xác quyết, Ta không bao giờ bị đe dọa bởi những giáo lý từ các thừa thấp hơn. Trinh nữ Mandarava là vị phối ngẫu trí tuệ nguyên sơ. Sự hiện diện thể lý của cô chuyển hóa bất cứ điều gì được coi là cần thiết. Hoàn toàn xác quyết, cô không bao giờ bị suy yếu bởi tà kiến. Những lời lẽ sai lầm, thiếu chính xác của ông về nhận thức mơ hồ đang làm sửng sốt đôi tai Ta và những người đi theo Mandarava."

 

Sau đó, người đàn ông linh thánh Ramadhani trở nên giận dữ. Ông ta nói với nhà vua và các bộ trưởng với lời lẽ vặn vẹo này: "  Kye ma! O hỡi nhà vua và các bộ trưởng danh dự! Kẻ lang thang tiêu cực này có tên là Liên Hoa Sinh thì chẳng có gì khác hơn là một tên ảo thuật gia khôn khéo! Hắn ta đang chơi đùa và lừa dối tâm trí chúng sinh. Hơn nữa hắn mang theo mình một cô gái không có phẩm chất này từ xứ Zahor, chính cô ta cũng là một sự ô nhục cho con đường Phật Pháp. Tôi hoàn toàn không đồng ý với ý kiến nhà vua cho phép bọn họ ở lại đây trong vương quốc chúng ta. Ngài cần phải cương quyết và phải xem xét lại ngay lập tức gửi việc này và gửi chúng trở về đất nước của chúng."

 

Sau khi nghe người đàn ông linh thánh đó nói, nhà vua và các bộ trưởng của ông đã thay đổi trong tâm. Cảm giác Đạo Sư đã lừa dối họ, họ đã quyết định bảo Ngài đi nơi khác, và họ xin người đàn ông linh thánh tha thứ cho họ nếu họ mang tổn hại gì tới cho ông ta trong bất kỳ cách nào. Họ hứa sẽ không liên hệ với Đạo Sư trong tương lai nữa, và rằng mọi thứ sẽ trở lại bình thường. Sau đó, Bậc Đạo Sư Kim Cương nói:

 

"  Đã đến lúc để Mandarava lưu xuất ra một hóa thân đặc biệt. Vì họ đã quyết định lưu vong chúng ta vì niềm tự hào của cái người được gọi là “linh thánh” này, chúng ta sẽ nhanh chóng khởi hành tới đích đến là hang động trên núi cao. Ở đó, những hóa hiện khác nhau sẽ đến để thuần phục vương quốc này và đặt tất cả mọi người vào con đường Phật Pháp."  Sau khi nói vậy, các Ngài rời đi bằng thuật phi hành[49] và ngay lập tức đến được bên trong hang núi cao.

 

Nhà vua và bộ trưởng của ông trở về cung điện. Họ không thể xác định được nơi Bậc Đạo Sư Kim Cương và phối ngẫu của Ngài đã bỏ đi quá đột ngột và bí mật. Họ bắt đầu hỏi tất cả mọi người, nếu ai biết gì về nơi các Ngài đã biến mất. Sau khi dò la, tất cả bọn họ đều cảm thấy chắc chắn rằng các Ngài ở trong hang núi cao. Nhà vua, các bộ trưởng và người đàn ông linh thánh triệu tập lại. Họ đồng ý rằng núi cao ở trung tâm vương quốc họ thì không phải là nơi thích hợp để trú ngụ. Họ quyết định nhấn mạnh rằng Đạo Sư và phối ngẫu phải đi ra khỏi đó ngay lập tức, và nếu họ không tuân theo mệnh lệnh này, họ sẽ bị ép buộc phải ra đi bằng vũ lực. Một sứ giả được phái đi, và họ bắt đầu chuẩn bị quân đội để chiến đấu. Trong khi đó, từ đỉnh núi, Đạo Sư và phối ngẫu đã nghe được tin này.

 

Đạo Sư Kim Cương sau đó yêu cầu Mandarava hiển lộ những năng lực kỳ diệu của cô. Mandarava đã biến thành một vị Dakini phẫn nộ chín đầu. Trong tay cô cầm vũ khí và một sợi dây thòng lọng ruột người. Hai chân cô đặt gọn gàng trên đỉnh hai ngọn núi. Khi cô vung sợi dây thòng lọng lửa của mình, tiếng thiêu đốt, ngọn lửa ầm ầm vang lên ở khắp mọi nơi. Từ miệng, cô tuyên bố rằng cô là Mandarava, hiện thân của Đức Phật, và cô sẽ nuốt gọn tất cả những kẻ thù của giáo lý. Điều này đã khiến tất cả những người lính ngay lập tức phải rút lui và mang những tin tức kỳ lạ về sự biến hóa của cô cùng mối đe dọa của cô cho nhà vua với hội chúng. Nhà vua rất tức giận. Ông ta cho tập hợp quân đội và ra lệnh nghiêm ngặt tiêu diệt những kẻ thù thành bụi bằng cách thả những trái bom giống như một trận mưa đá lên các Ngài. Sau đó, quân đội cùng với kẻ dị giáo Kotashri và 9 tùy tùng đã đi tới để gây chiến với các Ngài.

 

Khi quân đội tiến lại gần và bắt đầu ném bom, Đạo Sư tự hiển lộ bản thân mình như Simhanada, Sư Tử Hống, trong khi Mandarava hóa hiện thành Simhamukha, Dakini Đầu Sư Tử. Khi những kẻ dị giáo cầm vũ khí của chúng và bắt đầu tiến đánh, vị Dakini gầm lên như một con sư tử. Âm thanh này làm tan tác những trái bom và khiến tất cả những người lính ngất xỉu. Sau đó, tất cả những kẻ dị giáo tụng lớn những câu thần chú ghê gớm của chúng, rồi một trận mưa những mũi tên như sao băng đã kéo xuống. Khi các mũi tên sắp tiến gần đến các Ngài, vị Dakini đã biến chúng thành một trận mưa hoa. Không thứ gì có thể chạm đến Đạo Sư và vị phối ngẫu.

 

Đạo Sư tiến lại gần họ và nói: "O này những kẻ dị giáo với những thần chú phẫn nộ uy lực! 2 kẻ nam và nữ hành giả khiêm nhường khó có một trận đấu với những quyền năng của các ông. Hãy để chúng tôi chấm dứt điều này bằng cách quyết định người chiến thắng trong cuộc tranh đấu của chúng ta cũng sẽ là người chịu trách nhiệm với toàn bộ vương quốc." Nhà vua và các bộ trưởng đã đồng ý với kế hoạch này. Những kẻ dị giáo bắt đầu tụng lớn tiếng hắc thuật uy mãnh của họ. 9 cơn mưa đá lớn đổ xuống làm san bằng những ngọn núi ở bên phải và bên trái. Sau đó Đạo Sư Kim Cương chợt bắt ấn đe dọa rồi tạo ra một trận bão ào ạt đi xuống làm những kẻ dị giáo tiến gần đến cái chết. Người đàn ông linh thánh nôn ra máu, và khi gần chết, ông ta đã kêu gọi trong tuyệt vọng tới nhà vua cùng các quan đại thần, cầu cứu họ xem có cách nào cứu mạng mình không. Trong khi đó, vị Dakini đã khôi phục lại những ngọn núi trở về hình dạng ban đầu của chúng.

 

Một lần nữa, nhà vua và các bộ trưởng được triệu tập. Sau đó, vị bộ trưởng lớn Ajivaija nói với Đạo Sư Padmasambhava: "  Ngọn đèn chiếu sáng của Giáo Pháp thiêng liêng trong nhiều vương quốc, bậc kiểm soát tứ đại! Không cần phải tranh đua với một người như Ngài, bậc đã làm thấm nhuần vương quốc này với tín tâm vào ngay thời điểm khi Ngài đến. Người đàn ông linh thánh nên bị trục xuất khỏi vương quốc vì những gì ông ta đã làm, và tất cả những kẻ dị giáo nên bị loại bỏ thậm chí ngay cả một cái tên cũng không còn.  Vương quốc cần một đối tượng thích hợp để quy y, nương tựa và là quá muộn cũng như quá xa để người đàn ông linh thánh kia đáp ứng đủ. Ngoại trừ lòng từ ái và bi mẫn của Đức Phật thứ hai ra thì có thể hy vọng được ở đâu đây? Đã đến thời điểm để vương quốc này được bảo vệ bởi một đối tượng quy y đúng đắn."  Nhà vua và tất cả các bộ trưởng của ông đều đồng thuận. Sau đó, Bộ trưởng Ajivaija khuyến cáo rằng nhà vua nên đi đến gặp Đạo Sư và phối ngẫu của Ngài để dâng lời sám hối và thỉnh cầu các Ngài bảo vệ vương quốc. Ngoài ra, họ quyết định cũng là để thỉnh cầu các Ngài tha mạng cho người đàn ông linh thánh.

 

Đến trước Đạo Sư và phối ngẫu của Ngài, vị bộ trưởng khẩn nài tôn kính: "Kye ma ho! O hỡi Đại Đạo Sư Kim Cương cùng phối ngẫu, bậc chủ quyền trên hoạt động giác ngộ thần diệu! Xin hãy gìn giữ vị vua và các bộ trưởng này, là những chúng sinh vô minh, với chiếc móc câu nhân từ, bi mẫn của Ngài. Chúng con xin quy y Ngài và chúng con cầu xin sự nhẫn chịu, độ lượng của Ngài. Xin hãy ban cho chúng con món quà của Thánh Pháp quý giá. Đi theo lời khuyên sai lạc từ người dẫn đạo trước đây của mình, chúng con đã phạm một sai lầm nghiêm trọng."

 

Vị Đạo Sư Kim Cương đáp: "  Padmasambhava không tỳ vết và phối ngẫu bị ảnh hưởng bởi các vị, nhà vua cùng tập hội các bộ trưởng. Bị xâm chiếm bởi nhận thức mơ hồ, các vị dần đi theo nghiệp của mình. Kẻ gọi là người đàn ông linh thánh tiêu cực và nhẫn tâm này đã khiến tất cả các vị chống lại chúng ta. Mặc dù những ý định tổn hại như vậy không làm ảnh hưởng xấu lên Ta, nhưng ông ta đã là một trong những người mất cuối cùng. Bây giờ ông ta phải tự cứu mình. Đã đến lúc đặt toàn bộ vương quốc trên con đường Thánh Pháp".  Nhà vua và bộ trưởng nhanh chóng sám hối những tiêu cực của bọn họ và họ cầu xin Đạo Sư hãy có lòng thương xót cho sự mơ hồ lừa dối của họ. Sau đó một trong những vị bộ trưởng đã quay trở lại để thấy rằng người đàn ông linh thánh đã qua đời.

 

Sau đó nhà vua tuân theo từng lời Đạo Sư Kim Cương nói. Ông tập hợp tất cả thần dân của mình, và trong sự hiện diện của bậc Thầy kim cương vĩ đại, họ đã được thọ nhận những giáo lý về Thừa Nhân. Thông qua những luận giảng được ban từ Mandarava, nhà vua cùng các bộ trưởng của ông đã được giải thoát. 1.000 nữ hành giả trong vương quốc đã thọ giới với Mandarava như bậc thủ lĩnh tâm linh của họ, và hàng ngàn người nữ bắt đầu thực hành Pháp cả ngày lẫn đêm. Sau đó Vị Đạo Sư Kim Cương đã dạy Mật chú cho nhà vua cùng tất cả các bộ trưởng của ông. Ông đã lấy công chúa Ratnashri như phối ngẫu của mình và mang các đệ tử đi vào mạn đà la của Đức Hayagriva trong Liên Hoa Bộ. Trong ba năm liên tiếp, Ngài đã xoay chuyển Pháp Luân, và hơn 100 người dân trong vương quốc đã đạt được giải thoát. 3.000 hành giả nam và nữ trở nên thành tựu trọn vẹn.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 31 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách ngài đặt vương quốc Kotala Trên con đường Giáo Pháp Và cách ngài hàng phục những kẻ dị giáo.    

32. Chinh Phục Các Thành Phần Tự Nhiên Ở Nền Mộ Địa 

 

Đạo Sư cùng vị phối ngẫu đã đi đến các nền mộ địa Kalinga và Simhavana, nơi các vị Dakini phẫn nộ Shrigani, Pratima, Sukama và những vị khác được triệu tập với 510 tín đồ. Vào ban ngày họ ở trong bóng cây. Vào buổi tối Đạo Sư đi vào việc thực hành hợp nhất với các nữ quỷ trong Khu Vườn Lửa Cháy Sáng. Sau đó, Ngài xoay chuyển Pháp Luân cho tất cả các vị Dakini phẫn nộ.

 

Trong suốt thời gian đó Mandarava đã đi tới nền mộ địa phía Bắc Yongdutsal, nơi cô thị hiện nhiều năng lực kỳ diệu cho các tinh linh ma quỷ đáng sợ và tập hội của họ. Một số trong những chúng sinh khốn khổ này rít lên trong nỗi kinh hoàng và thét lên những tiếng kêu đinh tai nhức óc, trong khi những người khác thì gọi các vị quỷ thần của họ trong tuyệt vọng. Một số kéo lê những xác chết bị chặt chân tay, trong khi những người khác đập và lột da người. Một số khóc than một cách điên dại, và một số ca hát du dương. Một số cầm vũ khí; những người khác lại hét lên, "Giết, giết!" Một số làm những ngọn núi sụp đổ, trong khi những người khác đẩy lùi cả đại dương. Một số đốt lửa, những số khác chặt gỗ. Một số xô đẩy đất đá, tạo ra những vụ trượt đất, và một số ra sức làm hại tới Mandarava về mặt vật lý. Họ phô diễn năng lực kỳ lạ của họ theo nhiều cách.

 

Dakini đã khẩn cầu tới Đạo Sư, và trong một tic tắc Ngài đã ở bên cạnh cô. "  Những ma quỷ mộ địa độc ác này có liên hệ nghiệp với con nên con phải thuần hóa họ. Trong quá khứ, ở vương quốc Damaru, có rất nhiều bộ trưởng, cùng với nhà vua, họ đã không bao giờ phát triển đức tin. Vào lúc đó, con đã lưu xuất ra như là Pemakye và trở thành người bạn đồng hành mạnh mẽ của hoàng tử. Nhiều bộ trưởng ma quỷ và đoàn tùy tùng của họ đã thực hiện những lời cầu nguyện ngoan cố, và kể từ đó họ đã bị tái sinh thành các nguyên tố ma quỷ. Con là một Dakini mà từ một thời điểm trước đó đã giữ ý nguyện thuần hóa tâm thức họ. Như vậy, hãy thuần hóa họ với pháp môn bi mẫn của hợp nhất và giải thoát. Hãy hiển lộ giáo lý cho họ trong 5 năm. Ta sẽ hàng phục con trai Dhaha và những người khác rồi đặt họ trên con đường mật chú của quả vị và giải thoát." Ban tiên tri như vậy xong, Ngài trở về trú xứ của mình.

 

Giờ đây Mandarava biết rằng đã tới lúc để cô mang những vị ma quỷ cáu kỉnh này tới Giáo Pháp. Với ý định làm bất cứ điều gì cần thiết để mang họ đến giác ngộ, cô đã đi đến hang động trong nền mộ địa tên là Hematsal. Ở đó cô đã thực hiện những hoạt động giác ngộ thần diệu thậm chí còn vĩ đại hơn trước. 

 

Sau đó, Đức Dakini hát bài ca này cho tất cả các thành phần ma quỷ: "Kye! Nghe này, tất cả các vị có mặt ở đây! Để băng qua đại dương sinh tử luân hồi vĩ đại này, các vị cần phải cẩn trọng dựa vào con tàu không bám chấp. Tôi là một cô gái đã vượt qua đại dương vĩ đại này. Cầu mong tất cả các vị có thể đạt được những gì tôi đã thành tựu! Để vượt qua đồng bằng rộng lớn vĩ đại của ảo tưởng lừa dối, các vị phải cưỡi trên con ngựa tinh tấn. Tôi là một cô gái đã vượt qua đồng bằng lớn lao vĩ đại này. Cầu mong tất cả các vị đạt được cùng điều đó với tôi! Để vượt qua con sông vĩ đại xúc tình loạn động, các vị phải xây dựng cây cầu không bám chấp. Tôi là một cô gái biết đến đại lạc không bám chấp! Tôi sẽ tiết lộ điều này đến tất cả các vị. Từ con hẻm nhỏ hẹp đáng sợ của đau khổ với cái chết, người bạn đồng hành vô sinh có thể ban cho sự tự do. Tôi là một cô gái đã đạt được trạng thái hóa thân. Tôi sẽ tiết lộ con đường này tới tất cả các vị. Để thoát khỏi nhà tù đau khổ của cái chết, người ta cần phải biết phương pháp để thông qua đó giúp họ vượt qua rồi đi tới trạng thái siêu vượt khổ đau. Tôi là một cô gái đã đạt được sự bất tử, và tôi sẽ tiết lộ cho tất cả các vị con đường tôi đã bước đi. Tất cả chư Phật trong quá khứ đã vượt lên khỏi hầm lửa thiêu đốt tiêu cực này trong vòng luân hồi để đi vào trạng thái siêu vượt. Tôi là một cô gái đã thành tựu Phật quả, và các vị - những nguyên tố thiên nhiên, những sắc tướng của sự mơ hồ, lầm lạc, những người đang chống đối tôi, các vị đều là những đối tượng cho lòng nhân ái nơi tôi."

