Nghi thức Phóng Sinh

Nghi thức Phóng Sinh


Phóng sinh là một truyền thống quen thuộc và tốt đẹp của Phật giáo!

Câu chuyện cho và nhận của luật nhân quả thì đã rõ ràng với rất nhiều người, khi bạn mang lại sự  sống, cứu ai đó thoát khỏi sự  kìm kẹp, chém giết thì khi lượng đủ chất sẽ đổi, cuộc sống của bạn chắc chắn sẽ có sự  tương tác phản hồi đến từ hành động này như  gia tăng tuổi thọ cho mình và người trong gia đình, tăng trưởng trí tuệ, sự  may mắn, sự  an bình…

Rõ ràng là nếu bạn không phóng sinh mang những loài vật đó ra khỏi cửa hàng thì có thể một lát nữa thôi chúng đã bị chặt chém, đau đớn, rồi đổ máu và trở thành món ăn được tẩm ướp, chế biến thơm phức, che đi những mùi tanh của thịt sống và máu trên bàn tiệc. Vì vậy phóng sinh là việc nên làm trong một cách tự nhiên.

Nhiều người nói rằng, phóng sinh thì chẳng giải quyết vấn đề gì, vì thả xong người khác lại bắt lại thì phóng làm gì, 

Có người lại nói, phóng sinh mang tội vì thả các loài đến một nơi xa lạ, giống như  một người đang bị cầm tù ở Anh, bạn đến giúp họ tự  do nhưng lại vứt bỏ họ sang Mỹ – một nơi mênh mông, xa lạ thì còn khiến họ khốn đốn hơn…

Những phát biểu trên thường là do chưa thấy và hiểu được các bước phóng sinh đầy đủ. Và chưa hiểu hết là lý nhân quả.

Một nghi thức phóng sinh theo Phật giáo Kim Cương Thừa gồm những bước cơ bản và ý nghĩa như  sau:

1. Từ tâm bi mẫn (tâm bồ đề), đặt mình vào vai của loài khác để cảm nhận nỗi đau xót, sợ hãi của các loài mà tìm cách giải cứu cho các loài mà hành động một cách tự nhiên dựa trên sự thương xót vô vàn để cứu độ, không phải phóng sinh dựa trên ý nghĩ tôi phóng sinh để được công đức, phước báu.

2. Làm lễ quy y, hướng dẫn quy y cho các loài được phóng sinh. Được làm người là một ân huệ lớn lao và vô cùng khó khăn để có được thân người. Khi bạn mở được các giác quan đặc biệt như khả năng thiên nhãn thấu thị, nhìn được các kiếp trước, vòng tiến hóa của mỗi sinh vật, bạn sẽ thấy rất rõ điều này. Trong sự thấu thị này bạn sẽ biết và cảm nhận rõ ràng các loài vật cũng có cảm xúc, tư  duy thấu hiểu dù chỉ là ý nghĩ của con người phát ra. Ví dụ, loài chó chỉ cần người hay ăn thịt chó và hay đánh chó đi gần chúng, chúng sẽ gầm gừ, tránh xa, thậm chí còn cắn người đó dữ  dội.

Vì thế, các loài vật sẽ nghe được, cảm nhận được tâm, lời cầu nguyện, hướng dẫn của bạn. Khi phóng sinh, bạn nói với chúng: 

“Các con (các ngươi) đã mất tự  do và phải sống trong sự nguy hiểm, mất chủ động này quá nhiều vì thế hôm nay ta thả tự  do cho các con. Nhưng dù có tự  do chốc lát này có được thì các con cũng sẽ lại vẫn có thể bị bắt lại trong cái thân loài vật này. Vì thế, hãy nghe ta, ta sẽ gieo duyên cho các con với Phật pháp – là con đường vĩnh viễn thoát khỏi khổ đau và sự  ràng buộc, con đường mà ngay cả loài người và cả các vị Thiên trên các cõi Trời huy hoàng cũng khát khao tìm gặp. Hãy làm theo lời ta nói, để ta giúp con gieo duyên với Phật:

Sangyê La Kyab Suchio

Namo Buddha Ya

Namo Phật!

Sula Kyab Suchio

Namo Dharma Ya

Namo Pháp!