 

Mặc dù cô đã nói chuyện với họ theo cách này, nhưng các thành phần ma quỷ tiếp tục phô diễn những chiến tích huyền thuật của họ. Cô mắng họ: “Phép thuật của các vị chỉ như những món đồ trang sức của một cô gái mà thôi!"  Sau đó, họ tung ra một tiếng động ồn ào nhộn nhạo, và một số thủ lĩnh ma quỷ tàn ác bắt đầu kéo thân thể của Đức Dakini quăng đi quăng lại. Một số trong số họ bắt đầu đánh cô, một số cưỡng bức cô, và một số kéo căng chỗ kín của cô. Những kẻ khác thì mải đốt lửa, mang nước và phô diễn những năng lực không thể tưởng tượng của riêng từng người.

 

Trong suốt thời gian này, Đức Dakini đã an trụ trong đại định về lòng từ bi không chút dao động. Sau đó, thể nhập vào đại định phẫn nộ, cô xuất hiện như một người nữ phẫn nộ khốc liệt cháy sáng. Cô đã biến những cơn mưa bão và sấm sét của ma quỷ thành than đá và những mảnh gỗ cháy. Cô đã gào thét, Hum Bhyoh! Ta là phối ngẫu của chư Phật trong 3 thời! Tất cả các ngươi cùng đoàn tùy tùng là những kẻ phụ thuộc vào ta! Ta là người nữ phẫn nộ khốc liệt cháy sáng! Ta là đao phủ của tất cả các nguyên tố ma quỷ không thể được thuần hóa bởi lòng từ ái! Ta sẽ khiến cho các ngươi phải cúi đầu dâng lên tinh hoa sự sống của mình, và các ngươi sẽ phải hứa sẽ nhận lấy lời thệ nguyện!"

 

Ngay lập tức những ma quỷ bị choáng. Một số bị mất ý thức, trong khi những kẻ khác trong nỗi sợ hãi đã cố gắng bỏ chạy. Một số phát điên, nhưng tất cả đều không thể thoát khỏi mệnh lệnh của cô. Dưới các tia sáng từ thân thể Đức Dakini, từng người trong số họ đã thệ nguyện trung thành và thức tỉnh trên con đường đức hạnh. Sau đó, Đức Dakini ban quán đảnh bí mật trên họ, và danh hiệu bí mật của cô đã trở thành Kalaraksha Marajita. Cô ban cho mỗi người một Pháp danh cùng nước thọ phong những lời danh dự. Bản thân cô lại tiếp tục gửi ra nhiều hóa hiện, tất cả trong số đó lại tiếp tục giải thoát các ma quỷ thông qua các phương tiện bí mật, như vậy hiển lộ riêng giáo lý mật chú. Tất cả bọn họ đều thành tựu mật chú, và vì vậy cô tiếp tục giao phó cho họ những bí mật cần thiết và ban cho họ những vòng chu kỳ thành tựu được gọi là Bậc Thuần Hóa Ma Quỷ Phẫn Nộ, bao gồm mọi chỉ dẫn trực chỉ cùng các thực hành bổ sung. Sau đó, cô ra lệnh cho họ truyền đạt lại những phó chúc cho các vị thầy nhập thể trong tương lai ở xứ Tây Tạng, và tiên đoán xa hơn rằng tất cả các vị ma quỷ nguyên tố này cuối cùng sẽ đạt được Phật quả.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 32 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

* 

Kể lại cách theo lời tiên tri của Vị Đạo Sư Kim Cương,  Mandarava đã hàng phục 807 thành phần ma quỷ  của nền mộ địa Yongdutsal, xoay chuyển Pháp Luân,  và thiết lập họ như những bậc hộ thần kho tàng.     

33. Đưa Những Kẻ Ăn Thịt người xứ Chamara tới Giáo Pháp  

 

Sau đó, Đại Sư nói: "Kye! Hãy lóng nghe, Công Chúa Mandarava! Trong lục địa màu đồng đỏ Chamara, vẫn còn nhiều kẻ ăn thịt chưa được thuần phục. Vua của chúng là Zakhaha Ling và nữ hoàng của chúng là Bhumahing. Đã đến lúc để con chế ngự tâm thức chúng. Hãy dùng thuật phi hành đến trung tâm vương quốc. Trên đỉnh cung điện có tên Hatakin, con sẽ bị ăn thịt bởi nữ hoàng ăn thịt người cư ngụ ở đó. Vào lúc đó, hãy chuyển thức của con và sở hữu thân thể nữ hoàng, hãy giả làm nữ hoàng. Sau đó, hãy chế ngự tên vua, con sẽ dẫn dắt tất cả bọn họ đi vào con đường Giáo Pháp. Trong 3 năm, con sẽ dạy cho họ tất cả mật chú. Ta, Padmasambhava, sẽ ở trong một vương quốc khác để xoay chuyển Pháp Luân. Sau đó cùng nhau, chúng ta sẽ du hành tới vùng đất Oddiyana để thiết lập Giáo Pháp ở đó."

 

Nhận lời tiên tri của Ngài, Đức Dakini đã thành tựu pháp phi hành trong thời gian 3 tháng. Sau đó, cô đi vào vùng đất Chamara, trực tiếp đi đến đỉnh cung điện. Ở đó cô thấy Nữ Hoàng Bhumahing màu đỏ với mái tóc màu cam dựng đứng. Răng nanh của bà ta quá lớn đến độ chúng chạm vào cả ngực bà, và bà ta khoác một bộ da người bị lột. Trán bà ta là một khối nếp nhăn. Từ miệng bà ta vang lên một tiếng huýt sáo chói tai, và bà ta đã nuốt sống vị Dakini chỉ trong một tic tắc. Đức Dakini đã hét lên "  Phat!" và ngài lập tức chuyển di thần thức của mình khiến thân nữ hoàng sụp đổ và tan rã. Phanh bụng kẻ ăn thịt người ra, và công chúa hiện lên. Vào thời điểm này, những kẻ ăn thịt người nam và nữ khác tụ tập lại và thấy rằng nữ hoàng của họ đã sụp đổ và một cô gái khác nổi lên từ thân thể của bà ta. Họ cảm thấy ngạc nhiên vì nữ hoàng của mình đã dâng thân thể của chính mình. Mặc dù nữ hoàng không còn nữa, nhưng họ cảm thấy rằng cô gái này là con gái của bà ta, và họ  chấp nhận cô như vậy.

 

Vua Zakhaha Ling nói rằng cô gái này không giống hắn ta nên đó không thể là con gái hắn. Vì vậy hắn quyết định đưa cô lên thành hoàng hậu của mình, và họ đã cùng nhau đi tới cung điện của vua. Đêm đó, khi vua ngủ thiếp đi, Đức Dakini đã chuyển thần thức của nhà vua đến một tịnh độ. Vị Daka hoạt động, một hóa thân của Đức Phật Kim Cương Bất Động Akshobhya-Vajra đã hóa tán vào nhà vua và chiếm lấy thân thể hắn. Từ thời điểm đó trở đi toàn bộ vương quốc đã được nằm dưới tầm kiểm soát, và tất cả mọi người đều được khuyên bảo hãy thực hành Phật Pháp. Tuy nhiên, không ai thực hiện cả, và người dân vương quốc đổ lỗi cho nữ hoàng. Họ tuyên bố rằng họ sẽ giết cô và với với ý định đó họ cầm vũ khí trong tay đi tới cung điện.

 

Sau đó Mandarava đã tự hóa thân thành một vị Dakini phẫn nộ đầu sư tử, trong khi đức vua Akshobya-Vajra xuất hiện thành các vị bổn tôn Heruka phẫn nộ. Chỉ cần thốt lên âm HUM, các Ngài đã khiến tất cả những kẻ ăn thịt người bị tê liệt vì sợ hãi. Choáng váng và chết lặng, họ đáp trả bằng sự bất lực. Bằng cách vỗ tay của mình, các vị Heruka bắt đầu giết những kẻ ăn thịt người, từng người một. Dần dần, những kẻ ăn thịt người đều hứa nguyện sẽ thực hiện bất cứ điều gì được yêu cầu, và việc thực hành tâm linh của họ được bắt đầu. Những người có khuynh hướng đức hạnh được mang tới con đường mật chú. Những người còn lại vẫn ngoan cố nắm giữ sự không đức hạnh thì bị trừng phạt và giải thoát nhờ phương tiện phẫn nộ. Đức Dakini ban những quán đảnh chín mùi như một dòng sông trôi chảy.

 

Theo đó, nhà vua ban những luận giảng giải thoát. Cả ngày lẫn đêm, họ được tu tập trong thực hành Thánh Pháp đến nỗi tất cả bọn họ đều đã được giải thoát trong một trải nghiệm thống nhất về hiểu biết và chứng ngộ. Trong 3 năm, các Ngài đã xoay chuyển Pháp Luân, và, cuối cùng, từng cư dân một đều đạt được thân ánh sáng, và vùng đất Chamara được làm trống rỗng.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 33 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách Mandarava mang những kẻ nam và nữ ăn thịt người của xứ Chamara đến con đường Phật Pháp, Cách họ đạt được thân cầu vồng, 

Và vùng đất đã được làm trống rỗng như thế nào. 

        

34. Tám Điều Huyền Nhiệm Trong Tám Xứ Sở 

 

Sau đó, Đạo Sư và vị phối ngẫu Mandarava đi đến và cư ngụ trong 8 nền mộ địa chính và phụ, bao gồm Ngampa Tsalchen và Kailadrog. Trong suốt thời gian này, Bậc Đạo Sư Kim Cương Vĩ Đại đã xoay chuyển Pháp Luân cho các vị Dakini, chư thần và những kẻ ăn thịt người phẫn nộ. Cũng trong thời gian này, Mandarava phô diễn 8 hành năng huyền nhiệm vĩ đại.

 

Đầu tiên, trong nền mộ địa âm thanh phẫn nộ được gọi là Vườn Cam Lộ, trong khi 8 vị Dakini phẫn nộ đang phô diễn huyền thuật, Mandarava đã lưu xuất ra 5 hóa hiện ngự trong không gian trống không trong tư thế kiết già. Cam lồ linh thánh chảy xuống từ lòng bàn tay các hóa hiện, chúng trở thành 8 hồ nước xoáy lớn cam lồ chảy về 8 hướng. Ở trung tâm từng hồ nước, xuất hiện một bông hoa sen ngàn cánh, và ngự trên nhụy hoa sen là một hóa thân của chính cô. Mỗi hóa thân được bao quanh bởi một tập hội các hóa thân giống hệt nhau. Một số vị đang dâng cúng dường, còn những vị khác đi nhiễu, trong khi những vị khác chơi đàn Vina. Một số vị lễ lạy, một số vị hát những bài ca tán thán, và một số vị rải hoa.

 

Sự phô diễn tuyệt vời này đã thấm nhuần tất cả các vị Dakini phẫn nộ với đức tin, và họ tuyên bố: "  Kye ma! Đức Công Chúa giữa loài người Mandarava! Ngài là một vị phối ngẫu với những phẩm chất cao quý đáng kinh ngạc nhất! Như vị phối ngẫu chính của Đức Phật thứ hai, ngài đã thực sự thành tựu đại định giác tánh phi ý niệm. Hiện thân kỳ diệu của ngài đã lưu xuất ra 5 hóa hiện ánh sáng khác nhau, hoa sen ngàn cánh và hồ nước chứa đầy cam lồ. Vị Dakini bất nhiễm trong 5 phẩm tánh tôn quý, ngài là một hiện thân của những điều huyền nhiệm tự sinh vượt ngoài tưởng tượng. Bây giờ chúng tôi khẩn cầu tất cả các ngài Dakini đã tụ hội ở nền mộ địa này, xin hãy làm thỏa mãn hội chúng dakini phẫn nộ này với món quà của Thánh Pháp."

 

Mandarava đáp lại với bài ca kim cương này: "  Namo Guru Padmakara! Xinh kính lễ Đạo Sư Liên Hoa Sinh! Trong không gian nguyên sơ tinh thuần, bầu trời trong xanh Pháp thân rộng mở hiển lộ Báo thân của những cuộn mây cầu vồng bao phủ mọi phương hướng. Trận mưa vĩ đại hóa thân thuần hóa theo bất cứ thể cách nào khế hợp và cần thiết, trút xuống trên mặt đất vô sinh của khu vườn không che chướng các môn đồ. Vô biên những hóa thân từ 5 trí tuệ nguyên sơ chín mùi quả trái bất nhiễm từ bản chất tinh yếu của các thừa. Hệ quả, tỏa khắp như không gian, là trạng thái giản đơn, không chút pha tạp của đại xả hỷ lạc. Nhờ những ân phước của Đấng Chúa Tể, Đạo Sư Padmasambhava xứ Oddiyana, Đấng vô song trong suốt 3 thời, con đã có diễm phúc may mắn vĩ đại để có được hiện thân siêu phàm bất nhiễm này. Giờ đây xin hãy lắng nghe! Mặc dù sự tồn tại của các hiện tượng dựa trên nhân duyên tương thuộc lẫn nhau, thì kẻ Dakini này đại diện cho tri giác thanh tịnh của tồn tại, và các vị, các vị Mamo[50] phẫn nộ biểu trưng cho biểu hiện phẫn nộ bất tịnh trên thế gian. Một cách nguyên sơ, tất cả các vị, không chút lầm lạc, trong bản tánh tinh yếu tự nhiên thuộc sự tinh khiết nguyên thủy. Tuy nhiên, do các che chướng tạm thời của mình, các vị đã tạo ra tình trạng hiện tại của sự tự bám chấp cùng những đau khổ đi theo nó. Các vị phải đến để nhận ra rằng đau khổ của mình chỉ có nguồn gốc từ sự lầm lạc của chính mình.

 

"  Giờ đây, hỡi các Mamo phẫn nộ, đừng lầm lẫn! Bản tánh tâm của chính các vị là Phật. Đừng xem thường hay báng bổ vì sự lầm lẫn này, bản tánh của nó đích thị là Phật. Hỡi các Mamo phẫn nộ, đừng bám chấp vào xu hướng ràng buộc của vở kịch hiện tướng ảo huyễn này. Hỡi các Mamo phẫn nộ, đừng nắm giữ các đối tượng của tâm ý niệm là thật. Vòng chu kỳ thường xuyên của bám chấp và chấp chặt nhị nguyên này phải không được giữ lại. O hỡi các Mamo phẫn nộ, hãy để nó sụp đổ. O hỡi các Mamo phẫn nộ, hãy hoàn thành trạng thái bất nhị trong 5 điều chắc chắn, những điều là trí tuệ nguyên sơ vốn thuần khiết của giác tánh nguyên sơ tự sinh. O hỡi các Mamo phẫn nộ, để giải thoát khỏi đại dương vô tận của luân hồi sinh tử, các vị phải sử dụng các loại thuốc giải độc và phương tiện thiện xảo. O hỡi các Mamo phẫn nộ, nhận ra bản tánh tâm của chính các vị thì không phải ai khác hơn chính là vị Phật nguyên sơ từ khởi thủy. Hãy biết được điều này và quán sát bản tánh của chính các vị, O hỡi các Dakini phẫn nộ! Hãy tiếp xúc trực diện với bản tánh Pháp Thân của riêng các vị, thứ mà trước đây các vị đã không thấy. O hỡi các Mamo phẫn nộ, hãy hoàn thành trạng thái tuyệt đối của 4 thân!"

 

Sau khi Đức Dakini đã nói như vậy, tất cả các vị Mamo đều được giải thoát. Sau đó, các hóa thân của cô lại tan hòa trở lại vào tim cô, và các vị Mamo đã trở thành đoàn tùy tùng trung thành của cô. Họ đã biên soạn 108 mật điển những khẩu truyền bí mật, cô đọng chúng lại thành văn bản mang biểu tượng bí mật của các bản văn kho tàng. Vào thời điểm đó các vị Mamo ăn thịt người đã dâng lên một chiếc hộp tê giác Raksha có khả năng chứa đựng ẩn dấu. Tất cả các vị ma quỷ Yaksha dâng lên những thùng chứa được đánh dấu bằng chủng tự Ksha, và những người cai trị dâng lên thùng chứa được làm từ đá. Những cuộn văn bản kho tàng được đặt một cách an toàn trong mỗi thùng chứa, và các chỗ mở đều được niêm phong cẩn thận. Những thùng chứa này được giao phó cho các vị Mamo, họ đã cất giữ và chôn giấu chúng trong phần chóp hình chiếc bình của một bảo tháp.

 

Sau đó, Đức Dakini ngự trong bóng râm của một cây tala trong nền mộ địa được biết đến như Simhavana. 72 chúa quỷ đã đến để thử xem cấp độ chứng ngộ của cô và họ phô bày những năng lực huyền thuật của mình. Sau đó, từ trong lòng bàn tay của Mandarava, cam lồ trắng, vàng, đỏ và xanh lục hiện lên. Chảy đi khắp mười phương, cam lồ này triệu thỉnh 10 vị Dakini, tất cả đều hòa tan vào thân Mandarava. Sau đó, từ thân cô, 10 thực thể phẫn nộ được lưu xuất ra với vô số các biểu hiện huyền nhiệm và các hóa hiện này cột buộc tay các chúa quỷ lại dưới lời thệ nguyện.


Các tia sáng đã được phóng ra, thị hiện vô số phép lạ để hàng phục các chúa quỷ, họ đã buộc phải đầu hàng và dâng lên tinh hoa sự sống của mình.

 

Vào lúc đó, tất cả những bậc thủ hộ vinh quang đều thọ nhận những huấn thị trực chỉ của cô, và bậc thủ hộ Kalaraksha đã dâng lên một chiếc rương ngọc quý. Tất cả những chỉ dẫn được đặt trong bình chứa đó, sau đó nó đã được niêm phong trong sự rộng mở của không gian nơi nó tan biến vào. Tiếp đó, mỗi người trong số các vị chúa quỷ đều trở thành các vị hộ thần của giáo lý mật chú. Sau đó Mandarava gặp gỡ vị Đạo Sư quý báu của xứ Oddiyana, cô trình lên Ngài những gì đã xảy ra. Cực kỳ hài lòng, Ngài nói với cô: "  Bây giờ con phải nhanh chóng đi đến vùng đất Kotavira và ràng buộc tên quỷ gây chướng ngại to lớn Vajrabinaka cùng những kẻ đi theo hắn với một lời thệ nguyện. Đã tới lúc để con thị hiện những phẩm tánh cao quý được phú bẩm trọn vẹn của mình!"

 

Cô lập tức khởi hành tới Kotavira, tới nơi cô ngự ở dưới một gốc cây kamarupa. Sau đó, cô hóa hiện một Mandala Kim Cương Giới Vajradhatu, chu vi bên ngoài của mạn đà la là một mạn đà la bao gồm 9 thừa giáo lý. Mạn đà la bên trong là một sự phô diễn của 4 và 6 cấp mật thừa; và mạn đà la bí mật, một biểu hiện của cung điện cõi giới đại lạc. Sau khi thực hành trong 17 tháng, toàn bộ mạn đà la của các chư tôn đã thực sự xuất hiện trọn vẹn và chi tiết một cách sống động.

 

Lúc ấy, tên quỷ gây chướng ngại hùng mạnh Vajrabinaka cùng với đoàn tùy tùng của hắn với 8 ngàn tên bắt đầu tiến hành một cuộc chiến hắc thuật nhằm chống lại mạn đà la trí tuệ của các vị chư tôn. Đột nhiên, cát, sỏi, đất đá đổ xuống giống như một trận bão lớn. Những âm thanh bí hiểm từ những tiếng than khóc dai dẳng và la hét lấp đầy không gian. Một cơn bão cát dữ dội cuộn lên trên không, khiến mặt đất rung chuyển và làm ảnh hưởng đến chu kỳ ngày và đêm. Thiên thạch, mưa đá, sấm chớp và rồng sấm ngập tràn. Vào ban đêm, những ngọn lửa bùng nổ, thiếu đốt những ngọn núi. Vào ban ngày, những đám mây quái gở che khuất mặt trời. Những tiếng kêu la tàn bạo "  Giết, giết!", "  Tấn công, tấn công!"  vang lên. Những con quái vật thân hình kỳ dị khác nhau bắt đầu xuất hiện, một số trông như là người nam và nữ hấp dẫn trẻ đẹp, những số khác lại ghê gớm, hom hem với các biểu hiện tàn khốc. Một số có những cái đầu không liên quan tới các cơ quan khác, và tất cả bọn chúng đều thốt ra những câu bao biện, bóp méo và xuyên tạc. Sau đó, những con quỷ tiến lại gần, chúng cưỡi hổ, báo, gấu xám và vượn. Khói và lửa phun ra từ miệng và mũi chúng. Quân số của chúng bạt ngàn đến nỗi khiến trái đất rung chuyển lên dưới bước chân chúng.

 

Lúc này Đức Dakini Mandarava thị hiện trọn vẹn sức mạnh huyền nhiệm của mình để thu hút các ma quỷ gây chướng ngại và tiên tri tương lai cho họ. Cô biến thành một nữ hoàng vĩ đại hoàn hảo với 100 đầu và 1000 tay. Lửa cháy sáng từ mỗi lỗ chân lông của cô, và tay cô cầm những loại vũ khí khác nhau. Tóc cô hướng thẳng về phía các chư tôn, và cô mang trên mình các phục sức mộ địa. Khi cô dẫm 100 bàn chân của mình, toàn bộ thế giới bên dưới cô chao đảo. Cô thiết lập mạn đà la lửa trí tuệ nguyên sơ cháy hừng hực.


Bỗng nhiên, cô ca lên bài ca vô úy này: "Hum! Hum! Bhyoh! Bhyoh! Ta là Dakini cháy sáng trong tam giới. Với lưỡi gươm kim cương chói sáng của mình, ta sẽ cắt những kẻ tà ác thành từng mẩu vụn. Sức mạnh của ta trong thế giới này là vô hạn và rộng lớn như bầu trời. Mỗi cử chỉ của ta làm dấy lên những con sóng đại dương. Sức mạnh của ta nắm giữ sự ảnh hưởng trên tất cả, đó là hòa bình trên thế gian và xuất thế gian; bất kể những gì còn lại ta sẽ nhấn chìm vào giữa lòng bàn tay mình. Giờ đây, các ngươi, lũ đại bàng ma quỷ và tà ác, hãy chuẩn bị cho thời khắc hủy diệt của các ngươi! Rulu! Rulu! Hum! Bhyoh! Bhyoh! Bhyoh! Bhyoh!"  Sau đó, cô đặt ngón chân của mình trên đỉnh tất cả các ngọn núi lớn và nhỏ xung quanh, rồi nghiền nát chúng thành bụi.

 

Bị choáng ngợp với nỗi sợ hãi, những kẻ gây chướng ngại ngã lăn ra bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, họ ngoan ngoãn dâng lên cô tinh hoa cuộc sống của họ: "  Kye ma! Hỡi vị Dakini trí tuệ nguyên sơ, xin hãy lắng nghe! Từ thửa xa xưa, do lực lượng nghiệp mê lầm dựa trên sự thiếu vắng ý thức mà chúng tôi đã chẳng mang lại được gì ngoài việc làm tổn hại tới chúng sinh. Chúng tôi thậm chí còn chống đối ngài, bậc phối ngẫu của tất cả chư Phật. Hình tướng ngài phát sinh từ sự tập trung thiền định, nó là biểu hiện cao nhất của lòng bi mẫn phẫn nộ. Lúc này, từ nỗi sợ hãi, chúng tôi dâng lên ngài tinh hoa cuộc sống của mình."

 

Sau đó, theo đúng những gì tuyên bố, họ đã dâng lên tinh hoa sự sống của họ, thệ nguyện, "  Tri trio na ma ra ka du na," - thệ nguyện cúng dường thân; "  Nri tri ya ma hi na ya ka dun dza," - thệ nguyện cúng dường tinh hoa khẩu của họ như là tâm chú; và "Tri mu ta ya gu yi he tun nik,"   thệ nguyện cúng dường cốt tủy tâm yếu của họ. Bằng cách này, họ đã tuyên thệ sẽ bảo hộ giáo lý về sau này. Họ cũng nguyện sẽ không bao giờ cố ý gây tổn hại tới tâm thức bất kỳ chúng sinh nào. Sau đó, tất cả bọn họ đều bắt đầu thiền định về lòng vị tha - Bồ đề tâm.

 

Lúc đó cô thị hiện hóa thân hiền minh của mình là Mandarava. Như một con sóng vĩ đại ân phước Giáo Pháp thiêng liêng, cô đã dạy hơn 700 huấn thị trực chỉ để thuần hóa tâm thức họ. Những huấn thị này được cô đọng thành các bản văn biểu tượng, sau đó chúng được đưa cho bậc nữ thủ hộ phẫn nộ giáo lý và được niêm phong trong một chiếc tráp ẩn mật tê giác.

 

Sau đó Mandarava gặp Đạo Sư thuật lại với Ngài tất cả những gì đã xảy ra. Ngài đã ban cho cô 100 huấn thị trực chỉ được chôn cất trong Núi Kailash lớn. Bằng thuật phi hành, Mandarava đã đến Tây Tạng và đi tới ngọn núi thiêng Kailash trong 7 ngày. Khi đến nơi, các tinh linh địa phương, long thần và các thành phần tự nhiên phô diễn vô số những trò ma thuật lừa dối. Sau đó cô đã hóa hiện ra thành Dakini Uma Devi và đi vào sự hợp nhất với bậc thủ hộ núi Mahadeva[51]. Ban quán đảnh bí mật lên ông, cô trói buộc ông vào lời thệ nguyện. Ban cho ông 108 báu vật, cô du hành trở về xứ Nepal. Trong 7 ngày, cô vẫn ở lại trong hang núi được gọi là Asura, và cô đã gặp 8 người xứ Nepal. Trong số đó, có một người phụ nữ Nepal trẻ đeo nhiều đồ trang sức đá quý. Người này đã bày tỏ lòng sùng mộ lớn lao tới Đức Dakini, cô ta nói rằng cô chưa bao giờ gặp ngài trước đó: "  O hỡi Dakini, ngài đã đến từ đâu? Cha mẹ ngài là ai? Và ngài đã học với vị Minh Sư nào? Đẳng cấp và dòng dõi gia tộc ngài là gì? Tại sao ngài lại ở đây vào lúc này? Con thỉnh cầu ngài hãy cho con được biết!"

 

"  Đây là một người đã tích tập công đức vĩ đại trong quá khứ,"  Mandarava tự nghĩ "  Cô ấy giống như một người nữ của gia đình liên hoa, chị em của các chư thần."  Bằng sự chứng ngộ toàn giác cô đã thấy rằng cuộc đời người nữ này đã gần đi tới hồi kết và rằng trong tương lai cô sẽ được tái sinh như một vị Dakini hoàn thành lợi ích cho chúng sinh, Mandarava đã hát bài ca về Brahma này, bài ca tự nhiên xuất phát từ cổ họng cô:

 

"  Kye! O hỡi người nữ cao quý đến từ xứ sở Nepal! Đẳng cấp gia đình ta thuộc gia tộc hoàng gia xứ Zahor. Cha ta là Đức Vua Viharadhara, và mẹ ta là Wangmo Ogema. Tên ta là Công Chúa Mandarava. Vị Thầy tâm linh của ta là Đạo Sư Padmasambhava xứ Oddiyana. Ta đang theo đuổi con đường 9 thừa Phật Pháp. Nơi ta cư ngụ không cố định, ta đi lang thang từ một nền mộ địa này tới nền mộ địa khác. Ta không có mong muốn nào cho một người chồng cả, điều đó chỉ làm gia tăng và khuyến khích cho các ảo tưởng. Con trai ta là con trai của trí tuệ nguyên sơ đại lạc. Ta không có những người hầu cận hay phục vụ huyễn ảo. Các Hộ Pháp của ta là các vị Dakini và Mamo của thế giới này. Ta đã đến nơi này để cất giấu các huấn thị bí mật quý giá được Bậc Đạo Sư Kim Cương ban cho về tinh yếu của mật chú. Ta mang chúng tới đây như một phẩm vật cúng dường. Trong thời gian 3 năm, hỡi người nữ, cô sẽ chết. Sau đó cô sẽ được tái sinh thành nữ hoàng của nhà vua xứ Nepal, và tên cô sẽ là Shakya-devi. Cô sẽ gặp Đại Sư Padmasambhava và trở thành một bình chứa thích hợp nhận lãnh những giáo lý mật chú. Sau đó cô sẽ cất giấu nhiều bản văn kho tàng thâm sâu vì lợi ích cho những người mặt đỏ xứ Tây Tạng." Sau đó, Mandarava đi cùng với 8 người Nepal về làng và kể lại câu chuyện của cô.

 

Tất cả người dân của vương quốc tụ tập lại với nhau để xem đây có phải là 1 vị Dakini đích thực không. Một ông lão khổ hạnh nói với cô: "  Cô gái, cô là người đã nương tựa vào một bậc thầy tâm linh. Tôi tự hỏi, những trao truyền thâm sâu nào cô đã nhận được? Cô đã dành thời gian để hoàn thành bất kỳ trao truyền nào trong đó chưa? Dấu hiệu nào cô có để có thể chỉ ra rằng cô nắm giữ được những trao truyền như vậy? Có lẽ cô đã thực sự đến đây để tìm kiếm một người chồng chăng?"  Đặt những câu hỏi thăm dò như vậy, ông nhìn chằm chằm vào cô với vẻ dò xét dữ dội.

 

Đức Dakini trả lời: "  Kye! Nghe đây, tôi là một kẻ trì giữ giác tánh thuần tịnh. Đẳng cấp và dòng dõi của tôi thậm chí còn lớn hơn những gì các vị hình dung. Tôi không đến đây để tranh luận với một người như ông. Để đảo ngược quan điểm sai lầm của ông, tôi sẽ hiển lộ một số điều về bản thân"

 

Mandarava bốc người lên trong không gian. Thân cô chói sáng với ánh sáng rực rỡ như những tia sáng mặt trời. Từ miệng cô, âm thanh Phật Pháp một cách tự nhiên phát khởi. "  Hum! Hrih! Đạo Sư Padmasambhava, Đấng Chúa Tể thiện tâm vô thượng, sinh ra từ hồ nước và tự do khỏi dấu vết bám chấp ràng buộc, Ngài đại diện cho chư Phật trong ba thời. Xin hãy nhìn lên cô gái Mandarava này ngay lúc này! Để làm sạch những quan điểm xuyên tạc, méo mó của thế gian, xin hãy gìn giữ con với lòng từ bi của Ngài! Tâm thức vô thượng của tôi là Giác tánh nguyên sơ thuần tịnh từ khởi thủy của Bà Mẹ Phổ Hiền Samantabhadri. Trong suốt khắp 3 thời, tôi tự do khỏi nỗi sợ hãi sinh tử. Sau khi đạt được trạng thái hiện thân của đại lạc mê ly, không bị nhiễm ô bởi sự ràng buộc gắn kết, tôi đã không còn ở trong vòng luân hồi sinh tử. Tôi biết cách làm việc không bị cản trở cho lợi ích chúng sinh bằng cách khai mở cánh cửa Pháp cho những ai cần được thuần hóa mà không chút ràng buộc. Những ai vẫn còn mắc kẹt trong cạm bẫy sinh tử luân hồi và những ai khao khát hướng tới sự giải thoát đều có thể trở thành đệ tử tôi, vì tôi là một bậc nắm giữ trọn vẹn mật chú thuần tịnh, điều sẽ đem lại an lạc, hạnh phúc vĩnh cửu."

 

Nói vậy rồi cô búng ngón tay của mình một cái tách, và người đàn ông già khổ hạnh ngất xỉu. Tất cả người dân Nepal đều cảm thấy sùng mộ lớn lao, họ cúi mình trước cô. Họ trân trọng thỉnh cầu cô giảng dạy cho họ Giáo Pháp, vì vậy cô đã hát bài ca này về việc cắt đứt sự bám chấp vào sinh tử luân hồi: "  Kye! Nghe này, hỡi những người nam và người nữ Nepal!  Sự đau khổ của thế gian tồn tại này là vô tận. Bất kể niềm hạnh phúc nào được thấy thì giống như mật được loài ong chiết xuất. Sự ràng buộc vào vòng sinh tử luân hồi giống như thuốc độc. Can dự vào nó, thậm chí dù chỉ là vô tình, cũng là sự tự hoại diệt. Những khuynh hướng quen thuộc của nghiệp báo giống như một bản án tù dài hạn - nếu một người sơ suất rơi vào một tình huống như vậy, thì cơ hội giải thoát của họ bị đánh mất. Nếu bám chấp vào những thú vui tạm thời lừa dối thì vào thời điểm chúng ra đi, đau khổ xảy ra ngay sau đó. Vướng mắc vào những đồng bạn trong luân hồi thì giống như gặp một gã đao phủ, bởi vì người đó cuối cùng cũng sẽ bị dẫn đến tái sinh trong các cõi thấp. Sự giàu có và tài sản cũng tựa như những đối tượng từ sự ám ảnh của loài ngạ quỷ. Kiên nhẫn trong sự hối hả và nhộn nhịp của thế giới này khiến con người ta không có tự do và điều đó cũng giống như tự làm bản thân mình chết dần chết mòn vậy. Nắm giữ sự gắn kết với sự tồn tại này sẽ làm các bạn đau khổ như các bạn vẫn còn là một kẻ nô lệ cho những điều bất toại nguyện của riêng mình. Hãy nắm bắt lấy con đường vô thượng ngay lúc này. Hãy nương tựa vào Tam Bảo như những đối tượng quy y của mình. Cam kết với Thánh Pháp sẽ mang lại cho các bạn hạnh phúc trong đời này và cả những đời sau. Tôi, Mandarava, thực hành theo cách này. Nếu các bạn là các môn đồ may mắn định mệnh, các bạn sẽ kiên trì sao cho phù hợp."  Tất cả bọn họ đều vui mừng với những lời này.

 

Sau đó Mandarava du hành bằng thuật phi hành đến mộ địa đáng sợ Tsang. Ở đó, trong một hang động trong khu rừng Bhabramari, cô ở lại trong một tuần. Tất cả các thành phần sinh sống ở nghĩa địa này đã hóa hiện thành nhiều hóa thân gây rối làm nhiễu loạn cô. Biểu hiện cấp độ tiến bộ của mình, Đức Dakini đã hóa hiện ra như Đức Dakini Đầu Sư Tử Simhamukha. Cô ràng buộc tất cả các tinh linh và thành phần với lời thệ nguyện bảo hộ Phật Pháp.

 

Sau đó, cô đã đến đất nước Bhendha, đi tới vùng Padmavana. Thực tế đây là một thành phố của những kẻ đồ tể khát máu được gọi là Kumri. Họ giết hại hàng ngàn sinh vật để ăn thịt chúng. Để thấy những tên đồ tể đó trên đường, Đức Dakini đã đi đến ngã tư đường và ngồi xuống trong lốt một kẻ lang thang. Nhiều kẻ đồ tể tụ tập xung quanh cô. Họ nói cô gái ăn mày này xinh đẹp quá và tự hỏi liệu họ có thể ngủ cùng cô được không. Mandarava nói: "  Tôi không có mong muốn cho một người yêu bình thường ở thế gian này - đặc biệt là với bất kỳ ai trong số những đồ tể ở đây. Trong thế giới này không có gì được ấp ủ nhiều hơn cuộc sống riêng của mình, nhưng ở nơi ma quỷ này có giết chóc và cái chết không cần thiết! Bất kỳ người vợ nào của các vị - những kẻ ác độc ăn thịt người cũng sẽ phải thành một thành phần của các nền mộ địa nham hiểm!"