Gendula Kyab Suchio

Namo  Sangha Ya

Namo Tăng!

Con xin quy y Phật Pháp Tăng – Tam Bảo tôn quý!

Nguyện cho con đạt được sự  Giải Thoát vĩnh viễn khỏi khổ đau

Và sự luẩn quẩn của sự  sống luân hồi này.

Và con đường ngắn nhất để thành tựu mục đích này là giúp mọi người mọi loài cũng đến và đi trên con đường quy y Tam Bảo, Nguyện con sẽ dẫn dắt mọi người, mọi loài có duyên với con trên con đường Giải Thoát này!

3. Tụng Kinh Phật hay thần chú để câu thông lực gia trì của Chư  Phật giúp các loài được ân phước: Có thể tụng các câu chú như: Om Mani Padme Hum của Quán Âm Bồ Tát (108 lần), Om Benza Sattoa Hum của Phật thiền Kim Cương Tát Đỏa (108 lần), Om Ami Dewa Shơ (Hrih) của Phật Amitabha (A Di Đà) (108 lần). Om Ah Hum Vajra Guru Padma Siddhi Hum của Đạo Sư Liên Hoa Sinh (108 lần) hoặc bài Kim Cương Tát Đỏa dài: Om Benza Sattoa Samaya Manu Palaya… (7-21 lần)

4. Phóng Sinh.

5. Đốt 2 linh phù là các pháp bảo của Mật tông để giúp quá trình phóng sinh được mạnh mẽ hơn. Trên linh phù in hình đồ hình Mạn đà la của chư Phật và các câu minh chú của chư  Phật theo mẫu ký tự  cổ. Hai tờ linh phù này thường đi đôi với nhau, một tờ tròn để cầu siêu, một tờ vuông để cầu an. Khi phóng sinh, muốn cầu an cho người sống, cầu siêu cho người chết thì ghi tên những người đó cùng ngày tháng năm sinh lên mặt sau của linh phù tương ứng rồi đốt để hóa, hoặc thả linh phù xuống nước.

 Việc sử dụng Linh phù này hoàn toàn khác với việc đốt vàng mã. 

Nguyên lý giải thoát của các Pháp bảo nói chung là tác động tới tâm thức còn mê lầm của chúng sinh, nhắc nhở họ nhớ tới Chân Tâm, bản tính trong suốt, thanh tịnh, không nhiễm ô của mọi chúng sinh mà bởi vì mê lầm nên họ không nhận ra. 

6. Hồi hướng công đức: Gửi những ích lợi này tới những người bạn muốn cầu nguyện cho họ được ích lợi.

Có thể tham khảo lời hồi hướng này:

” Cầu mong cho chúng sinh bao la như hư không vô tận
Tiếp nhận trực tiếp Ba Thân của Trí Tuệ Giác Ngộ mà không cần cố gắng.
Cầu mong chúng sinh cha mẹ của sáu cõi, không dư  sót,
Đồng thời được giải thoát vào trạng thái giải thoát của đại viên mãn nguyên sơ”.

7.  Bằng sự tỉnh giác và ý thức sáng tỏ khi hành động của một người có trí tuệ Phật pháp, sau khi hành động tốt mà không bám chấp vào cái tốt để tránh phình chướng bản ngã, cái tôi cho mình là người tốt, mình làm việc tốt sinh kiêu ngạo và che mờ trí tuệ tự  nhiên. Người phóng sinh quên hành động của mình, để tâm thức được trở về bản tính rỗng không, rộng khắp của nó. Không người phóng sinh, không đối tượng được phóng sinh. Có thể đọc bài thần chú Duyên Sinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni để nhắc nhở những chúng sinh hữu hình, vô hình về điều này:

“Om Yê Dharma Hetu Prabhava

Hetun Teshan Tathagato Hya Vada

Teshan Tsa Yô Nirodha

Ewam Wadi Maha Shramanaye Svaha!”

Vạn Pháp Do Duyên Sinh, 

Duyên Diệt Vạn Pháp Diệt

Đức Phật Đại Sa Môn, 

Hằng Giáo Huấn Như Vậy!

Linh Phù Gia Trì Siêu Độ

Linh Phù Gia Trì An Lành