 

Những kẻ ăn thịt người đã cảm thấy vô cùng bị xúc phạm bởi câu trả lời của cô. Họ hét lên, "Giết nó!" Một số kẻ cố gắng đánh cô, ra sức tìm cách kết liễu mạng cô. Họ đe dọa sẽ cắt đứt tay và chân cô nếu cô không cho họ cưỡng bức cô. Khi họ chộp được cô, bỗng nhiên Mandarava hóa hiện thành một vị Dakini phẫn nộ, cao lớn vô cùng, đầu cô chạm tới nơi xa nhất trong không gian. Sáu vị Dakini lưu xuất ra từ thân thể cô, họ gầm lên những tiếng hô chiến thắng và tuyên bố rằng họ sẽ giải thoát tất cả bọn đồ tể. Sau đó, tất cả những người dân trong xứ đã tụ tập xung quanh. Họ bắt đầu cúi rạp mình xuống đảnh lễ Đức Dakini và hứa sẽ thực hiện bất cứ điều gì cô yêu cầu. Cô bảo họ phải ngừng việc cướp đi sinh mạng của những chúng sinh khác, sau đó họ tất cả bọn đều từ bỏ những con đường phi đức hạnh của mình và tất cả đều đi vào con đường Giáo Pháp. Đức Dakini đã xoay chuyển Pháp Luân trong 3 tháng, và tất cả bọn họ đều đạt được giải thoát nhờ con đường giáo lý của Đức Phật.

 

Sau đó Mandarava đi đến xứ sở được gọi là Kalinga. Ở đó cô đã gặp vị Đạo Sư Kim Cương và thọ nhận những huấn thị trực chỉ về Chìa Khóa Tinh Túy Bí Mật. Ngài nói, "  Mandarava, giờ đây con phải đi đến phía Đông xứ Zahor, ở đó có những người vẫn cần phải được thuần hóa. Con phải làm thỏa mãn những nhu cầu của họ bằng cách ban cho họ những món quà Giáo Pháp."

 

Tiếp đó Mandarava đi tới Bengal, và, khi cô đi vào vương quốc, băng qua một thành phố được gọi là Sirana, nơi cô gặp một cặp vợ chồng già. Người chồng là một thợ thủ công, họ có một người con trai tên là Sarvakara, một con gái tên là Prabhasattva. Trong một thời gian dài, hai người này nhìn chằm chằm vào vị Dakini. Sau đó, họ chạm đầu họ vào chân cô trong lòng sùng mộ. Họ hỏi cô chỉ cho họ con đường, vì họ đã không có được may mắn để gặp cô trước đó.

 

Mandarava nói: "Hãy lắng nghe những gì ta có thể nói về con, người con trai tên là Sarvakara. Trước đây, trong vương quốc Damaru, ta là nữ hoàng được gọi là Pemakye. Vào thời điểm đó, cha con là Yaksha Anandapala, và con trở thành vị vua Shinta Budho. Con đã bị ép buộc phải giết nhiều kẻ ăn thịt người, vì vậy con đã nhận nhiều tái sinh thấp, bao gồm cả kiếp hiện tại. Đã tới lúc để con có thể chuyển di khỏi trạng thái này. Và con, cô gái tên là Prabhasattva, con đã từng là nữ hoàng xứ Damaru được gọi là Kala. Đây là lý do khiến cả hai con đều cảm thấy sự nhiệt thành như vậy với ta. Bây giờ ta sẽ hiển lộ cho các con những lời dạy mật chú."

 

Sau khi thọ nhận những quán đảnh Mật chú và giáo lý bí mật, họ đã được giải thoát Trong 3 tháng, họ đắc thân cầu vồng. "Bây giờ," Mandarava nói, "Ta sẽ đi gặp cha mẹ ta một lần nữa." Khi đến Zahor, tất cả các bộ trưởng ngoại và nội cùng hội đồng của họ đều đang nhập thất thực hành thiền định và họ không biết tin Mandarava đang đến. Sau một thời gian, cô đã gặp con gái người thợ thủ công, cô bé đã rất vui mừng khi gặp lại cô, cô bé nắm lấy chân cô và khóc khi nghe tin cô đến. Từng người một, tất cả mọi người của vương quốc đều bắt đầu ùa đến, cho tới khi toàn bộ vương quốc đều tụ hội. Tất cả đều được lấp đầy với niềm vui khi nhà vua và hoàng hậu gia nhập hội chúng.

 

Mandarava đảnh lễ cha mẹ cô, và họ đảnh lễ lại với cô. Sau đó, Đức Dakini phô bày hoạt động kỳ diệu giác ngộ của mình vì lợi ích của họ. Mở lồng ngực mình, cô hiển lộ cho họ toàn bộ mạn đà la bên trong tim cô, một điện thờ các chư tôn trường thọ, được thấy một cách rõ ràng. Mọi người đều ngạc nhiên và bị choáng ngợp bởi sự sùng mộ. Trong 1 năm, cô đã xoay chuyển Pháp Luân không ngừng nghỉ. Trong thời gian đó, cha mẹ cô, nhà vua và hoàng hậu đều đắc thân cầu vồng, Bộ trưởng Tsugpa tan hòa vào trong tim nhà vua, và toàn bộ vương quốc Zahor đều đạt được giải thoát.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 34 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

* 

Kể lại cách Mandarava thị hiện 8 thần thông vĩ đại trong 8 xứ sở để thuần hóa chúng sinh, 

Như vậy đặt cả loài người và các chúng phi nhân  trên con đường Giáo Pháp.

        

35. Chuyển Pháp Luân ở Xứ Oddiyana 

 

Sau một thời gian, Mandarava đến trước đại bảo tháp được gọi là Shubhakara Shekhara. Bậc Đạo Sư Kim Cương đã ngự ở đó, và cô thấy vô cùng hoan hỷ trong sự hiện diện của Ngài. Ngài đã thị hiện mạn đà la đời sống bất tử và ban quán đảnh cho 8 bậc thầy vĩ đại.

 

Theo điều này, Đạo Sư và phối ngẫu đã cùng nhau đi đến xứ Oddiyana, nơi Mandarava hóa hiện bản thân cô với khuôn mặt của một chú mèo. Khi những cư dân của Oddiyana nghe tin rằng Bậc Đạo Sư Kim Cương đã quay trở lại, nhiều người đều được lấp đầy với đức tin và lòng sùng mộ, trong khi những kẻ khác bắt đầu âm mưu chống đối lại Ngài. Không nói cho nhà vua và hoàng hậu, tên bộ trưởng tà ác Prakara đã đưa Đạo Sư và phối ngẫu đi thiêu sống.

 

Vào lúc đó, công chúa Prabhadhara cảm thấy ghen tị với Mandarava. Cô nói với cha mẹ cô rằng Đạo Sư trước đây đã luôn ở một mình, và giờ Ngài lại tìm đâu ra một cô gái ăn mày và đưa cô ta đi cùng vào vương quốc, và rằng các bộ trưởng đã ra lệnh đưa họ lên giàn thiêu. Nhà vua và hoàng hậu cảm thấy cần phải điều tra việc này ngay, họ đến nơi và thấy rằng ngọn lửa đã hoàn toàn không thiêu cháy được Đạo Sư cùng phối ngẫu.

 

Sau đó, Đạo Sư và vị phối ngẫu thị hiện thần thông biến ngọn lửa thành một hồ nước. Nhà vua và hoàng hậu, công chúa Prabhadhara, cũng như toàn thể vương quốc đều bày tỏ đức tin lớn lao của họ và dâng lên nhiều lễ lạy. Vua Cha Indrabhuti đã cúi đầu trong lòng sùng kính và dâng lên những tán thán này: "Hrih! Đạo Sư Pháp thân, bất nhiễm và tự do khỏi những tạo tác; Bậc Đạo Sư Chúa Tể Giáo Pháp, Báo thân Đại Lạc; Hóa thân đạo sư, được sinh ra từ hoa sen, ta cúi mình và dâng lên lời tán dương tới 3 Thân Bậc Đạo Sư Kim Cang Trì." Sau đó, nhà vua dâng lên Đạo Sư cùng vị phối ngẫu 9 lễ lạy, và đích thân mình dẫn các Ngài đi với một cúng dường hương, nhà vua thỉnh mời 2 vị ngự trên ngai vàng và thỉnh cầu những giáo lý Phật Pháp. Đạo Sư trả lời:

 

"  Kye! Hỡi Bảo Vương Indrabhuti! Để đền đáp thiện tâm ngài đã hiển bày trong quá khứ, con xin dâng lên món quà Giáo Pháp ngay lúc này. Để xóa đi những khổ đau trong tâm công chúa Prabhadhara, Dakini Mandarava sẽ giảng dạy Phật Pháp. Con phải đi đến 8 nền mộ địa để thực hiện những thành tựu và chế ngự nhiều vương quốc với Giáo Pháp thiêng liêng. Vị Dakini này và con đã thành tựu sự bất tử cùng nhau trong hang động trường thọ Maratika: Cô là một trì minh vương nắm giữ  giác tánh thuần tịnh của sự bất tử. Rồi sau đó chúng con đã cùng nhau đi đến xứ Kotala  và từng bước trải qua thời gian 2.000 năm, thuần hóa được tâm thức của vô số chúng sinh như thế chỉ vì lợi ích cho người khác. Giờ đây, tại đây, ở vùng đất Oddiyana này, có rất nhiều người tâm thức được thuần hóa. Giáo Pháp mật chú sẽ mang họ đến sự giải thoát."

 

Sau khi nói những lời này, Ngài hiển lộ rộng rãi mật chú thâm sâu tới nhà vua, hoàng hậu và tất cả các thần dân. Sau đó, Ngài đưa Prabhadhara thành phối ngẫu của mình và ban cho cô những quán đảnh bí mật tối thượng về sự hợp nhất. Mandarava tụ họp tất cả những người nữ, và, trong suốt cả ngày lẫn đêm, cô đã dạy cho họ 6 cấp mật thừa. Thiết lập giới luật tâm linh, tất cả bọn họ đều từng bước được giải thoát. Đức Vua Indrabhuti cùng 500 người trong đoàn tùy tùng của ông đắc thân cầu vồng không để lại dấu tích gì và hoàn toàn giác ngộ. Cuối cùng toàn bộ vương quốc đều đạt được thân cầu vồng, và xứ Oddiyana được làm trống rỗng từ chiều sâu của nó. 

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 35 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách cô chuyển Pháp Luân ở xứ Oddiyana 

Và đưa từng cư dân một ở đó tới trạng thái giác ngộ. 

        

36. Chuyển Pháp Luân ở Shambhala 

       

Sau đó, Đức Dakini đã đi tới xứ Anandakara, nơi cô gặp gỡ Bậc Đạo Sư Kim Cương Vĩ Đại và cô đã thành kính khẩn cầu: Hrih! Hóa thân Phật bất nhiễm, sinh ra từ hoa sen! Bất khả phân hợp nhất với khối cầu giác ngộ của Đức Phật Pháp Thân, biểu hiện tự nhiên của một Báo Thân, tới chân Ngài, O hỡi Đức Đạo Sư Kim Cương thiện tâm vĩ đại, con xin cúi đầu! Tổ tiên con thuộc dòng dõi Zahor tối thượng. Nhờ những hoàn cảnh tuyệt hảo từ những kiếp sống trước đây, con được tự do khỏi những nỗi sợ hãi của luân hồi. Như một người với định nghiệp may mắn, con đã gặp Giáo Pháp thiêng liêng. Nhờ nguyện lực từ trước, con gìn giữ Đạo Sư trên đỉnh đầu mình. Nhờ định mệnh tốt lành tuyệt diệu, con đã gặp Ngài, Đấng Chúa Tể xứ Oddiyana. Như một bình chứa thích hợp, con đã thọ nhận được 9 giáo huấn thâm sâu của mật chú. Nhờ lực kiên định của mình, con đã đạt được 2 nhánh thành tựu tâm linh. Giờ đây con đã có năng lực của một hóa thân bất nhiễm. Đã tới lúc Ngài ra đi thuần phục 2 xứ Tây Tạng và Nepal. Đã đến lúc con tan hòa vào không gian bất nhiễm của thực tại tuyệt đối. Vì mục đích thúc đẩy hơn nữa hoạt động của mật chú, sau này con sẽ một lần nữa lưu xuất ra vô số những hóa hiện. Đã tới lúc phải tan hòa vào một thân ánh sáng."

 

Đạo Sư trả lời: "  Kye! Nghe này, Dakini nguyên sơ Mandarava! Trong Cõi Cực Lạc, con là bậc phối ngẫu vô thượng Pandaravasini. Trong cõi Potala Phổ Đà, con là Natyendri vô thượng. Trong xứ Chamaradvipa con được gọi là Dungmen Karmo. Ở Ấn Độ con được biết tới như là nữ thần Shrimala. Ở xứ Zahor con là Công Chúa Mandarava. Những Bồ Tát như con thì cực kỳ hiếm hoi. Con được cần đến một lần nữa để thực hiện lợi lạc cho những người khác. Thật cần thiết để thuần hóa tâm thức chúng sinh trong cõi Shambhala. Hỡi con gái với năng lực to lớn, hãy đến đó ngay và thực hiện hoạt động giác ngộ của mình. Trong 15 năm, con sẽ xoay chuyển Pháp Luân ở đó."

 

Như vậy, vị phối ngẫu đã khởi hành đến Shambhala. Trong vùng đất của 25 lục địa ấy, cõi giới phía đông được biết đến như là Bhatana, và tên vị vua ở đó là Bhutinara. Ông và hội chúng gồm hàng trăm thần dân đã cùng đến gặp cô. Khi Đức Dakini đang cố gắng một cách khó khăn để băng qua sông Dhiru, đột nhiên cô đã bay như chim và băng qua nó. Nhà vua và các thần dân của ông đã tiến lại gần cô: "  Kye! Hỡi cô gái tựa con gái của chư thần, những năng lực kỳ diệu của cô không bị che chướng khi cô bay vút đi như một chú chim. Cô thật nổi bật đẹp đẽ để ngắm nhìn và cô sở hữu tất cả những dấu hiệu viên mãn chính và phụ. Xin hãy cho chúng tôi biết về giai cấp cha mẹ cô và nơi cô đã đến. Xin hãy cho chúng tôi biết tất cả mọi điều mà không giữ lại điều gì"

 

Đức Dakini đã ban cho họ câu trả lời: "  Kye! Hãy lắng nghe, O hỡi nhà vua và hội chúng. Tôi từ vùng đất tối cao xứ Bengal, và đẳng cấp của tôi thuộc gia đình Dakini Liên Hoa. Tổ tiên tôi ở xứ Zahor, và tên tôi là Công Chúa Mandarava. Tôi là phối ngẫu của Đức Đạo Sư vĩ đại xứ Oddiyana. Tôi đến đây để thuần hóa chúng sinh. Hỡi nhà vua và các thần dân, các vị có nghĩ rằng mình có đủ đức tin không? Nếu các vị là những bình chứa phù hợp, tôi muốn dạy các vị Phật Pháp."

 

Nhà vua cùng hội chúng của ông đã phát triển đức tin từ lời cô nói. Lễ lạy với lòng thành kính lớn lao, họ khiêm nhường thỉnh cầu điều này: "  Kye! O hỡi Dakini vĩ đại, xin hãy lắng nghe những gì chúng tôi phải nói. Chúng tôi bị gắn kết với cảnh giới hiện hữu. Cuộc sống chúng tôi bị cạn dần cạn mòn trong sự theo đuổi nghiệp quả mơ hồ của vòng luân hồi sinh tử. Một số ít trong chúng tôi sẽ có thể gặp Phật Pháp sau khi từ giã cõi đời này. Chỉ có cô, người mẹ đáng kính, sẽ biết nếu chúng tôi là những bình chứa thích hợp. Xin hãy làm thỏa lòng chúng tôi với cam lồ Thánh Pháp."  Mandarava đi vào cung điện của họ. Cô thiết lập luật pháp đức hạnh cho toàn bộ vương quốc. Một cung điện chín tầng đã được xây dựng, và cô bắt đầu chuyển Pháp Luân mật chú. Nhà vua, các bộ trưởng cùng những người tùy tùng đều được giải thoát.

 

Sau đó, cô đi đến lục địa phía đông nam, đến thành thị được gọi là Mandhana, nơi cô ở lại gần cánh cổng. Ở đó cô để ý thấy nhiều chúng sinh bị trừng phạt và bị tổn thương, và cô biết rằng đã đến lúc để giải thoát họ. Dakini nhặt một tử thi, và khi cô bay vào không gian, tử thi đã hồi sắc, người đó bắt đầu thở trở lại và hồi sinh. Tất cả những ai chứng kiến điều này đều vô cùng ngạc nhiên. Một người bàn tán cùng nhau, và cuối cùng toàn bộ vương quốc đều được nghe nói về phép lạ này. Sau đó tất cả bọn họ đều dễ dàng được đặt trên con đường Phật Pháp.

 

Sau đó Mandarava đi đến lục địa phía Nam. Ở đó cô thấy nhiều binh lính tham gia vào trận chiến. Cô tụng vang các chủng tự HUMPHAT, điều này khiến tất cả những người lính đã chết được chuyển hóa thành thân cầu vồng, và tất cả các loại vũ khí đều biến thành những bông hoa. Tâm thức những người lính được lấp đầy với lòng sùng mộ, và cuộc xung đột được kết thúc một cách tự nhiên. Trong 3 năm, cô đã xoay chuyển Pháp Luân.

 

Tiếp đó Đức Dakini đi về phía tây nam, đến một thành thị lớn được gọi là Gotipa. Tất cả người dân trong vương quốc đều bị mắc bệnh cùi, và tất cả mọi người đều vô cùng đau đớn. Vị phối ngẫu xức nước tiểu của mình lên họ, và ngay lập tức họ đã được chữa khỏi. Mọi người trong vương quốc đều được thuần phục với đức tin và tất cả các loại bệnh tật đều được an dịu ngay lập tức. Sau đó cô được biết như là "Đấng Dakini giải thoát bệnh tật." Sau khi đưa họ đến sự thỏa lòng nhờ những món quà Giáo Pháp, cô khởi hành đi tới lục địa phía tây.

 

Sau khi đến thành thị được gọi là Katana, Mandarava thấy rằng tất cả mọi người ở đó đều xem thường cô. Họ đã nói rằng một cô gái trẻ trung như thế này nên đi cùng một người chồng mới phải. Sau đó, Đức Dakini đã lưu xuất ra nhiều hóa hiện từ chính mình và đi vào sự hợp nhất với tất cả mọi người ở đó. Ban quán đảnh bí mật, cô giải thoát tất cả bọn họ trong thân cầu vồng. Cô đặt các hoàng tử và tất cả cư dân nam của vương quốc trên con đường giải thoát chỉ nhờ vào pháp hợp nhất. Ngoài ra, cô đặt tất cả những người nữ trên con đường Phật Pháp.

 

Sau đó, Đức Dakini đi đến lục địa ở phía tây bắc. Đến gần thành thị Khemali, khi tất cả mọi người đều có thể nhìn thấy cô, cô đã bay vút lên trong không gian và hát bài ca này: "  E ma! Tôi là một hiện thân giác ngộ biểu hiện trong thế giới này. Như mặt trời, tôi đến từ các đẳng cấp vô thượng, và mẹ tôi giống như mặt trăng. Cô gái này này có thể du hành trong không gian mà không sợ trượt ngã! Tôi là một hóa thân của chư Phật trong thân tướng một công chúa. Phối ngẫu của tôi là hiện thân hoan hỷ đại lạc. Tôi là cô gái thực hiện vũ điệu đốt cháy nhiệt lượng thần bí. Tôi vô úy trước sự bám chấp vào những ảo tưởng. Tôi, Mandarava, là vị phối ngẫu của các chư tôn trong 3 thời. Bản tánh khối cầu nguyên thủy Pháp Thân xuất hiện thành những biểu hiện huyền diệu của tôi. Tôi vô úy xoay chuyển Pháp Luân cho những đệ tử thành tín ở đây, trong vương quốc phía bắc Shambhala. Vì nhà vua quyền lực và các bộ trưởng danh tiếng của ông, tôi sẽ chuyển Pháp Luân về sự bình đẳng xả của thấy biết và giải thoát. Tôi vô úy trước tâm nhận thức méo mó." Sau khi nói vậy, bọn họ đều được lấp đầy với lòng sùng mộ, sau đó cô tiếp tục chuyển Pháp Luân.

 

Sau đó, cô tiếp tục đi đến lục địa phía bắc. Nhà vua thấy cô đang tiến lại gần. Ông tập hợp các bộ trưởng của mình lại và nói: "Kye! O hỡi các bộ trưởng, hãy nhanh chóng đi ra ngoài cung điện và các vị sẽ thấy một người nữ trẻ đang đến gần. Cô ta dường như có tiềm năng để trở thành một nữ hoàng của vương quốc này. Các vị phải thẩm tra những đặc điểm của cô ta và đưa cô ta lại đây cho ta!" 5 bộ trưởng đã đến gặp Đức Dakini. Họ nói: "  Cô gái, cô từ đâu đến và tại sao cô lại ở đây? Cô có muốn trở thành nữ hoàng của nhà vua chúng tôi không?"

 

Cô đáp: "  Tôi không phải là một cô gái muốn ở lại trong vòng sinh tử luân hồi. Mặc dù nhà vua có thể là tuyệt hảo, nhưng ông ta tích lũy sự tiêu cực trong thế giới hiện hữu này. Mặc dù các bộ trưởng có thể là tuyệt vời, nhưng họ giống như những sứ giả của địa ngục. Mặc dù có nhiều thành viên trong đoàn tùy tùng, nhưng họ giống như một hội chúng ma vương. Mặc dù tài sản phú bẩm của một người có thể dồi dào phong phú, nhưng chúng giống như những đối tượng cho loài ngạ quỷ, thứ mà không bao giờ có thể được thỏa mãn hết. Tôi không có thời gian để trở thành một nữ hoàng trong khi bước đi trên con đường Phật Pháp."

 

Các bộ trưởng trình báo lại cho nhà vua, ông ta đã cực kỳ tức giận trước phản ứng của cô: "  Cô ta đã làm nhục các vị, các bộ trưởng cũng như các thần dân của ta. Chúng ta hãy thiêu sống kẻ lang thang mất trí này trên cây cọc!"  Các bộ trưởng liền bắt lấy Mandarava và trói cô thật chặt bằng dây cây gai dầu. Sau đó, họ đã ném cô vào một giàn thiêu với gỗ đàn hương và dầu mè. Đột nhiên một cơn mưa tịnh hóa linh thiêng đổ xuống, cùng với tám cấp quỷ thần. Ở giữa đám cháy xuất hiện một hồ nước xoáy lớn cam lồ mật hoa. Ở giữa hồ nước là nhụy một hoa sen lớn, và ngự trên hoa sen là Mandarava, chói lọi với ánh sáng. Những cuộn dây trói đều biến thành những trang sức báu trang hoàng cho cô. Khói bốc lên biến thành những đám mây được lấp đầy bởi những cầu vồng, và mùi hương ngọt ngào tràn ngập khắp mọi nơi. Nhạc cụ của các vị thần, rung lên từ những đám mây và có thể được nghe thấy rất rõ bởi tất cả mọi người trong vương quốc Shambhala. Các bộ trưởng và đoàn tùy tùng của họ nhanh chóng lại gần. Những gì họ trông thấy thật đáng ngạc nhiên và họ nhanh chóng chạy về báo với nhà vua rằng các vị chư thiên và long thần đang cúng dường cho Đức Dakini. Tất cả các bộ trưởng bị tràn lấp bởi sự ngượng ngùng và ân hận lớn lao.

 

Sau đó, Long Vương Nanda dâng lên lời tán thán sau: Hrih! Trong Cõi Cực Lạc, ngài được biết đến như là Đức Pandaravasini. Hóa hiện vào thế giới này như con gái một vị vua, ngài là bậc phối ngẫu của Đấng Đạo Sư vĩ đại xứ Oddiyana. Trước thân tướng nữ Bồ Tát này, tôi xin dâng lên lời tán dương!"  Sau đó nhà vua và các bộ trưởng đã thú nhận và sám hối về những hành vi tiêu cực của họ. 13 vương quốc trong xứ Shambhala đều kinh ngạc trước tin tức về quyền năng huyền diệu của Đức Dakini. Tất cả bọn họ đều phát triển đức tin mạnh mẽ về phía cô và thỉnh cầu những giáo lý từ cô.

 

Nhà vua gửi tới Mandarava một lời thỉnh mời tới cung điện. Khi cô đến, ông dâng lên lời thỉnh cầu này: "  Đức Dakini Bồ tát trí tuệ nguyên sơ đáng kinh ngạc, người mẹ độc nhất của chư Phật. Bị che chướng bởi vô minh và tham dục, chúng tôi đã phạm một sai lầm tiêu cực nghiêm trọng như vậy. Tìm cách gây tổn hại tới báu thân của ngài, chúng tôi thậm chí còn đã cố gắng thiêu sống ngài nhưng không thành. Ngài hiển lộ hoạt động kỳ diệu của một Đấng Dakini trí tuệ nguyên sơ, an trụ trên hoa sen giữa hồ nước, được tán thán bởi các vị chư thiên, long thần và loài người của thế giới này. Chúng tôi thành thật ăn năn và sám hối những sai lầm của mình và khẩn xin sự kham nhẫn của ngài. Xin hãy ban cho chúng tôi Giáo Pháp quý báu sâu sa!"

 

Trước lời thỉnh cầu này, vị phối ngẫu đã tha thứ cho họ. Cô đã tập trung toàn bộ vương quốc lại và chuyển Pháp Luân cho tất cả mọi người. Trong 5 năm, họ đều tinh tấn nỗ lực trong thực hành. 700 ngàn cư dân của Shambhala đều đắc thân cầu vồng mà không để lại dấu tích gì. Sau đó, vị phối ngẫu đã đi tới vùng đất Singhala để gặp lại Đạo Sư đang cư ngụ ở đó.

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 36 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

Kể lại cách cô chuyển Pháp Luân trong 21 vùng lớn và nhỏ của xứ Shambhala,  

Giải phóng 1 triệu 300 ngàn đệ tử định mệnh may mắn đắc thân cầu vồng.


37. Trở Thành Dakini Trí Tuệ 

 

Sau đó Mandarava kính cẩn đảnh lễ Đại Sư Kim Cương và dâng lên lời thỉnh cầu sau đây: "  Kye! Hiện thân giác ngộ của chư Phật ba thời, vô song trong lòng từ ái! O hỡi Đấng Chúa Tể, tự sinh khởi từ một bông hoa sen, không bị nhiễm ô bởi tử cung thai tạng, những hoạt động giác ngộ của Ngài vô hạn tựa không gian. O hỡi Guru Padmasambhava, xin gìn giữ con với tình yêu thương bi mẫn của Ngài! Cầu mong chúng ta không bao giờ chia tách trong kiếp này và mọi kiếp sống trong tương lai!

 

"  Bây giờ đã đến lúc con tan hòa vào Pháp thân bất nhiễm. Đấng Thủ Hộ, bậc đã giác ngộ bản tánh đích thực của 3 biểu hiện, xin chỉ cho con con đường và trợ giúp con từ phía sau. Khi con thoát khỏi khổ đau của chu kỳ sinh tử, con không cần phải chạy theo những tích tập mệt mỏi những khuynh hướng nghiệp. Vì lợi ích chúng sinh, con đã thị hiện sự kỳ diệu của những hóa thân có chủ đích. Thông qua nguyện lực của mình, con đã có năng lực kỳ diệu để thuần hóa chúng sinh theo bất cứ cách thức nào được coi là cần thiết. Tự do khỏi bệnh tật, là nguyên nhân gây ra cái chết tầm thường, con vẫn giải thoát trong Tịnh quang sáng tỏ. Không phải chịu đựng các trạng thái bardo, con du hành trực tiếp vào các cõi Tịnh. Tuy nhiên, cho đến khi những hoạt động của chư Phật trở nên trống rỗng, cầu mong những nỗ lực của con không ngừng mang lại lợi ích cho chúng sinh."

 

Sau đó, Đạo Sư tôn quý đáp: "  Kye! Người mẹ tôn kính, Dakini trí tuệ, Mandarava! Con, vị Dakini vô thượng, con mắt tôn quý dõi theo thế gian này. Con đã hoàn thiện một cách tự nhiên 5 Tịnh độ của chư Phật [52]; Tâm Pháp thân vô thượng của con tự do khỏi sinh và tử. O Hỡi Dakini, bản tánh tinh yếu của con tựa không gian. Tự do khỏi những giới hạn của đến và đi, cho và nhận, bản tánh của con, không thể diễn tả, là khẩu ngữ Báo thân tự nhiên sở hữu 60 nhánh âm điệu du dương. Với một thân tướng không chút nỗ lực tan hòa vào sự rộng mở đại lạc, con, Dakini, tự do khỏi nhu cầu ở lại, chết và tái sinh. Như một đám mây tan hòa trong không gian, chu kỳ sinh và tử xa lạ với con. Hình thể siêu phàm của con phô diễn vũ điệu huyền diệu, bản chất của nó như sự phản chiếu bóng trăng trong nước. Tự do khỏi những đặc tính của đến, ở lại hay đi, con lưu xuất trong suốt 3 thời để thuần hóa tâm thức chúng sinh theo bất cứ cách thức nào cần thiết nhất. O hỡi người nữ hóa hiện, tự do khỏi nhân duyên phức tạp, con chủ động chọn nơi mình tái sinh! Như vị phối ngẫu vô thượng của Đức Phật Vô Lượng Quang Amitabha, hỡi nữ thần, vũ điệu của con mang lại sự thỏa mãn cho các giác quan chúng sinh. Vị nữ thần với năng lực huyền nhiệm biểu lộ vô số phẩm tánh cao quý, mặc dù hiện thân hiện tại này của con tan hòa vào khối cầu chân lý, nhưng con sẽ tiếp tục hiển lộ vô số những hiện tướng hóa hiện phù hợp với căn cơ, nhu cầu chúng sinh cần được thuần hóa. Không ai có khả năng xác định, đo đếm hay giới hạn năng lực của con. Trải qua tất cả những đại kiếp của thời gian, người mẹ tôn kính, cầu mong Ta không bao giờ chia tách với con!"   Nói xong, Đạo Sư khởi hành vào ngày mùng 10 tháng Thìn tới đỉnh núi cao nhất trong vùng đất xứ Bheche, Ấn Độ.

 

Mandarava ban dòng truyền tâm linh lên vô số đệ tử còn lại tụ tập ở đó. Sau đó, cô nói với họ những lời khuyên sau đây: "  Kye! O hỡi những bạn hữu thuần khiết, bản tánh huyễn ảo của các bạn là trần tục, thật là không thể cho bất kì ai ở lại vĩnh viễn trong thế giới bình phàm này. Dù cho bất cứ nghi ngờ nào các bạn có thể có, xin hãy gọi ta ngay bây giờ vì thời gian để ta ở lại đây vì lợi ích chúng sinh đã viên thành."

 

Theo đó, nhiều đệ tử của cô đã vấn đáp cá nhân và nhận được những chỉ dẫn đầy đủ cho tới khi họ hoàn toàn thỏa mãn. Sau đó, một cô gái trẻ từ Zahor đi lên và kính cẩn thỉnh cầu điều này: "  E ma! Người con gái của chư thần, hãy hướng đạo cho chúng sinh! Nhờ vượt qua khối cầu chân lý, giờ ngài không còn ở giữa chúng con như bậc thủ hộ chúng sinh, vậy ý thức giác ngộ của ngài có thể được xem là gì đây? Có thực sự để ngài có thể rời bỏ chúng con ở đây mà không có một ai bảo hộ? Hỡi Dakini trí tuệ, tôn quý như trái tim chúng con, sao ngài không thể ở lại đây giảng dạy Giáo Pháp thiêng liêng cho các đệ tử của mình? Làm sao lúc này ngài lại có thể nghĩ tới việc siêu vượt tới một nơi vượt lên khỏi buồn đau? Có thể với lòng nhân ái và từ bi mà ngài lại từ bỏ những kẻ tâm thức yếu ớt, những người chứa đầy ác nghiệp sao? Hỡi người mẹ đáng kính, Đức Dakini Mandarava, nếu ngài không ở lại đây ngay để hiển lộ con đường cho chúng sinh, điều gì ngài sẽ hoàn thành bằng cách đi đến một nơi đại lạc? Thực sự là có thể để ngài rời bỏ chúng con ở đây trong chốn tăm tối này với đôi mắt như mù lòa này sao? Vì bản thân mình và tất cả chúng sinh, ngài là người mẹ duy nhất, bậc đạo sư duy nhất! Làm sao ngài không ở lại đây giữa chúng con trong những thời khắc khó khăn? Làm sao ngài lại có thể nghĩ tới việc hòa tan vào khối cầu chân lý? Làm sao ngài có thể rời bỏ chúng con như một người mẹ bỏ lại đứa con duy nhất của mình? O hỡi Đức Dakini phối ngẫu, ngọn đèn giáo lý  của Đức Phật, làm sao ngài có thể nghĩ tới việc đi đến tịnh độ cực lạc mà không ở lại đây xiển dương giáo lý về sự luận giảng và thành tựu thông qua các hoạt động giác ngộ của ngài? Ai sẽ dẫn dắt chúng sinh đi trên con đường thoát khỏi nơi chốn tăm tối này? Than ôi, than ôi! O hỡi người mẹ, xin hãy ở lại đây với chúng con!"

 

Những lời này từ cô gái khiến tất cả mọi người có mặt ở đó đều bắt đầu khóc than lớn. Điều này buộc Đức Dakini nói: "  Hãy nghe ta, hỡi các đệ tử thành tín. Không một ai trong thế giới này là thường còn cả. Mặc dù một cầu vồng xuất hiện rõ ràng và cố hữu trên bầu trời, nhưng nó biến mất chỉ trong chớp mắt. Mặc dù một cô gái như ta xuất hiện thật trẻ trung và tràn đầy sức sống như bây giờ, nhưng ta bất lực trong việc ở lại khi thời gian đã đến để ta đi tới một nơi khác nhằm cứu giúp chúng sinh. Mặc dù những bông hoa mùa hạ nở với ánh sáng chói chang, nhưng cảnh tượng đẹp đẽ này sẽ nhanh chóng biến mất ngay sau khi đổi mùa. Mặc dù cô gái này có sức khỏe và năng lực không thể đo lường, nhưng cô ta không thể kiểm soát được sự khởi hành của mình khi nói việc đi này nhằm giúp đỡ những người khác. Mặc dù một vị vua có thể có chủ quyền ở thế gian này, nhưng vị thế mạnh mẽ như vậy cũng chỉ là tạm thời: không gì nằm ngoài lý duyên sinh vô thường cả. Mặc dù Công Chúa xứ Zahor Mandarava được tái sinh trong một tầng lớp cao cấp, nhưng cô ta vẫn phải du hành trong thời gian tới một xứ sở khác vì lợi ích chúng sinh. Thậm chí thân kim cương của một vị Phật hoàn hảo với những hảo tướng chính và phụ, xuất hiện với mục đích thuần hóa chúng sinh, nhưng rồi thân ấy cũng phải siêu vượt lên khỏi khổ đau. Mặc dù công chúa đã thực hiện nhiều hành năng vì hạnh phúc, ích lợi cho những người khác, nhưng cô ta không thể ở lại lúc này, cô phải tiếp tục hành trình vì lợi ích những người khác. O hỡi các đệ tử, hãy lắng nghe những lời này và xem xét ý nghĩa của những chỉ dẫn tinh yếu này!"

 

Sau khi cô dứt lời, thân thể Mandarava liền biến thành một khối sáng cuộn xoáy, và toàn bộ bầu trời tràn ngập những cầu vồng lung linh. Trái đất rúng động 6 lần, và từ bên trong những cuộn mây các âm thanh nhạc cụ có thể được nghe thấy rõ ràng. Vô số những bông hoa nhiều màu sắc rơi xuống như một trận mưa bão. Các vị thần và các tinh linh không chút ngoại lệ đều cúi đầu trong sự tôn kính. Nhiều người đã đặt những câu hỏi và họ đều nhận được câu trả lời bằng chính ngôn ngữ riêng của xứ họ.

 

Thân tướng Đức Dakini dường như bay lên tựa một mũi tên vút vào không gian, và một lần nữa lời cô nói có thể được nghe thấy rõ ràng: "Nghe này, hỡi những môn đồ tận tụy của ta tụ hội ở đây! Hãy giữ lấy lời tuyên bố cuối cùng của ta một cách cẩn thận trong tim các con. Đừng không bao giờ để lãng phí tái sinh thân người quý báu này, hãy đánh bóng nó với Pháp và trân trọng nó như nguồn gốc thực sự mà nhờ đó mọi ước muốn đều được đáp ứng! Đừng lười biếng hay thờ ơ hoặc nắm giữ mọi sự như là vĩnh cửu! Đừng để thời gian bị lãng phí, hãy tu tập tâm thức các con và hoàn thành Pháp! Hãy luôn xem xét những gì cần chấp nhận và chối bỏ, Đừng lầm lẫn hay mơ hồ giữa đức hạnh và ác hạnh. Hãy tinh tấn trong Pháp và các con sẽ tìm thấy sự an lạc đời đời!

 

"  Cõi giới sinh tử này tựa một ngục tù. Hãy luôn luôn xem xét xem những gì là tốt nhất nhằm đặt bản thân các con vào tự do và giải thoát. Nguồn nương tựa quy y từ Tam Bảo không lừa dối. Hãy nắm giữ thật mau chóng vào nơi nương náu không thể sai lầm này và hoàn thành mục đích vĩ đại. Bất kỳ sự sa ngã bất tịnh và tiêu cực nào các con đã tích lũy từ xa xưa cần phải được sám hối, tịnh hóa và không bao giờ tái phạm cho đến khi tất cả các nghiệp tiêu cực được cạn kiệt. Nền tảng mọi phẩm tánh cao quý là sự tích tập công đức quý báu. Hãy mang điều này vào trong tâm, các con sẽ nhanh chóng hoàn thiện mọi thuộc tính của Phật quả!

 

"  Các con phải giữ cho lòng từ ái lớn lao của Đức Đạo Sư Kim Cương quý báu trong tâm cho đến khi các con đạt được vô số những thành tựu tâm linh thông thường và tối thượng. Hãy trì giữ bản tánh tinh yếu về giáo lý tịnh quang của Trekcho - chặt đứt, và chứng ngộ, nhận ra bản tánh huyền diệu của những phóng chiếu tinh thần cho đến khi các giai đoạn trên con đường được hoàn thiện. Hãy thiền định không ngơi nghỉ về tánh Không và lòng Bi, hãy trở nên hoàn toàn được phú bẩm với năng lực thực hiện mục đích vĩ đại cho lợi lạc những người khác. Nếu tâm không bao giờ sai lầm về cái thấy tuyệt đối, thì sau đó nó sẽ rất dễ dàng để đạt được trạng thái giác ngộ không chút khó khăn.

 

"  O hỡi các đệ tử, hãy gìn giữ những huấn thị trực chỉ này như viên ngọc như ý từ trái tim người mẹ của các con. Chớ nghi ngờ rằng hai mục đích nhờ vậy có thể được hoàn thành một cách tự nhiên. Công Chúa xứ Zahor Mandarava này đã khám phá ra thân bất nhiễm, tự do khỏi sinh và tử - thậm chỉ không có ngay cả trải nghiệm đau khổ lớn nhất của sự chết! Trong sự rộng mở của không gian nguyên sơ thuần khiết từ sự tinh thuần nguyên thủy, tâm Mandarava ngự trong chốn ngơi nghỉ ban sơ của nó. Trong nền tảng không gian nguyên sơ tinh khiết của Pháp thân vô sinh, Công Chúa hòa tan vào trong bản tánh không ngăn che phi ý niệm. Trong sự hợp nhất với Đấng Thủ Hộ nguyên sơ Phổ Hiền Samantabhadra, Mandarava an trú trong sự rộng mở của đại hỷ lạc. Những hiện tướng của ta cũng tựa như không gian, hoàn toàn không đến, không đi, không sinh, không tử, không vĩnh cửu, cũng không hư vô. Tương tự như vậy, cho tới khi cảnh giới luân hồi này được làm trống rỗng, các hóa thân kỳ diệu của ta sẽ vượt khỏi hình dung.

 

"  Tâm của tất cả chúng sinh đều rạng rỡ và trống rỗng tự nhiên. Họ vẫn ở trong bản tánh của sự trống rỗng, họ vẫn bất khả phân với Mandarava. Như sự biểu lộ thanh tịnh của năm trí tuệ nguyên sơ, bản tánh tâm không bao giờ chia tách khỏi Mandarava trong trạng thái an lạc bất nhị. Trong tâm một nhân chứng thành tín, những hiện tướng tồn tại như bản tánh không ngăn che của Mandarava. Trí tuệ của Mandarava thì chưa từng bao giờ chia tách rời khỏi sự phô diễn thiện xảo của ba thân bất biến. Khi các con trụ trong sự bình đẳng từ bản tánh đích thực của chính mình, thì ta, vị phối ngẫu Mandarava, sẽ xuất hiện trước con trong các linh ảnh biểu tượng. Hãy cầu nguyện ta và các con sẽ gặp gỡ bổn lai diện mục, khuôn mặt đích thực của các con!"

 

Khi Mandarava nói xong, hai bông hoa Utpala trắng và đỏ chồi lên và lướt đi như các tia sáng từ trái tim cô tới những 2 xứ Tây Tạng và Nepal. Từ từ, cơ thể cô trở nên vô hình, rồi xuất hiện như một quả cầu ánh sáng tinh tế lấp đầy toàn thể bầu trời. Sau khi khởi hành tới Tịnh Độ Akanishta Padmavyuha, cô xuất hiện trong hiện thân giác ngộ của vị phối ngẫu bí mật vô thượng trí tuệ nguyên sơ. Vào lúc đó, 900 người sùng mộ có giác tánh thuần tịnh đi theo cô đồng thời tan hòa vào thân cầu vồng mà không để lại dấu tích gì.

 

Samaya

        

Điều này hoàn thành chương 37 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

*

Kể lại cách cô ấy hoàn thiện lợi ích cho chúng sinh,  

Cách họ đạt được giải thoát trong thân cầu vồng, không để lại dấu tích gì, và cách cô rời đi tới Tịnh Độ Cực Lạc Sukhavati, nơi cô xuất hiện như vị Dakini trí tuệ nguyên sơ bí mật.     

38. Thỉnh Cầu Các Hóa Thân của Mandarava

  

Dakini Yeshe Tsogyal bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với Đạo Sư bằng cách kính cẩn lễ lạy và dâng lên mandala cúng dường. Thỉnh cầu Đấng Chúa Tể Đạo Sư xứ Oddiyana, cô nói: "  Kye! Hỡi Guru Padmasambhava, bậc thái tử xứ Oddiyana! Ở Silwatsel, Rừng Lạnh và 8 nền mộ địa lớn, Ngài đã hiển lộ chính mình như 8 hóa thân[53]. Giờ đây Ngài vẫn ở lại xứ Tây Tạng, xoay chuyển Pháp Luân. Trong lòng từ ái vĩ đại của mình, Ngài đã ban vô số những chỉ dẫn về kho tàng mênh mông bất  tận của những giáo huấn mật chú. Con, người đứng đầu vô thượng của các Dakini, xin cúi đầu trước Ngài, hỡi Đấng Chúa Tể xứ Oddiyana! Chúng con bày tỏ lòng biết ơn đến Ngài vì đã ban cho chúng con lời giảng dạy đầy đủ về cuộc đời và sự giải thoát của Đức Công Chúa Dakini Mandarava! Xin Ngài, hãy vì lợi ích của những người trong chúng con, những kẻ đang tụ hội ở đây, cũng như cho những thế hệ tương lai sau này – con thỉnh cầu Ngài ban cho chúng con một phiên bản ngắn gọn, cô đọng về những hành năng giác ngộ của Đức Dakini, một phiên bản dễ đọc và truyền cảm hứng với đức tin. Xin hãy nói một vài lời thâm sâu vì lợi ích của chúng con, để chúng con có thể tịnh hóa 2 che chướng và thọ nhận được những ban phước cùng các thành tựu tâm linh. Con khẩn xin Ngài ngay lúc này, hãy nói cho chúng con một lần nữa từ lòng từ ái và bi mẫn lớn lao của Ngài!"

 

Đạo Sư đã rất hài lòng trước thỉnh cầu này và Ngài nói: "  Hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho các con."  Ngài dạy: "  Bất cứ ai tụng đọc lời nguyện cầu này nên cầu nguyện vào lúc bình minh trong thế quỳ gối, với 2 lòng bàn tay chắp lại, trong trạng thái sùng mộ chân thành." Sau đó, Đạo Sư tôn quý hát lên: 


E ma ho!

Trong đại kiếp trước Bhaskara,

Là con gái Đức Vua Indradeva, 

Được gọi là Pandaravasini,

Tu tập trên con đường từ bỏ luân hồi sinh tử và hiện thực Phật quả. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong Đại Kiếp Tươi Sáng khi giáo lý của Đức Phật Kanaka Muni hiển lộ,

Với sự gia trì của chư Phật trong ba thời,

Một cách tự nhiên ngài đã lưu xuất ra 5 hiện thân như các biểu hiện  

Trong năm lục địa nhằm thuần hóa tâm thức chúng sinh.

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Được sinh ra như công chúa của Thiên chủ Phạm Thiên Brahma cùng phối ngẫu, 

Ngài được biết đến là Ozer Nangyen.

Tất cả mọi người trong vương quốc Kanika, xứ Ấn, 

Đều được đặt trên con đường Phật Pháp.

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Nhờ ân phước của các bậc Thánh trí, trong xứ Damaru,

Ngài được sinh ra từ một bông hoa sen,

Triệu thỉnh Đức Mã Đầu Hayagriva như bậc trợ thủ của mình.

Nhờ phương tiện hiền minh và phẫn nộ,  

Vương quốc được xoay chuyển, đi vào con đường đức hạnh. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong trú xứ của Thiên chủ Đế Thích Indra,ở Kangkari, 

Ngài là mẹ Đức Phật Dampa Togkar, 

Thuần hóa bè lũ các á thần Atula.

Ngài lừng lẫy chinh phục cả xứ sở, 

Chuyển hóa tất cả đến với con đường của Đức Phật.

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong khu vực ngầm ẩn trên đỉnh núi ngọc,

Ngài hóa hiện thành một Long Nữ chữa lành mọi bệnh tật lan tràn trong loài rồng.

Được biết đến như Dharmindra, 

Ngài đặt tất cả các vị rồng trên con đường đến với giác ngộ! 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Như một hóa thân công chúa các á thần Atula, 

Ngài thuần hóa hội chúng các á thần ganh tị.

Như một bậc được biết đến như là Samantabhadri - Phật Mẫu Phổ Hiền, 

Ngài đưa tập hội các á thần atula ma quỷ đi tới sự trưởng thành và giải thoát. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong sự hiện diện của Đức Phật Ca Diếp Kashyapa,

Ngài phát khởi Bồ đề tâm và hóa hiện như con gái Đức Vua Sukhapala  

Mang tên Shri Sagara.

Nhận lãnh trách phận cho sự giác ngộ hoàn hảo của 100 ngàn nữ tu. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Shakyamuni,

Ngài tự hóa thân 25 lần;

Những tái hóa thân nữa của ngài hoàn toàn không thể nghĩ bàn, 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Sau đó, trong tịnh độ Tây Phương Cực Lạc Sukhavati,

Ở đây là 1 triệu hóa hiện hiển lộ mật chú,

Hóa thân Dakini của ngài xuất hiện với từng người trong họ! 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Ánh sáng từ 5 điểm của đức phối ngẫu vô thượng Pandaravasini

Phát tỏa đi vào tất cả các cõi tịnh độ 

Để trở thành những hóa hiện từ 5 Dakini từ khối cầu chân lý.

Gia trì và quán đảnh chủng tự Hrih,  

Ánh sáng này tỏa rọi vào xứ Zahor.

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Nhờ quyền năng kỳ diệu của mình, cha mẹ ngài, nhà vua và hoàng hậu,  

Đã có những dấu hiệu hiển lộ đầy kinh ngạc trong những giấc mộng của họ.

Vào năm Mộc Ngọ đực, ngày mùng 10 của tháng,

Ngài đản sinh và ngay lập tức tụng lên những âm thanh nguyên âm, phụ âm! 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Vào lúc đản sinh, ngài lễ lạy cha mẹ để đền đáp lại thiện tâm của họ, 

Và hát lên một bài ca làm thỏa mãn tất cả những ai hiện diện ở đó.

Chư thần đã đến để tắm cho ngài, và danh tiếng ngài phủ khắp thế gian này. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Nhìn thấy đau khổ của sinh, lão, bệnh, tử,

Ngài chán chường sâu sắc vòng luân hồi,

Chuyển tâm xoay đầu lại với sinh tử, 

Trở nên tinh cần trong Ngũ Minh của Thánh Pháp.

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong xứ Gautala, phù hợp với những lời tiên tri của Bậc Minh Sư Drime  

Cùng Đức Kim Cang Hợi Mẫu Vajravarahi, ngài tranh luận với kẻ dị giáo Kyabsel.

Đánh bại và chinh phục tất cả những kẻ dị giáo ở thời điểm đó. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong xứ Zahor, ngài đưa 300 người nữ tới con đường,  

Và chuyển hóa đau khổ của nhà vua cùng hoàng hậu  trước cái chết của Hoàng Tử Palde.

Sau đó Ngài tìm ra xác thân bậc hiền triết linh thánh,  

Và rồi xác thân này đã trở thành đối tượng cao cả cho  lòng sùng kính của chúng dân.

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Ngài hòa giải cho 2 xứ Bheta và Zahor, 

Kết thúc một cuộc chiến tranh sắp nảy sinh giữa họ.

Theo lời tiên tri của Đức Pandaravasini,

Ngài đưa một đoàn tùy tùng của mình đi tới Giáo Pháp.

Phát khởi những lời nguyện tha thiết ở lại trong luân hồi vì hạnh phúc chúng sinh. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Gặp nhà vua, ngài thảo luận về những thỉnh cầu kết hôn với mình từ những gia tộc hoàng gia khác trong mọi phương hướng. 

Không chút bám luyến vào vòng sinh tử,  

Ngài nhận được một tiên tri từ Đức Kim Cương Tát Đỏa Vajrasattva[54]

Bỏ trốn một cách thiện xảo, ngài thọ giới xuất gia trước Đức Tu Viện Trưởng. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Triệt để tham học những kinh văn, ngài nghiên cứu Tam Tạng Kinh, 

Và trong rừng hoan hỷ ngài dạy Phật pháp cho 500 tùy tùng.

Nhận được tiên tri trực tiếp từ hóa thân Guru Padmasambhava. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Đi tới vườn hoa như lời tiên tri, ngài thực sự diện kiến Đạo Sư.

Khi thỉnh mời Đạo Sư đến cung điện ngài để dạy Pháp,

Một người chăn bò lang bạt đã trình báo sự kiện này

Những tin đồn lan ra ngay sau đó, và nhà vua đã hành động trừng phạt việc này. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Bất chấp nỗ lực của nhà vua và hoàng hậu nhằm thiêu sống Guru Padmasambhava, 

Ngài hiển lộ những quyền năng kỳ diệu của mình.

Nhà vua cùng các bộ trưởng đã bị lấp đầy với sự ân hận sâu sắc.

Đạo Sư đã ở lại cùng nhà vua và hoàng hậu, 

Vào lúc ấy nhà vua chính thức dâng Đức Mandarava như phối ngẫu cho Bậc Đạo Sư xứ Oddiyana. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Tất cả những người nam trong xứ Oddiyana đều trở thành đệ tử Đạo Sư;

Và Đức Mandarava hiển lộ Pháp cho tất cả những người nữ, giúp họ đạt giải thoát.

Đạt đến sự trưởng thành viên mãn nhờ thọ nhận huấn thị trực chỉ của Vị Thầy. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Thọ nhận Pháp thâm sâu của dấu hiệu, Ngài đã đến hang động Maratika cùng Đạo Sư 

Và thực sự thành tựu trạng thái bất tử  

Trở thành một đấng trì minh vương bất tử.

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong vùng đất xứ Kotala, ngài thuần hóa chúng sinh nhờ phương tiện kỳ diệu 

Và đạt được thắng lợi to lớn trên huyền thuật của những kẻ dị giáo.

Trong nền mộ địa Yongdu, ngài đặt bè lũ gây chướng ngại dưới lời tuyên thệ. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Ứng hợp với tiên tri của Đức Padmasambhava, 

Ngài đi tới vùng đất Chamara, nơi ngài đặt tất cả những kẻ ăn thịt người nam và nữ vào con đường Phật Pháp.

Họ đắc thân cầu vồng, và toàn bộ xứ sở đã được làm trống rỗng! 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong xứ Ngampatsal và 8 xứ sở lớn,

Và trong Kailadrog cùng 8 chốn năng lực phụ,

Ngài hiển lộ 8 điều kỳ diệu chính và phụ, những hành năng giác ngộ hữu hình. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Sau đó, Guru Padmasambhava cùng vị phối ngẫu đã cùng nhau 

Đi tới vùng đất xứ Oddiyana nhằm trục xuất tất cả những cái thấy xuyên tạc nhờ phương tiện thiện xảo.

Các Ngài xoay chuyển Pháp Luân, và tất cả mọi người đều được giải thoát trong thân ánh sáng cầu vồng. Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Theo lời tiên tri của Đạo Sư,

Ngài đã tới xứ Shambhala, cùng phương tiện thiện xảo lớn lao của mình, 

Ngài thuần hóa chúng sinh trong 25 thiên quốc.

1 triệu 300 ngàn đệ tử may mắn định mệnh được giải thoát trong thân cầu vồng. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện! 

  

Sau đó, ngài du hành tới đỉnh núi cao nhất ở Bheche, xứ Ấn,

Nơi tất cả những ban truyền còn lại, không chút ngoại lệ được ban cho. 

Ngài hóa hiện chính mình thành 2 bông hoa Utpal trắng và đỏ -  

Một bông ở Tây Tạng và một bông ở Nepal.

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Tan hòa trong sự rộng mở không gian như một cầu vồng, không để lại dấu tích gì, 

Ngài khởi hành tới Tịnh Độ Akanishta Padmavyuha.

Ngài biến thành hiện thân đấng phối ngẫu vô thượng, 

Đức Dakini trí tuệ nguyên sơ bí mật

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Cùng với 900 đệ tử trì minh vương,

Sau khi hóa tán vào thân cầu vồng, ngài hóa hiện bản thân một lần nữa  

Vì lợi ích những người khác.

Mandarava không ngừng lưu xuất ra, hóa hiện bản thân như một 

Dakini  Bậc thuần hóa tâm thức chúng sinh trong mọi cách thế cần thiết. 

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

Trong Cõi Cực Lạc, ngài được biết đến như vị phối ngẫu trí tuệ bí mật Pandaravasini;

Trong cõi giới Khechari, Ngài là Natyendri; 

Và trong xứ Zahor, Ngài là Dungmen Karmo.

Tới chân ngài, hỡi Mandarava, con khẩn nguyện!

 

"  Cầu mong con cùng tất cả những người khác trong mọi kiếp sống tương lai không bao giờ chia tách khỏi ngài, bậc tối thượng giữa các Dakini! Cầu mong chúng con được tự do khỏi mọi trạng thái tạm thời và tuyệt đối của sợ hãi, cầu mong chúng con chứng ngộ Phật quả viên mãn! Cũng như tấm gương về nhiều kiếp sống của ngài, bằng cách thành tựu Giáo Pháp, cầu mong tất cả chúng con đều trở nên giác ngộ! Cầu mong tất cả mọi che chướng không chút ngoại lệ đều được làm an dịu. Cầu mong lợi ích cho những người khác được nhanh chóng thành tựu và viên mãn! Xin ban cho con những ân phước để đặt tất cả mọi chúng sinh trong trạng thái Bà Mẹ Chiến Thắng và làm trống rỗng các cõi luân hồi sinh tử. Với những ai không bao giờ dao động, nao núng khỏi những lời này và những ai nhất tâm kiên định, cầu mong những che chướng tiêu cực do sự tích lũy trải qua vô lượng kiếp trong quá khứ được tịnh hóa không để lại dấu tích gì! Nhờ hoàn thiện mọi phẩm chất cao quý trên các giai đoạn và con đường cùng sự gặp gỡ Dakini, những thành tựu thần lực thông thường và tối thượng sẽ nhanh chóng được đạt đến; Những tích lũy tiêu cực khiến gây ra bệnh tật cùng những cản trở ma quái sẽ bị đảo ngược lại không chút ngoại lệ; Sẽ có những niềm vui của tuổi thọ, sức khỏe tuyệt hảo và một sự giàu mạnh các nguồn lực cùng sự thịnh vượng. Bất cứ điều ước nào cũng sẽ được hiện diện một cách tự nhiên!


"  Không còn nghi ngờ gì nữa bà mẹ Mandarava sẽ chỉ dẫn một người đến nơi tái sinh tương lai trong Cõi Cực Lạc. Như vậy, đối với tất cả chúng sinh, bao gồm cả các đệ tử may mắn định mệnh của Tây Tạng, bất kì ai viết hay đọc bản tiểu sử về cuộc đời và sự giải thoát của Đức Mandarava này và khi họ thực hiện lễ lạy, cúng dường cùng sự khẩn nguyện với đức tin và lòng sùng mộ, họ sẽ thể nghiệm kết quả của việc hoàn thành tự nhiên mọi mong ước. Bất kì ai chỉ cần đơn thuần đọc bản văn này với đức tin thuần khiết thì họ sẽ được tự do khỏi sự đe dọa từ các loại bệnh truyền nhiễm, chiến tranh, bất hạnh cùng hạn hán; tà thuật, lời nguyền và mối đe dọa gây tổn hại sẽ được làm bình lặng. Mối đe dọa về cái chết bất đắc kỳ tử và những chướng ngại trong cuộc sống của một người sẽ được đảo ngược nếu một ai đó đọc bản văn này 100 lần. Nếu một người đọc bản văn này thì bệnh tật từ những loài vật 4 chân phải chịu đựng, cũng như những người ăn xin nghèo khổ, sẽ được làm an dịu, và sự may mắn cùng thịnh vượng sẽ đầy tràn. Nếu một người muốn có con cái, thì dòng dõi gia tộc của họ sẽ được tăng trưởng nhờ đọc bản văn này. Bất kỳ ai sở hữu bản văn về cuộc đời và sự giải thoát này của ngài thì họ sẽ thành tựu mọi ước muốn mà không chút trở ngại. Bất cứ nơi nào có một bản sao lưu của bản văn này được tìm thấy trong bất kỳ tu viện, quốc gia, thành thị, hay gia đình nào – thì các tinh linh, lực lượng ma quỷ cùng các vị nguyên tố sẽ phải lánh xa nơi ấy, họ sẽ không thể tiếp cận được gần hơn nơi ấy trong chu vi một dặm. Nếu bản văn này được tụng niệm 100 lần để có được một tái sinh tốt hơn trong tương lai, thì ở đó sẽ có sự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi của những cõi thấp, và thần thức những ai tụng đọc sẽ du hành đến cõi Khechari.

 

"  Những lợi ích thực sự của bản văn này trỗi vượt tới nỗi chúng đơn giản không thể được biểu hiện ra hết. Nếu bản văn này được đeo trên thân thể, những ảnh hưởng, tác động của che chướng sẽ không xảy ra. Sẽ không có nỗi sợ hãi về các loại vũ khí, và chất độc sẽ mất hiệu lực. Các bệnh truyền nhiễm, vết thương hở miệng, mưng mủ và bệnh phong cùi, tất cả sẽ được làm an dịu. Ốm đau, sự chiếm giữ từ các thế lực ma quỷ, các thế lực che chướng cùng tất cả những tổn hại như vậy sẽ bị tước bỏ sức mạnh. Nếu bản văn này được đọc trước khi khởi đầu một cuộc hành trình, thì tất cả mọi rủi ro, tác hại, chẳng hạn như bị phục kích, bị cướp tài sản cùng những lối đi nguy hiểm sẽ được làm bình lặng. Nếu một người giữ gìn bản văn này như một đối tượng của lòng tôn kính, thường xuyên lễ lạy, đi nhiễu, và dâng cúng dường thì chắc chắn rằng họ sẽ tái sinh trong Thượng Giới Cực Lạc. Do vậy, hỡi chúng sinh của các thế hệ tương lai, hãy tinh tấn tùy theo khả năng của mình một cách phù hợp!"

 

Samaya

 

Điều này hoàn thành chương 38 về

Cuộc Đời và Sự Giải Thoát

Đức Công Chúa xứ Zahor Mandarava,

Được gọi là Một Tràng Hoa Báu, 

*

 Lời khẩn nguyện cô đọng tới các hiện thân liên tiếp của Đức Mandarava.

      
PHẦN KẾT 

  

Một lần nữa, Công Nương Tsogyal thỉnh cầu: "Kye ma! Hỡi Guru Padmasambhava xứ Oddiyana! Bản văn quý giá về cuộc đời và sự giải thoát của Đức Dakini này có nên trở thành một phần của giáo huấn khẩu truyền (Kama) hay của dòng truyền kho tàng được tái khám phá lại (Terma) cho sự công truyền trong tương lai hay không? Khi nào thì bản văn mang ý nghĩa làm lợi ích cho chúng sinh? Trong sự thiện tâm vĩ đại của mình, xin Ngài ban cho chúng con một dấu hiệu cho tương lai".

 

Với lời thỉnh cầu này, Đạo Sư trả lời: "  Hãy lóng nghe, Jomo Yeshe Tsogyalma! Bản văn quý giá về cuộc đời và sự giải thoát của Đức Dakini này trước đây chưa bao giờ được hiển lộ, và nó sẽ được viết thành 3 bản, được chôn cất và cất giấu như các kho tàng. Ở 3 nơi được gọi là Tsangrong Mebar Drag, Tsarong Drag và Núi Gowowang là những hang động thiền định của Ta. Hãy cất dấu 3 bản này trong các hộp tráp tê giác ở 3 hang động năng lực này. Hãy phó thác cho những bậc canh giữ kho tàng Du, Tsen và Lu để bảo hộ các kho tàng.

 

"  Bản văn được cất giấu trong hang động ở Núi Gowowang sẽ được hiển lộ trong tương lai khi tuổi thọ của con người ở ngưỡng dưới 30 và trên 20 năm. Vào thời điểm đó, bản văn này sẽ thực hiện lợi ích cho chúng sinh. Phiên bản ngắn gọn được cất giấu trong hang động ở Tsangrong sẽ được phổ truyền khi tuổi thọ con người ở ngưỡng 40 năm và sẽ được trao cho một người tên là Karma hoặc Dorje. Tuy nhiên, khi những hoàn cảnh cát tường cho việc khám phá nó bị đảo ngược, thì các chữ cái xuất hiện trên giấy da dê vàng ròng cuối cùng sẽ biến mất.

 

" Bản văn được chôn cất trong hang động ở Tsarong sẽ được công truyền rộng rãi khi tuổi thọ con người ở ngưỡng 20 năm trong khu vực được gọi là Dokham bởi một người tên là Ratna. 3 bản văn nữa sẽ được chôn cất. Bản mở rộng ở Tsangrong, bản trung ở Núi Gowowang và bản ngắn gọn ở hang Tsarong.

 

"  Phiên bản trung sẽ được hiển lộ bởi vị khai mật tạng Samten Lingpa, người sẽ được sinh ra trong năm Thiết Mùi. Là một người nhẫn nhục vĩ đại, ngài sẽ công bằng, vô tư và trì giữ giác tánh thuần tịnh vĩ đại. Những phẩm chất trí tuệ của ngài sẽ siêu vượt, và ngài sẽ không bao giờ giữ sự đồng hành với những chúng sinh che ám, tiêu cực. Một người hoàn toàn tự do khỏi che chướng, ngài sẽ là một bậc minh sư của tuệ nhãn nguyên sơ. Trái tim ngài sẽ được đánh dấu với chủng tử Hum, má ngài được đánh dấu với chủng tự Bhrum, và vai ngài được đánh dấu với một biểu tượng swastika (hình chữ vạn)[55]. Đùi ngài sẽ có những khuôn hình trang sức xương, và rốn ngài sẽ được đánh dấu với chủng tử Tam. Là một bậc thầy của mọi phẩm chất tuyệt vời, ngài sẽ là bậc chinh phục ma quân. Trong kiếp tái sinh cuối cùng của mình, nhờ các pháp ẩn mật, ngài sẽ là bậc tận cùng vĩ đại của dòng truyền thừa kho tàng thâm sâu. Thông qua ân phước gia trì từ khẩu của Ta, ngài sẽ dẫn dắt chúng sinh; với bất kì ai đã có một mối nối kết với ngài, họ đều có thể được đặt trong trạng thái bất thoái chuyển.

 

"  Sau khi nhận được kho tàng này, ngài sẽ cất giấu nó trong 20 năm cho đến khi gặp gỡ được Rigden Dewa, Sonam, Dronma, và một người được gọi là Pháp. Quen biết họ, ngài sẽ hiển lộ rõ ràng bản văn này, và họ sẽ trở thành những bậc canh giữ kho tàng Pháp bảo này. Có 5 bản văn chính nối kết với bản văn này, cũng như 6 nhánh. Dần dần tất cả các bản văn sẽ được công truyền nhằm mang lại lợi ích cho vô số chúng sinh. Bây giờ bản văn về cuộc đời của Đức Mandarava này, một terma của Nanam Dorje Dujom, với 8 cánh cửa, được ẩn dấu gần núi Zegyal trong hang động bí mật của các Dakini. Những người có duyên canh giữ kho tàng Pháp bảo này là Tso hoặc Cho. Nếu bất kỳ ai trong số họ khế hợp với điều này, thì không còn nghi ngờ gì nữa, nó sẽ được hiển lộ. Sau đó, các bản in nhỏ sẽ chỉ định một cách rõ ràng cho những bậc canh giữ kho tàng được tiên tri. Kho tàng này sẽ ban an lạc và hạnh phúc cho chúng dân Tây Tạng. Sau 13 kho tàng bổ sung được khám phá, chìa khóa thâm sâu sẽ được ban nhờ những bậc thủ hộ. Như vậy, các thế hệ tương lai nên gạt bỏ bất kỳ nghi ngờ nào!"

 

Samaya

  

Sau đó, Dakini Yeshe Tsogyal đã ghi chép lại, viết bản văn này trên mặt sau cây bạch dương trắng 3 lần trong mật mã dấu hiệu biểu trưng. Trong hang động được gọi Tsangrong Mebar, cô đã cất giấu Mật Điển Padma Pungpe cùng bản tham chiếu những huấn thị trực chỉ. Trên Núi Gowowang, cô cất dấu 5 vòng chu kỳ Tugdam, cũng như là Yangchang Chenmo. Trong hang Tsarong đen, cô cất giấu Mật Điển Purba Mitri với những luận giảng bổ sung; như thế cô ủy thác tất cả vào tay những bậc sở hữu kho tàng trong tương lai cùng các vị hộ thần. Nhiều lời cầu nguyện cát tường đã được dâng lên!


 Samaya  gya  gya  gya  ku  gya  sung  gya  tug  gya  da  tim

Được ấn niêm bởi những lời danh dự, 

Dấu ấn thân giác ngộ, Dấu ấn khẩu giác ngộ, Dấu ấn tâm dấu ngộ. 

      

                                                                                                                                                                                             

Tượng trưng cho chày kim cương đôi giao nhau, biểu tượng tượng trưng cho tòa ngồi của Đức Phật giác ngộ, được gọi là "kim cương tòa" (Vajrasana).  


Bậc lão thông mật thừa đã xuất hiện vào cuối đại kiếp này, Đấng Heruka Orgyen Jigme Migyur Samten Lingpa Trinle Drodul Lerab Dewa Tsal đã hiển lộ kho tàng này từ Núi Gowowang Động Thiền Định Liên Hoa vào tuổi thứ 14 của ngài, năm Mộc Thân đực. Cam kết tâm của ngài Yeshe Tsogyal, trong 5 phần cùng với bản Cuộc Đời và Sự Giải Thoát này đã được hiển lộ và sau đó được cất giấu bởi bậc hiển lộ kho tàng cho đến khi ngài được 37 tuổi. Đúng như đã tiên tri, khi gặp gỡ hóa thân của Langlab Gyalwa Jangchub, Dorshul Tsewang Tendzin Pema Trinle vị terton nhận được 7 dấu hiệu tự nhiên mạnh mẽ để phát lộ kho tàng terma. Sau đó Dorshul Tsewang Tendzin Pema Trinle đưa cho vị terton chất liệu để ghi lại bản mặc khải này, và bản văn đã được bắt đầu trong tu viện ẩn tu Gochen Gyalwa, được gọi Dudul Ngag, gần núi Dzegyal Mamo. Công việc này tiếp tục ở nơi thành tựu của Đạo Sư xứ Oddiyana, được gọi là Maratika, và được hoàn thành ở nơi được gọi là Gangshung Yangkyilgar. Toàn bộ bản văn đã được viết xuống trên loại giấy da dê vàng ròng của vỏ cây bạch dương trắng có kích thước 2 lần chiều rộng 3 ngón tay. Cầu mong mọi tích tập và kết quả đức hạnh làm tăng trưởng giáo lý Đức Phật và cầu mong gót chân sen của các bậc trì giữ giáo lỹ vĩ đại được trụ thế vững chắc trong 100 đại kiếp! Cầu mong tất cả chúng sinh đều thể nghiệm sự an lạc và niềm hạnh phúc được phú bẩm trọn vẹn! 

 

Sarva Mangalam Geoh!

 Cầu Mong Luôn Có Vận May Và Đức Hạnh!

         

Về Những Cộng Tác Viên

 

LAMA CHONAM là Khenpo được thọ phong trong dòng Nyingma, Phật Giáo Kim Cương Thừa. Ông sinh ra ở Golok, là con trai một gia đình du mục và đi vào tu viện từ rất sớm ở tuổi thiếu niên. Vị Thầy gốc của ông là cố Khenpo Munsel, một trong những bậc thầy cao cấp đáng tôn kính thuộc Truyền Thống Đại Viên Mãn. Ông rời Tây Tạng vào năm 1991 và được mời đến Hoa Kỳ vào năm 1992. Ông đóng góp như một chuyên gia, thông dịch viên cho bộ sử thi của Đức Vua Gesar xứ Ling, tác phẩm này ông đang biên dịch cùng các đồng nghiệp ở Viện Nghiên Cứu Văn Học Tây Tạng. Ông là cố vấn cho Ban Dịch Thuật Nalanda và làm việc chặt chẽ với Sangye Khandro trong việc biên dịch nhiều văn bản quan trọng.

 

SANGYE KHANDRO là một học giả và hành giả của Phật giáo từ năm 1972. Bà đã dành cả cuộc đời mình nghiên cứu và thực hành Phật Giáo Kim Cương Thừa trong 26 năm qua và bà đã đóng góp như một người thông dịch nổi tiếng khắp thế giới cho nhiều vị thầy cao cấp Tây Tạng suốt hơn 18 năm qua. Vào năm 1979, bà đã gặp Pháp Vương H.H. Dudjom Rinpoche, người mà sau đó đã trở thành vị thầy gốc của bà. Trước đó bà cũng đã gặp Hòa Thượng Gyatrul Rinpoche và trở thành người đồng hành tâm linh của ông. Dưới sự chỉ dẫn của H.H. Dudjom Rinpoche và gia đình ngài, Gyatrul Rinpoche cùng Sangye Khandro đã giúp đỡ thiết lập Trung Tâm Pháp Yeshe Nyingpo ở Mỹ và xây dựng trung tâm nhập thất Tashi Choling ở miền nam Oregon. Những bản dịch gần đây của bà bao gồm Đạo Hạnh Viên Mãn, một bản dịch thuộc một trong những văn bản Kim Cương Thừa quan trọng nhất về chủ đề 3 lời nguyện và những luận giảng được tìm thấy trong các kho tàng mới của Dudjom Rinpoche. Ngoài ra, bà là một trong ba học giả tham gia vào việc biên dịch bộ sử thi cổ dài về Đức Vua Gesar xứ Ling.

 

JANET GYATSO là Phó Giáo sư Tôn giáo tại Trường Cao Học Amherst. Bà đã học tập với rất nhiều bậc thầy Tây Tạng và đã nhận được học vị Tiến sĩ Phật học từ Trường Đại Học California ở Berkeley. Những tác phẩm nghiên cứu gần đây của bà tập trung vào những thực hành linh ảnh, tiểu sử, nhật ký cùng các bậc nữ minh sư tôn giáo Tây Tạng. Cuốn sách gần đây nhất của bà là Những Biểu Hiện Tự Ngã: Những Tự Truyện Bí Mật Về Một Linh Ảnh Tây Tạng (Princeton, 1998).

        

Về Nhà Xuất Bản Trí Tuệ (Wisom Publications)

 

WISDOM  PUBLICATIONS, một nhà xuất bản phi lợi nhuận, được dành riêng cho các tác phẩm Phật giáo đích thực vì lợi ích tất cả. Chúng tôi phát hành những bản dịch Kinh điển và Mật điển, luận giảng cùng những lời dạy các vị minh sư Phật Giáo trong quá khứ và đương đại, và tác phẩm gốc từ các vị học giả Phật Giáo hàng đầu thế giới. Chúng tôi xuất bản những tác phẩm của mình với sự trân trọng Phật Giáo như một triết lý sống và với sự cam kết đặc biệt nhằm bảo tồn và truyền bá các tác phẩm quan trọng từ tất cả các truyền thống Phật Giáo chính tông.

 

Nếu các bạn muốn biết thêm thông tin hoặc một bản sao trong kho sách - đặt hàng qua thư tín, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi ở địa chỉ:

 

Wisdom Publications

199 Elm Street

Somerville, Massachusetts 02144  USA

Telephone: (617) 776-7416  Fax: (617) 776-7841

E-mail: info@wisdompubs.org   Web Site:  http://www.wisdompubs.org

 

Niềm Tin Trí Tuệ (THE WISDOM TRUST)

 

Là một nhà xuất bản phi lợi nhuận, Nhà Xuất Bản Trí Tuệ được dành riêng cho việc xuất bản những cuốn sách Pháp tốt vì lợi ích cho tất cả chúng sinh và dựa vào sự hào phóng và hảo tâm của các nhà tài trợ để làm công việc này. Nếu các bạn muốn thực hiện một khoản tặng dành cho Wisdom Publications, xin làm điều đó thông qua văn phòng Somerville của chúng tôi. Nếu các bạn muốn tài trợ cho việc xuất bản một cuốn sách, xin vui lòng viết thư hoặc email cho chúng tôi để biết thêm thông tin.

 

Cảm ơn các bạn!

   

Wisdom Publications là một tổ chức nhân đạo, phi lợi nhuận 501 (c) (3) và là một phần của Tổ Chức Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa (FPMT)

 

[1] Ba cõi hiện hữu là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.

[2] Ba hiện thân giác ngộ này là ba thân. Hiện thân giác ngộ của thực tại tối hậu là Pháp thân, hiện thân giác ngộ của hỷ lạc là báo thân, và hiện thân giác ngộ của hóa hiện có chủ đích là hóa thân.

[3] Đây là bốn hoạt động giác ngộ được thực hiện bởi chư Bồ tát và chư Phật.

[4] Một quyền trượng chĩa ba được nắm giữ bởi các chư tôn thiền định mật thừa, được trang trí với những biểu tượng của thân, khẩu, tâm giác ngộ.

[5] Sapphire

[6] Năm mạng lưới kinh mạch này đều nằm trong năm trung tâm năng lượng chủ yếu trong thân tinh thần. Chúng là luân xa đại lạc hay mạng lưới các kinh mạch trong vương miện ở

[7] Một chakravartin (chuyển luân thánh vương) là một vị vua vũ trụ có công đức cai trị vũ trụ. Vị này chỉ xuất hiện trong thời gian khi tuổi thọ con người trải dài giữa khoảng vô hạn đến 80 ngàn năm.

[8] Năm hiện thân là ba thân bao gồm thân thứ tư là svabhavikakaya (tự tánh thân – bản tánh tinh yếu như nó là), và thân thứ năm, abhisambodhikaya (Tạng ngữ. mngon byang sku, thân giác ngộ thức tỉnh trọn vẹn).

[9] Vị thứ hai trong một ngàn vị Phật xuất hiện ở hệ thống thế giới chúng ta trong đại kiếp hiện tại.

[10] Thân cầu vồng là một thành tựu độc đáo với thực hành vượt qua với sự hiện diện tự nhiên (lhun grub thod rgal). Bằng việc hoàn thành thực hành này, một phương pháp chính của con đường Đại Viên Mãn, kết quả là thân cầu vồng, có nghĩa là hòa tan thân thể hữu hình thành các hạt phân tử năng lượng ánh sáng vào lúc chết. Có hai loại thân cầu vồng, cả hai đều được đề cập đến trong bản mặc khải này. "Thân cầu vồng với sự để lại" là chỉ để lại tóc và móng tay vào lúc chết. “Thân cầu vồng đại chuyển di" là không để lại dấu tích gì và đơn thuần tan biến vào không gian. 

 [11] Thừa Ati là con đường Đại Viên Mãn (rdzogs chen).

 [12] Kamarupa là một vùng ở phía tây của Assam ngày nay. Assam được biết đến ngày nay với sự khốc liệt, ghê rợn của nó – và đôi khi các cư dân thuộc bộ lạc ở đây ăn thịt đồng loại của họ.

 [13] Bậc hộ pháp Tsen (btsan) cũng được gọi là Tsi'u Marpo. Ngài là bậc đứng đầu cõi Dạ Xoa Yaksha (tài thần) và vua cõi dgra-lha (chiến thần). Vị hộ pháp này có năng lực làm bạn và hỗ trợ các hành giả nhờ việc ban cho sự giàu có, thịnh vượng cùng những điều tương tự, hoặc nếu bị xúc phạm, ngài sẽ gây ra tổn hại.

 [14] Chín thừa được dạy theo truyền thống Nyingma của Phật giáo Kim Cương Thừa là: Shravaka hay Thanh Văn Thừa; Pratyeka Bích Chi hay Độc Giác Thừa; Đại Thừa; Kriya hay Mật Điển Hoạt Động; Upa hay Mật Điển Đạo Hạnh; Yoga hay Mật Điển Thực Hành; Mahayoga hay Mật Điển Đại Yoga; Anuyoga hay Trao Truyền Mật Điển Yoga; Atiyoga hay Mật Điển Yoga Đại Viên Mãn.

 [15] Các á thần hay atula là từ những vị bán thần khổng lồ trở xuống các vị thần cõi thấp. Họ cũng được gọi là các chiến thần bởi vì họ liên tục gây chiến với nhau.

[16] Chân lý tối hậu là tánh không và trí tuệ nguyên sơ; Chân lý tương đối là nhân quả.

[17] Cha của Hoàng tử Tất Đạt Đa Siddhartha, người sẽ trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Shakyamuni.

[18] Ma vương hay Mara là thế lực ma quỷ chống đối lại đường hướng đức hạnh.

[19] Sáu ba la mật là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ.

[20] Naga hay Rồng là những sinh vật dưới lòng đất. Họ bảo vệ và canh giữ thế giới ngầm.

[21] Lục địa “hoa hồng – táo” theo khoa vũ trụ học Ấn Độ, đồng nhất với thế giới này.

[22] Tam Tạng Kinh, sự phân loại những lời dạy của Đức Phật thành 3 phần. Luật Tạng nói về Giới Luật, chủ yếu nhấn mạnh vào việc tu tập đạo đức. Kinh Tạng, chủ yếu nhấn mạnh vào sự tập trung. Vi Diệu Pháp Tạng, chủ yếu nhấn mạnh vào trí tuệ.

[23] bde  gshegs  lha,  các bổn tôn Thiện Thệ.

[24] Có lẽ đề cập đến Kamarupa;

[25] phẩm chất tinh khiết của nước là: mát, ngọt, trong, miễn nhiễm với tạp chất, nhẹ nhàng, mềm mại, êm dịu với hệ tiêu hóa, sạch và thông họng.

[26] Đây là ba bậc hộ pháp trí tuệ quan trọng của Phật Giáo Kim Cương Thừa. Mahakala (Gonpo), Đại Hắc Thiên, có đến 75 thân tướng và được xếp vào hàng Hộ Pháp trí tuệ, ngài cũng là một vị bổn tôn thiền định. Ging là một vị thần hộ vệ cho môi sinh trong dạng một bộ xương, và Tsen thì đã được nhắc đến trước đó trong ghi chú ở trên.

[27] Đức tin, giới đức, quảng đại, ham học, có tâm, biết hổ thẹn và trí tuệ.

[28] Năm trí tuệ nguyên sơ là năm trí tuệ của một vị Phật. Đó là: adarsha-jnyana (me  long  lta  bu'i  ye  shes), đại viên cảnh trí - trí tuệ nguyên sơ như gương; samata-jnyana (mnyam  nyid  ye  shes, bình đẳng tánh trí - trí tuệ nguyên sơ bình đẳng; pratyavekshana-jnyana (so  sor  rtog  pa'i  ye  shes), diệu quan sát trí - trí tuệ nguyên sơ phân biệt; dharmadhatu-jnyana (chos dbyings ye shes), pháp giới thể tánh trí - trí tuệ nguyên sơ khối cầu vạn pháp; krityanusthana-jnyana (bya ba nan tan du grub pa'i ye shes), thành sở tác trí - trí tuệ nguyên sơ hoạt động thành tựu.

[29] Năm màu sắc là trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây, và màu xanh.

[30] Năm đảnh là quán đảnh thân, khẩu, tâm, phẩm tánh cao quý, và các hành năng giác ngộ. 35 Tám lĩnh vực ý thức là ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, các dấu ấn tinh thần, các dấu ấn tinh thần dựa trên cảm xúc và nền tảng của tất cả.

[31] Bốn giáo điều là bốn quan điểm cực đoan của việc tin vào hiện hữu, không hiện hữu, cả hai, và không hiện hữu cũng không không hiện hữu.

[32] Tứ vô lượng là từ, bi, hỷ và xả.

[33] Bốn hỷ lạc được thể nghiệm như là kết quả của sự an trụ trong thiền định. Chúng là hỷ lạc, hỷ lạc vô thượng, hỷ lạc đặc trưng và hỷ lạc đồng sinh khởi.

[34] Phương diện mê đắm là một liên hệ tới 5 xúc tình hay 5 độc. Chúng là vô minh, tự mãn, tham dục, sân hận và ganh tị.

[35] Mười chuyển động gió là 5 gốc năng lượng thiết yếu: tỏa khắp, duy trì sự sống, chuyển động lên, chuyển động xuống, và đồng hóa nhiệt; và 5 nhánh gió, tương ứng với các nguyên tố: đất, nước, lửa, gió và hư không.

[36] Chuỗi mắt xích kim cương của giác tánh là một linh ảnh được thể nghiệm trong sự thực hành vượt qua với sự hiện diện tự nhiên (lhun grub thod rgal). Đây là pháp chính được sử dụng trên con đường Đại Viên Mãn, nhờ đó mà thân ánh sáng cầu vồng được chứng ngộ. 42 Bốn thị kiến tự biểu hiện là các giai đoạn chứng ngộ xảy ra trong suốt sự thực hành thâm sâu của vượt qua. Chúng là linh ảnh được nhận thức trực tiếp về bản tánh của vạn pháp, sự gia tăng thị kiến, thước đo đầy đủ của giác tánh thuần tịnh, và sự hoàn thành của vạn pháp trong bản tánh chính chúng.

[37] "Bản tánh nền tảng" là một liên hệ tới bản tánh cơ bản của thực tại, nguồn gốc mà từ đó vạn pháp nảy sinh.

[38] Tám cấp quỷ thần là Gongpo (gong po), Th'utrang (the'u brang), Ngayam (nga yam), Sadag (sa bdag), Yul Lha (yul lha), Man (sman), Tsan (btsan) và Lu (klu).

[39] Ba chất trắng là sữa đông, sữa và bơ. Ba đồ ăn ngọt là: đường, mật ong và mật mía. 46 Bổn tôn thiền định (yi dam;. Phạn ngữ là deva), vị bổn tôn chính mà một người phát sinh trong thực hành Mật Điển.

[40] Bardo là thời khắc trung chuyển khi ý thức thể nghiệm chặng giữa giao nhau giữa sống và chết, mê và tỉnh của cuộc đời.

[41] Thần Chết đề cập đến Yama, sứ giả cái chết trong đền thờ Phật giáo.

[42] dkar  rtsis  nag  rtsis.  Những khoa này ứng với những khía cạnh của toán học và lý giải trong chiêm tinh học.

[43] Các torma là bánh cúng, được dâng lên trong nghi lễ, thường có dạng hình nón.

[44] Ba cửa là thân, khẩu và tâm.

[45] Mười điều phi đức hạnh là giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, vu khống, nói lời thô ác, nói lời vô nghĩa, tham ái, ác ý và tà kiến.

[46] Tam độc là vô minh, tham dục và sân hận.

[47] Cả chương này và chương tiếp sau đó đều được đánh số 26 trong bản văn Tây Tạng. Để rõ ràng, chúng tôi đã đánh số chương này là 27. Các chương tiếp theo là một số được đánh cao hơn so với số chương trong các bản văn Tây Tạng.

[48] Các bậc lão thông vĩ đại.

[49] Phi hành là một trong tám thành tựu tâm linh thế tục.

[50] Một loại nữ tinh linh ăn thịt.

[51] Tạng ngữ là Lha chen,  hay Shiva.

[52] Năm tịnh độ của chư Phật là các cõi giới của năm gia đình Phật. Chúng là các cõi: Dàn Trận Dày Đặc ở trung tâm, Cõi Diệu Hỷ ở phương đông, Cõi Phú Bẩm Vinh Quang ở phương Nam, Cõi Cực Lạc ở phương tây, và Cõi Hoạt Động Hoàn Hảo Trọn Vẹn ở phương bắc.

[53] Tám hóa thân của Đạo Sư Liên Hoa Sinh là: Guru Tsokye Dorje (Đạo Sư Kim Cương Sinh Trong Hồ), Guru Orgyan Dorje Chang (Đạo Sư Kim Cang Trì xứ Uddiyana), Guru Lodan Chogse (Đạo Sư Được Phú Bẩm Sự Thông Tuệ Vô Thượng), Guru Padma Gyalpo (Đạo Sư Liên Hoa Vương), Guru Shakya Senge (Đạo Sư Sư Tử Thích Ca), Guru Nyima Ozer (Đạo Sư Các Tia Sáng Mặt Trời), Guru Senge Dradrog (Đạo Sư Sư Tử Hống), Guru Dorje Trolo (Đạo Sư Kim Cương Phẫn Nộ).

[54] Đức Phật Vajrasattva là bậc đứng đầu tất cả các Bộ Phật và các cấp Chư Tôn Thiền Định. Ngài là tổng hợp cốt tủy của tất cả 100 vị bổn tôn gồm 42 vị hiền minh và 58 vị phẫn nộ. Như vương miện báu của chư Phật Báo Thân, Đức Vajrasattva mang trọng trách phổ truyền giáo lý trong các hệ thống thế giới và là vị bổn tôn chính cho sự thanh lọc, tịnh hóa.

[55] Tạng ngữ g.yung. drung. Swastika (từ tiếng Phạn su “tốt” + asti “nó là” là một một biểu tượng cổ xưa được biết đến từ thời tiền sử. Trong bối cảnh Ấn Độ nó biểu trưng cho mặt trời, sự thịnh vượng và may mắn...